Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
The transcription is a conversation between Xá Lợi Tử and Thiện Hiện about the concept of "vô sanh" (non-arising) in Buddhism. Xá Lợi Tử asks if the Bồ Tát (Bodhisattvas) and their teachings are truly "vô sanh." Thiện Hiện confirms that both the Bồ Tát and their teachings are indeed "vô sanh." They continue discussing the idea of "vô sanh" in relation to various aspects of Buddhism, including Trí Nhất Thiết Trí and Pháp (Dharma). Xá Lợi Tử asks how it is possible for the Bồ Tát to attain Trí Nhất Thiết Trí if everything is "vô sanh." Thiện Hiện explains that although everything is "vô sanh," it does not mean that there is no attainment or manifestation. They discuss the nature of "vô Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 22 Quyển 539 Y Phẩm Diệu Hành 02 Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện Các Bồ Tát này thật sự vô sanh không? Thiện Hiện đáp Các Bồ Tát này đều thật sự vô sanh Xá Lợi Tử hỏi Chỉ có Bồ Tát là thật sự vô sanh, hay Pháp của Bồ Tát cũng thật sự vô sanh? Thiện Hiện đáp Pháp của Bồ Tát cũng thật sự vô sanh Xá Lợi Tử hỏi Chỉ có Pháp của Bồ Tát thật sự vô sanh, hay Trí Nhất Thiết Trí cũng thật sự vô sanh? Thiện Hiện đáp Trí Nhất Thiết Trí cũng thật sự vô sanh? Xá Lợi Tử hỏi Chỉ có Trí Nhất Thiết Trí là thật sự vô sanh, hay Pháp Trí Nhất Thiết Trí cũng thật sự vô sanh? Thiện Hiện đáp Pháp Trí Nhất Thiết Trí cũng thật sự vô sanh? Xá Lợi Tử hỏi Chỉ có Pháp Trí Nhất Thiết Trí là thật sự vô sanh, hay kẻ Phàm Phu cũng thật sự vô sanh? Thiện Hiện đáp Các loại Phàm Phu cũng thật sự vô sanh? Xá Lợi Tử hỏi Chỉ có loại Phàm Phu là thật sự vô sanh, hay Pháp của loại Phàm Phu cũng thật sự vô sanh? Thiện Hiện đáp Các Pháp của Phàm Phu cũng thật sự vô sanh? Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện Nếu các Bồ Tát đều thật sự vô sanh, Pháp của các Bồ Tát cũng thật sự vô sanh, Trí Nhất Thiết Trí thật sự vô sanh, Pháp Trí Nhất Thiết Trí cũng thật sự vô sanh, các loại Phàm Phu thật sự vô sanh, Pháp của các loại Phàm Phu cũng thật sự vô sanh. Như vậy thì làm sao Đại Bồ Tát có thể chứng đắc Trí Nhất Thiết Trí? Không lẽ Pháp vô sanh lại chứng Pháp vô sanh sao? Thiện Hiện đáp Ý tôi không nói trong Pháp vô sanh có chứng đắc, có hiện quán. Vì sao? Vì các Pháp vô sanh đều bất khả đắc. Xá Lợi Tử hỏi Vậy thì cho rằng Pháp sanh chính Pháp sanh, hay Pháp vô sanh chính Pháp vô sanh sao? Thiện Hiện đáp Ý tôi chẳng nói Pháp sanh chính Pháp sanh, cũng chẳng nói Pháp vô sanh chính Pháp vô sanh. Xá Lợi Tử hỏi Ý Ngài nói Pháp sanh chính Pháp vô sanh, hay nói Pháp vô sanh chính Pháp sanh? Thiện Hiện đáp Ý tôi chẳng nói Pháp sanh chính Pháp vô sanh, cũng chẳng nói Pháp vô sanh chính Pháp sanh. Xá Lợi Tử hỏi Nếu như vậy thì tất cả đều không đắc, không hiện quán sao? Thiện Hiện đáp Tùy có đắc, có hiện quán, nhưng không do hai Pháp này mà chính. Chỉ theo lời nói giả lập của Thế Giang nên có đắc, có hiện quán. Chẳng phải trong Thắng Nghĩa có đắc, có hiện quán. Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện Ngài nói Pháp chưa sanh rồi sanh, hay nói Pháp đã sanh rồi sanh? Thiện Hiện đáp Ý tôi chẳng nói Pháp chưa sanh rồi sanh, cũng chẳng nói Pháp đã sanh rồi sanh. Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện Tôn giả đã nói Pháp vô sanh, muốn biện thuyết tướng vô sanh sao? Thiện Hiện đáp Tôi đã nói Pháp vô sanh, cũng chẳng muốn biện thuyết tướng vô sanh. Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện Đối với Pháp vô sanh nói lời vô sanh, nói vô sanh đây cũng vô sanh sao? Thiện Hiện đáp Đúng vậy! Đúng vậy! Đối với Pháp vô sanh nói lời vô sanh, Pháp và lời nói đều nghĩa vô sanh, tùy theo thế tục mà nói tướng vô sanh. Khi ấy, Xá Lợi Tử khen Thiện Hiện Trong những đệ tử thuyết Pháp, Ngài là bậc nhất, trừ Phật Thế Tôn không có ai sánh kịp. Vì sao? Vì tùy theo lời gạn hỏi về các Pháp môn đều có thể trả lời thông suốt, nhưng đối với Pháp tánh vẫn không biến đổi. Thiện Hiện đáp Đối với tất cả Pháp, đệ tử Phật đều không chấp trước. Vì vậy, có thể tùy lời gạn hỏi mà trả lời đều được tự tại vô ngại, đối với Pháp tánh vẫn không biến đổi. Vì sao? Vì tất cả Pháp không chỗ nương tựa. Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện Tôn Giả đã nói Pháp yếu thâm sâu như vậy do hoài lực Ba-la-mật-đa nào mà được điện thuyết ấy. Thiện Hiện đáp Pháp yếu thâm sâu như vậy đều do hoài lực Bác Nhã Ba-la-mật-đa mà được thành biện. Vì sao? Vì tất cả Pháp không chỗ nương tựa đều nhờ Bác Nhã Ba-la-mật-đa nên đạt tất cả Pháp không trần nương tựa. Đại Bồ-Tát nào nghe thuyết Bác Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như vậy tâm không nghi ngờ, cũng không mê mùi, thì nên biết Đại Bồ-Tát này đã an trụ trong ấy thường không xa lìa, nghĩa là đem vô sở đắc làm phương tiện, thường xiên cứu vớt tất cả hữu tình. Nên biết Đại Bồ-Tát này đã thành tự tác ý thu thắng. Đó gọi là tác ý tương ưng với Đại Bi. Khi ấy, Xá Lợi Tử bảo Thiện Hiện Đại Bồ-Tát nào an trụ như vậy thường không xa lìa thành tự tác ý tương ưng với Đại Bi. Như vậy, thì tất cả hữu tình cũng thành Đại Bồ-Tát hết sao? Vì sao? Vì tất cả hữu tình cũng an trụ và tác ý như vậy, thường không xa lìa. Bác Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tác ý Đại Bi đều có tánh bình đẳng. Vì vậy, các Đại Bồ-Tát cùng với tất cả hữu tình đều không khác nhau chứ? Thiện Hiện Đát Hay thay? Hay thay? Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, ông đã hiểu đúng ý tôi đã nói, mặc dù hỏi tôi nhưng cũng giúp tôi hiểu rõ ý nghĩa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì hữu tình vô tự tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tự tánh. Hữu tình vô sở hữu, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô sở hữu. Hữu tình xa lìa, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng xa lìa. Hữu tình vắng lặng, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vắng lặng. Hữu tình bất khả đắc, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng bất khả đắc. Hữu tình vô giác tri, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô giác tri. Do nhân duyên này, nên các Đại Bồ-Tát đối với trụ và tác ý như vậy thường không xa lìa, cùng với các hữu tình cũng không khác nhau, vì tất cả Pháp và các hữu tình đều hoàn toàn không, không có khác nhau. Đại Bồ-Tát nào có thể biết như vậy thì không bị chướng ngại, thật sự tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Bây giờ, Thế Tôn khen thiện hiện, Hây Thầy! Hây Thầy! Ông đã giảng thuyết, chỉ bày bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa cho các Đại Bồ-Tát. Đây đều là do sức quai thần của Như Lai. Nếu người nào muốn giảng thuyết, chỉ bày bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa cho các Đại Bồ-Tát thì cũng giảng thuyết, chỉ bày như ông đã giảng thuyết. Đại Bồ-Tát nào muốn học bác nhã Ba-la-mật-đa đều nên theo lời ông đã nói mà học. Đại Bồ-Tát nào học bác nhã Ba-la-mật-đa như lời ông nói thì sẽ mau chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi lạc cho tất cả hữu tình đến tận đời vị Lai. Vì vậy, chúng Đại Bồ-Tát muốn chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đề thì nên xiên năng tinh tấn tu học bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này. 2. Phẩm Đế Thích Bây giờ, Trời Đế Thích cùng bốn vạn thiên tử ở cõi trời thứ ba mươi ba đồng đến câu hội. Bốn thiên vương hộ đời cùng hai vạn thiên tử, trời tứ đại thiên vương đồng đến câu hội. Đại phạm thiên vương, chủ cõi sách ha cùng một vạn phạm chúng đồng đến câu hội. Như vậy, cho đến trời ngũ tịnh cư đều cùng vô lượng trăm ngàn thiên tử đồng đến câu hội. Các thiên chúng này tịnh nghiệp cảm lực dị thuộc ánh sáng nơi thân, tuy có thể chiếu soi nhưng vì oai lực ánh sáng nơi thân của như Lai nên không thấy ánh sáng của họ. Khi ấy, Trời Đế Thích thưa thiện hiện Này có vô lượng thiên chúng trong tam thiên đại thiên thế giới đồng đến câu hội, muốn nghe đại đức giảng thuyết, khai thị bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, dạy bảo giáo giới các đại Bồ-tát đối với bác nhã Ba-la-mật-đa mau được trốt tráo. Huy sinh đại đức thương Pháp chỉ vậy, các đại Bồ-tát làm sao trụ vào bác nhã Ba-la-mật-đa? Các đại Bồ-tát làm sao học được bác nhã Ba-la-mật-đa? Bây giờ, thiện hiện bảo Trời Đế Thích Ta nhờ sức quai thần của Phật, thuận theo ý như la giảng thuyết, khai thị bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa cho chúng đại Bồ-tát. Như vậy, chúng đại Bồ-tát có thể ở trong ấy nên trụ như vậy, nên học như vậy. Thiên chúng các ông đều nên lắng nghe, chú tâm suy nghĩ kỹ. Này Kiều Thi Ca Chúng trời các ông, người chưa phát tâm vô thượng Bồ-đề này nên phát tâm. Những người đã nhập chánh tánh ly xanh của thanh văn, độc giác không có thể phát tâm Bồ-đề nữa. Vì sao? Này Kiều Thi Ca Vì những người kia đã từ lâu bị ngăn cách trong vòng sanh tử, nên trong ấy nếu có người có thể phát được tâm vô thượng Bồ-đề thì tôi cũng tùy hỷ. Vì sao? Vì có các thắng nhân nên cầu thắng Pháp. Tôi chắc chắn chẳng bị trở ngại sự thắng thiện của họ. Bây giờ, Thế Tôn khen thiện hiện Hay thay Hay thay Này ông đã giảng thuyết, khai thi Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa cho chúng Đại Bồ-Tát. Cũng có thể khuyên bảo các Đại Bồ-Tát làm cho họ vui mừng siêng năng tu Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Cụ Thọ thiện hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Còn đã biết ân như thế lễ nào không đền trả? Vì sao? Vì Chiêu Phật và các đệ tử đời quá khứ đã giảng thuyết bố thí cho đến Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa cho chúng Đại Bồ-Tát, dạy bảo giáo giới nhất Thọ Hồ Trị. Bây giờ, Thế Tôn cũng ở trong ấy học phạm hành thanh tịnh. Này chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đề, vận chuyển pháp luôn vi diệu, làm lợi ích cho chúng con. Nên ngày nay con theo lời Phật dạy, giảng thuyết bố thí cho đến Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa cho chúng Đại Bồ-Tát, dạy bảo giáo giới, giúp đỡ Hồ Trị, làm cho siêng năng tu học phạm hành thanh tịnh, mong chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đề, làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình đến tận cùng đời vị lai. Đó là gọi là đền trả ơn Đức chư Phật. Cụ Thọ Thiện Hiền Bảo Đế thích Ông hỏi các Đại Bồ-Tát làm sao nên trụ, nên học Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa ấy? Hãy lắng nghe kỹ, tôi sẽ vì ông mà nói về các Đại Bồ-Tát đối với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên học tướng như vậy, nên trụ tướng như vậy. Này Kiều Thi Ca Các Đại Bồ-Tát mặc áo giáp Đại Công Đức, nên đền tướng không an trụ vào Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Không nên trụ sắc, không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức. Không nên trụ vào quả dự lưu, không nên trụ vào quả nhất lai, bất hoàng, à-la-háng. Không nên trụ độc giác Bồ-Đề, không nên trụ vào quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đề của Chiêu Phật. Không nên trụ đây là sắc, không nên trụ đây là thọ, tưởng, hành, thức. Không nên trụ đây là quả dự lưu, không nên trụ đây là quả nhất lai, bất hoàng, à-la-háng. Không nên trụ đây là độc giác Bồ-Đề, không nên trụ đây là quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đề của Chiêu Phật. Không nên trụ sắc hoặc thường hoặc vô thường, không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường. Không nên trụ sắc hoặc vui hoặc khổ, không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức hoặc vui hoặc khổ. Không nên trụ sắc hoặc ngã hoặc vô ngã, không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã hoặc vô ngã. Không nên trụ sắc hoặc tỉnh hoặc bất tỉnh, không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức hoặc tỉnh hoặc bất tỉnh. Không nên trụ sắc hoặc không hoặc chẳng không, không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức hoặc không hoặc chẳng không. Không nên trụ vào quả dự lưu hoặc vô vi hiển lộ, không nên trụ vào quả nhất lai, bất hoàng, à-la-háng hoặc vô vi hiển lộ. Không nên trụ vào quả độc giác bồ đề hoặc vô vi hiển lộ, không nên trụ vào quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật hoặc vô vi hiển lộ. Không nên trụ vào quả dự lưu là chân rùng phước đáng thọ sự cúng dương, không nên trụ vào quả dự lưu còn bảy lần sanh trở lại mới vào niết bàn. Không nên trụ vào quả nhất lai là chân rùng phước đáng thọ sự cúng dương, không nên trụ vào quả nhất lai chưa được trốt tráo, còn một lần sanh trở lại chịu khổ biên tế. Không nên trụ vào quả bất hoàng là chân rùng phước đáng thọ sự cúng dương, không nên trụ vào quả bất hoàng sau khi diệt độ chẳng còn sanh trở lại. Không nên trụ vào quả à-la-háng là chân rùng phước đáng thọ sự cúng dương, không nên trụ vào quả à-la-háng nhất định đời này nhập vào vô duyên niết bàn. Không nên trụ quả độc giác là chân rùng phước đáng thọ sự cúng dương, không nên trụ quả độc giác vượt hơn địa vị thanh văn, chẳng đến địa vị Phật mà nhập niết bàn. Không nên trụ quả Phật là chân rùng phước đáng thọ sự cúng dương, không nên trụ quả Phật vượt qua địa vị Phạm Phu, vượt qua địa vị Thanh Văn, vượt qua địa vị độc giác, vượt qua địa vị Bồ Tát, an trụ vào địa vị Phật, làm lợi ích an vui cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, được nhập vào cảnh giới vô dư y bát niết bàn. Không nên trụ quả Phật độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đối với tam thừa đều được nhất định, làm các Phật sự như vậy rồi nhập vào cảnh giới vô dư y bát niết bàn. Khi ấy, xá lợi tử suy nghĩ, Đại Bồ Tát nào khi hành bát nhã ba la mật đa sâu xa thì không nên trụ vào quả Phật, an trụ quả Phật làm lợi ích an vui cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình được nhập vào cảnh giới vô dư bát niết bàn. Không nên trụ quả Phật độ thoát vô lượng, vô biên hữu tình đối với tam thừa đều được nhất định, làm các Phật sự như vậy rồi nhập vào cảnh giới vô dư y bát niết bàn. Cũng không nên trụ vào các Pháp khác, chúng Đại Bồ Tát này phải trụ ở đâu? Cụ Thọ Thiện Hiện nhờ oai thần của Phật, viết tâm niệm của xá lợi tử, liền bảo. Ý tôn giả thế nào? Tâm của các Đức như Lai nên an trỗ nào? Khi đó, xá lợi tử bảo Thiện Hiện. Tâm của các Đức như Lai đều không trổ trụ. Vì sao? Vì tâm không trổ trụ nên gọi là như Lai ứng chánh đẳng giác. Nghĩa là không trụ cõi hữu vi, cũng không trụ cõi vô vi, cũng chẳng phải không trụ cõi hữu vi, vô vi. Khi ấy, Cụ Thọ Thiện Hiện bảo xá lợi tử. Các Đại Bồ Tát khi hành bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa cũng lại như vậy. Như chư như Lai ứng chánh đẳng giác đối với tất cả pháp tâm không trổ trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Này xá lợi tử! Các Đại Bồ Tát đối với bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như chư như Lai ứng chánh đẳng giác, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên trụ như vậy, nên học như vậy. Bây giờ, trong chúng có các thiên tử suy nghĩ, như câu thần chú, các lời nói khác nhau của những dược soa, tuy là ẩn mật, kính đáo nhưng chúng ta còn có thể hiểu được. Đại Đức thiện hiện đối với bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy đã dùng nhiều lời lẽ để chỉ rõ, nhưng tất cả chúng ta vẫn không thể hiểu được gì cả. Cụ thọ thiện hiện viết tâm niệm của các thiên tử, liền bảo Này các thiên tử! Những lời tôi nói, các ông không hiểu được sao? Các thiên tử thưa! Đúng vậy! Đúng vậy! Đại Đức đã nói ý nghĩa của bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, đối với chúng tôi đều không hiểu được gì cả. Cụ thọ thiện hiện bảo Tôi đã từng đối với ý nghĩa tương ưng với bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này không nói, không chỉ bày, các ông không nghe thì hiểu cái gì. Vì sao? Này các thiên tử! Vì trong ý nghĩa tương ưng với bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đều liều văn tử, lời nói. Khi ấy, các thiên tử lại nghĩ, Đại Đức thiện hiện ở trong nghĩa bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này, tuy lại đem các thứ phương tiện để nói rõ, muốn làm cho dễ hiểu, nhưng nghĩa lý ấy lại càng quá sâu xa, lại quá vi tế, khó có thể so lường. Cụ thọ thiện hiện biết tâm của các thiên tử, liền bảo Thiên tử nên biết Sắc không sâu xa, không vi tế Thọ, tưởng, hành, thức không sâu xa, không vi tế Quả dự lưu không sâu xa, không vi tế Quả nhất lai, bất hoạn, à la hãng không sâu xa, không vi tế Độc giác bồ đề không sâu xa, không vi tế Quả vị vô thượng chánh đẳng bồ đề của chư Phật không sâu xa, không vi tế Vì sao? Này các thiên tử! Vì tất cả Pháp sâu xa, vi tế, người nói, người nghe đều bất khả đắc Bởi vậy, các ông đối với Pháp đã nói nên tu hành nhẫn bền chắc Thiên tử nên biết Những người nào muốn chứng, muốn trụ quả dự lưu, nhất lai, bất hoạn, à la hãng, độc giác bồ đề, quả vị vô thượng chánh đẳng bồ đề của chư Phật, cần phải nương vào sự nhẫn này mới có thể chứng trụ được Khi đó các thiên tử suy nghĩ, đại đức thiện hiện muốn vì hữu tình nào, thuyết những Pháp nào Cụ thọ thiện hiện biết tâm niệm của các thiên tử, liền bảo Thiên tử nên biết Này tôi muốn vì hữu tình như huyển, như hóa, như mồng, cũng lại giảng thuyết Pháp như huyển, như hóa, như mồng Vì sao? Này các thiên tử! Như vậy người nghe Pháp đã được nói, không nghe, không hiểu, không chỗ tu chính Khi ấy các thiên tử hỏi thiện hiện Người nói, người nghe và Pháp được nói ra đều như huyển, như hóa, như mồng đã thấy không? Thiện hiện đáp Đúng vậy Đúng vậy Hữu tình như huyển, vì người như huyển, nói Pháp như huyển Hữu tình như hóa, vì người như hóa, nói Pháp như hóa Hữu tình như mộng, vì người như mộng, nói Pháp như mộng Tất cả hữu tình và tất cả Pháp đều như cảnh huyển hóa, như mồng Vì tất cả Pháp, tất cả hữu tình cũng huyển hóa, cũng như mồng Không hai, không khác Thiên tử nên biết Những bậc dự lưu và quả dự lưu Hoặc bậc nhất lai và quả nhất lai Hoặc bậc bất hoàng và quả bất hoàng Hoặc A-la-hán và quả A-la-hán Hoặc các độc giác và độc giác bồ đề Hoặc chiêu như lai ứng chánh đẳng giác và quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chiêu Phật đều như cảnh huyển hóa, như mộng Khi ấy, các thiên tử hỏi thiền hiện Lẽ nào chiêu như lai ứng chánh đẳng giác và quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chiêu Phật cũng như huyển hóa, như mộng đã thấy sao? Thiền hiện đắt Đúng vậy Đúng vậy Cho đến Niết Bàn ta cũng nói là như huyển hóa, như mộng đã thấy Khi ấy, các thiên tử hỏi thiền hiện Không lẽ Niết Bàn cũng như huyển hóa, như mộng đã thấy sao? Thiền hiện đắt Giả sử lại có Pháp nào hơn Niết Bàn, tôi cũng nói là như huyển hóa, như mộng đã thấy Vì sao? Vì cảnh huyển hóa, như mộng cùng tất cả Pháp, cho đến Niết Bàn không hai, không khác, đều bất khả đắt, bất khả thuyết Bây giờ, xá lợi tử, chấp đại tạng, mãng tử tử, đại ẩm quang V, V, cùng hỏi thiền hiện Đại Đức đã nói Bát Nhã Palamudda sâu xa như vậy có người nào có thể tính thọ không? Cụ thọ Khánh Hỷ Thưa cùng các đại thanh văn xá lợi tử Có các đại Bồ Tát bất thối chuyển đối với Bát Nhã Palamudda này có thể tinh hiểu sâu xa được Lại có vô lượng đại A-La-Hán đầy đủ chánh kiến, đoạn tận các lậu, đối với Bát Nhã Palamudda này cũng có thể tính thọ được Cụ thọ thiền hiện đã nói Bát Nhã Palamudda sâu xa như vậy không ai tính thọ được Vì sao? Vì trong đây không có pháp rõ ràng có thể chỉ bày và có thể thành lập Đã thật sự không có pháp rõ ràng có thể chỉ bày và có thể thành lập nên người tính thọ cũng không thể có Khi ấy, trời đế thích suy nghĩ, đại đức thiền hiện rúi trận mưu pháp, ta nên hóa ra các đoá hoa nhịm màu dân đại cúng dương Suy nghĩ như vậy rồi, liền hóa ra các đoá hoa nhịm màu đại lên thiền hiện Cụ thọ thiền hiện suy nghĩ những đoá hoa này chưa từng thấy có ở chỗ chiêu thiên Hoa nhịm màu này nhất định chẳng phải do đất nước, có cây xanh ra, mà do tâm chiêu thiên hóa xanh Khi ấy, trời đế thích biết tâm niệm của thiền hiện, liền nói Hoa đã rải này thật chẳng phải do đất nước, có cây xanh ra, cũng chẳng phải do tâm chiêu thiên hóa xanh Vì sao? Vì hoa đã rải này tánh vốn vô xanh Bây giờ, thiền hiện bảo đế thích Hoa này không xanh, tức chẳng phải hoa Khi ấy, trời đế thích thầm nghĩ, trí tuệ của đại đức thiền hiện thật là sâu xa, chẳng hoài giả danh mà nói thật nghĩa Nghĩ như vậy rồi, liền thưa thiền hiện Đúng vậy! Đúng vậy! Như tôn giả đã dạy, các đại Bồ Tát đối với các Pháp đều nên theo lời dạy của tôn giả mà học Cụ thọ thiền hiện bảo đế thích Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, các đại Bồ Tát đối với các Pháp nên theo lời dạy của ta mà học như vậy Này Kiều Thi Ca! Khi các đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học về sắc, chẳng học về thọ, tưởng, hành, thức Chẳng học về quả dữ lưu, chẳng học về quả nhất lai, bất hoàng, à la hán Chẳng học về độc giác bồ đề Chẳng học về quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật Nếu chẳng theo các quả vị này mà học, thì đây gọi là học trí nhất thiết trí của Chiêu Phật Nếu học được trí nhất thiết trí của Chiêu Phật thì chẳng học vô lượng, vô biên các Pháp khác Nếu học vô lượng, vô biên các Pháp khác, thì chẳng học sắc có tăng có giảm, cũng chẳng học thọ, tưởng, hành, thức có tăng có giảm Nếu chẳng học sắc có tăng có giảm, cũng chẳng học thọ, tưởng, hành, thức có tăng có giảm, thì chẳng học sắc có lấy có bỏ, cũng chẳng học thọ, tưởng, hành, thức có lấy có bỏ Nếu chẳng học sắc có lấy có bỏ, cũng chẳng học thọ, tưởng, hành, thức có lấy có bỏ, thì chẳng học tất cả Pháp có lấy có bỏ Nếu chẳng học tất cả Pháp có lấy có bỏ, thì chẳng học các Pháp có thể hộ trị, có thể diệt hoại Nếu chẳng học các Pháp có thể hộ trị, có thể diệt hoại, thì chẳng học trí nhất thiết trí có thể hộ trị, có thể diệt hoại Khi các Đại Bồ Tát học như vậy gọi là học trí nhất thiết trí một cách chân chánh, có thể mau chím đắc trí nhất thiết trí Khi ấy, xá lời tử hỏi thiền hiện Đại Bồ Tát nào chẳng học các Pháp có thể hộ trị, có thể diệt hoại, cũng chẳng học trí nhất thiết trí có thể hộ trị, có thể diệt hoại thì khi Đại Bồ Tát này học như vậy gọi là học trí nhất thiết trí một cách chân chánh, có thể mau chím đắc trí nhất thiết trí không? Thiền hiện đắc Đúng vậy Đúng vậy Đại Bồ Tát nào chẳng học các Pháp có thể hộ trị, có thể diệt hoại, cũng chẳng học trí nhất thiết trí có thể hộ trị, có thể diệt hoại thì khi Đại Bồ Tát này học như vậy gọi là học trí nhất thiết trí một cách chân chánh, có thể mau chím đắc trí nhất thiết trí vì đem vô sở đắc làm phương tiện Bây giờ, trời đế thích hỏi xá lời tử Sở học Bát Nhã Ba-la-mật-đa của các Đại Bồ Tát phải cầu ở đâu? Xá lời tử đáp Sở học Bát Nhã Ba-la-mật-đa của các Đại Bồ Tát nên y theo lời lễ của thiền hiện đã nói mà cầu Trời đế thích hỏi xá lời tử Nhờ thần lực của ai hỗ trợ để cho tôn giả nói lời như vậy? Xá lời tử đáp Nhờ thần lực của Như Lai hỗ trợ nên ta nói lời này Khi ấy, trời đế thích lại hỏi cụ thò xá lời tử Nhờ thần lực của ai hỗ trợ nên tôn giả thiền hiện có thể nói Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Xá lời tử đáp Nhờ thần lực của Như Lai hỗ trợ nên cụ thò thiền hiện có thể nói Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Bây giờ, thiền hiện bảo trời đế thích Ông hỏi nhờ thần lực ai hỗ trợ làm cho tôi có thể nói Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Này Kiều Thi Ca Ông nên viết, nhất định là nhờ thần lực của Như Lai hỗ trợ nên thiền hiện tôi có thể nói Bát Nhã Ba-la-mật-đa Này Kiều Thi Ca Ông đã hỏi, sở học Bát Nhã Ba-la-mật-đa của các Đại Bồ Tát phải cầu ở đâu? Này Kiều Thi Ca Sở học Bát Nhã Ba-la-mật-đa của các Đại Bồ Tát chẳng ở sắc mà cầu, cũng chẳng nên lì sắc để cầu Chẳng nên cầu ở thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng nên lì thọ, tưởng, hành, thức để cầu Vì sao? Vì sắc chẳng phải Bát Nhã Ba-la-mật-đa, cũng không lì sắc mà có Bát Nhã Ba-la-mật-đa Thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải Bát Nhã Ba-la-mật-đa, cũng không lì thọ, tưởng, hành, thức mà có Bát Nhã Ba-la-mật-đa Khi ấy, Trời Đế Thích Thư Thiện Hiện Có phải sở học Bát Nhã Ba-la-mật-đa của các Đại Bồ Tát là Đại Ba-la-mật-đa, là Vô Lượng Ba-la-mật-đa, là Vô Biên Ba-la-mật-đa không? Thiện Hiện đáp Đúng vậy! Đúng vậy! Này Kiều Thi Ca Sở học Bát Nhã Ba-la-mật-đa của các Đại Bồ Tát là Đại Ba-la-mật-đa, là Vô Lượng Ba-la-mật-đa, là Vô Biên Ba-la-mật-đa Vì sao? Này Kiều Thi Ca Vì sắc lớn nên biết Bát Nhã Ba-la-mật-đa cũng lớn, vì thọ, tưởng, hành, thức lớn nên biết Bát Nhã Ba-la-mật-đa cũng lớn Này Kiều Thi Ca Sắc vô lượng nên biết Bát Nhã Ba-la-mật-đa cũng vô lượng, thọ, tưởng, hành, thức vô lượng nên biết Bát Nhã Ba-la-mật-đa cũng vô lượng Này Kiều Thi Ca Sắc vô biên nên biết Bát Nhã Ba-la-mật-đa cũng vô biên, thọ, tưởng, hành, thức vô biên nên biết Bát Nhã Ba-la-mật-đa cũng vô biên Lại nữa, này Kiều Thi Ca Sở duyên vô biên nên biết Bát Nhã Ba-la-mật-đa cũng vô biên Này Kiều Thi Ca Sở duyên vô biên nên biết Bát Nhã Ba-la-mật-đa cũng vô biên là như thế nào? Nghĩa là đoạn trước, giữa, sau của tất cả Pháp đều bất khả đắc, nên gọi là vô biên Vì Pháp vô biên nên sở duyên cũng vô biên Bởi Bát Nhã Ba-la-mật-đa đây vô biên nên ta nói sở duyên vô biên nên biết Bát Nhã Ba-la-mật-đa cũng vô biên Lại nữa, này Kiều Thi Ca Tất cả Pháp vô biên nên biết Bát Nhã Ba-la-mật-đa cũng vô biên Này Kiều Thi Ca Tất cả Pháp vô biên nên biết Bát Nhã Ba-la-mật-đa cũng vô biên là sao? Nghĩa là biên giới của tất cả Pháp bất khả đắc Vì sao? Vì biên giới trước, sau, giữa của tất cả sát đều bất khả đắc Biên giới trước, sau, giữa của tất cả thọ, tưởng, hành, thức đều bất khả đắc Bởi biên giới trước, sau, giữa của Bát Nhã Ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc Nên ta nói tất cả Pháp vô biên nên biết Bát Nhã Ba-la-mật-đa cũng vô biên Lại nữa, này Kiều Thi Ca Tất cả hữu tình vô biên nên biết Bát Nhã Ba-la-mật-đa cũng vô biên Vì sao? Vì biên giới tất cả hữu tình bất khả đắc Nên ta nói tất cả hữu tình vô biên Nên biết Bát Nhã Ba-la-mật-đa cũng vô biên Khi ấy, Trời Đế thích hỏi Thiện Hiện Bạch Đại Đức Tất cả hữu tình vô biên nên biết Bát Nhã Ba-la-mật-đa cũng vô biên là sao? Thiện Hiện Đắc Này Kiều Thi Ca Không thể tính đến vô số loài hữu tình vì bất khả đắc Nên nói là tất cả hữu tình vô biên nên biết Bát Nhã Ba-la-mật-đa cũng vô biên Trời Đế thích thưa Vì nghĩ gì nên nói như vậy? Thiện Hiện Đắc Này Kiều Thi Ca Này tôi hỏi ông, tùy ý ông đáp Ý ông thế nào? Nói về hữu tình, những hữu tình là khái niệm về Pháp gì? Trời Đế thích thưa Nói về hữu tình, những hữu tình chẳng khái niệm về Pháp, cũng chẳng phải không khái niệm về Pháp Chỉ là giả danh, thuộc về vây mượn, thuộc về tên không có sự thật, thuộc về tên không có chủ, thuộc về tên không có quan hệ Thiện Hiện Bảo Này Kiều Thi Ca Ý ông thế nào? Ở trong kinh Bác Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này, vì hiển bày thật có hữu tình không? Trời Đế thích thưa Thưa Đại Đức Không thật Thiện Hiện Bảo Trong kinh Bác Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này đã chẳng hiển bày thật có hữu tình nên nói vô biên, vì trong ấy biên giới cũng bất xả đắc Này Kiều Thi Ca Ý ông thế nào? Trong kinh Bác Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này đã chẳng hiển bày thật có hữu tình không? Trời Đế thích thưa Thưa Đại Đức Không thật Vì sao? Vì các hữu tình bản tánh vốn tình, xưa nay vô sở hữu, chẳng phải vô sở hữu mà có sanh gì Thiện Hiện Bảo Do nghĩa này nên tôi nói là tất cả hữu tình vô biên nên biết Bác Nhã Ba-la-mật-đa cũng vô biên Này Kiều Thi Ca Do đây nên biết sở học Bác Nhã Ba-la-mật-đa của các Đại Bồ Tát nói là lớn, vô lượng, vô biên Bây giờ, trong hội trời Đế thích, các Phạm Thiên Vương Cõi Dục, Chiêu Thiên Cõi Sắc và Thần Tiên Thiên Nữ Cõi Đại Tự Tại vô cùng hoang hỷ, đồng thời ba lần nói lớn rằng Hay thay Hay thay Hay thay Vì có Phật tra đời nên tôn giả thiện hiện nhờ oai thần của Phật giảng thuyết, sai thì Pháp tánh vi diệu nhìn màu cho chúng tôi Pháp Bác Nhã Ba-la-mật-đa làm cho trời, người, Atula V.V. đều được lợi ích lớn Nếu Đại Bồ Tát có thể đối với Bác Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như vậy tu hành đúng như lời nói, luôn không xa lìa thì chúng tôi đối với các vị ấy sẽ cung chính cúng dường như Phật Thế Tôn Bây giờ, Phật bảo Chiêu Thiên Đúng vậy Đúng vậy Nếu Đại Bồ Tát nào đối với Bác Nhã Ba-la-mật-đa này đem vô sở đắc làm phương tiện có thể tu hành đúng như lời nói, luôn không xa lìa thì Chiêu Thiên các ông đều nên cúng dường như Phật Thế Tôn Chiêu Thiên nên biết, phương kia ta đối với Phật Nhiên Đăng, lúc ấy ở nơi ngã tư thuộc Vương Đô Liên Hòa, ta gặp Đức Phật Nhiên Đăng, liền dân năm cảnh hoa sen, trải tóc che buồn, trần cầu nghe chánh Pháp, đem vô sở đắc làm phương tiện, luôn không xa lìa Bác Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa và vô lượng, vô biên Phật Pháp khác Bây giờ, Phật Nhiên Đăng liền thỏ ký cho ta được quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, nói như vậy, này thiện nam tử Ở đời sau, trải qua vô số kiếp, trong thế giới hiện kiếp này ông sẽ được làm Phật hiệu lạ năng tịch như Lai ứng chánh đẳng giác, nói rộng cho đến Phật Thế Tôn, giảng thuyết kinh điển Bác Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, đổ vô lượng chúng Khi ấy, Chiêu Thiên đồng Bạch Phật, Bạch Thế Tôn, Bác Nhã Ba-la-mật-đa này thật là hy hữu, làm cho chúng đại Bồ Tát có thể mau chóng đưa đến trí nhất thiết trí, ở tận đời vi Lai làm lợi ích an vui cho loài hữu tình 3. Phẩm Cúng Dường Bảo Tháp không một Bây giờ, Thế Tôn biết những thiên thần ở cõi dục, cõi sắc và các bí sô, bí sô ni v.v., bốn chúng vân tập, cùng kính tính họ cùng làm minh chứng, liền quay lại trời để thiết bảo Này Chiêu Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v. nào đối với Bác Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng lý và tùy thuận giản quyết cho người khác một cách động đải thì nên biết tất cả ác ma, người chẳng phải người đều không thể làm hại những người này được, tất cả tai nạn đều không đưa đến, thân tâm an vui, không bệnh, sống lâu Lại nữa, này Chiêu Thi Ca! Các thiên tử nào đã phát tâm quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, đối với Bác Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chưa lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng lý thì nên đi đến chỗ thiện nam tử, thiện nữ v.v. này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng Bác Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, tư duy đúng lý, ý nghĩa sâu xa cho được trốt tráo, rồi tuần tự nói cho người khác Lại nữa, này Chiêu Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v. nào đối với Bác Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng lý thì ở nơi nhà trống, ở chỗ đồng vắng, hoặc ở nơi đường hiểm và những chỗ nguy nang, các thiện nam tử, thiện nữ v.v. này vẫn không hoảng hốc trung sợ, rỡn tóc gáy, vì được Chiêu Thiên, thiện thần thường đến ủng hộ Khi ấy, bốn đại thiên vương và thiên chúng kia chấp tay cung kính Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Các thiện nam, thiện nữ v.v. nào đối với Bác Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, viên chép, giảng thuyết, truyền bá trọng đại thì chúng con thường theo cung kính hộ trì, không cho tất cả tai nạn xâm phạm. Khi ấy, Trời Đế Thích và các thiên chúng chấp tay cung kính Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Các thiện nam, thiện nữ v.v. nào đối với Bác Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, viên chép, giảng thuyết, truyền bá trọng đại thì chúng con thường theo cung kính hộ trì, không cho tất cả tai nạn xâm phạm. Khi ấy, Phạm Thiên Vương và các Phạm chúng chấp tay cung kính Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Các thiện nam, thiện nữ v.v. nào đối với Bác Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, viên chép, giảng thuyết, truyền bá trọng đại thì chúng con thường theo cung kính hộ trì, không cho tất cả tai nạn xâm phạm. Khi ấy, Trời Đế Thích Bạch Phật Bạch Thế Tôn Thật là kỳ lạ Bạch Thiện Thệ Thật là kỳ lạ Các thiện nam, thiện nữ v.v. nào đối với Bác Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, viên chép, giảng thuyết, truyền bá trọng đại thì được đầy đủ công đức hiện pháp như vậy. Các thiện nam, thiện nữ v.v. nào hộ trì Bác Nhã Ba-la-mật-đa thì có được đầy đủ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bác Nhã Ba-la-mật-đa không? Lúc ấy, Thế Tôn Bảo Trời Đế Thích Đúng vậy! Đúng vậy! Này Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v. nào tiếp nhận Bác Nhã Ba-la-mật-đa thì đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa. Lại nữa, này Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v. nào đối với Bác Nhã Ba-la-mật-đa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, viên chép, giảng thuyết, truyền bá trọng đại đều được công đức? Này ông lên lắng nghe, chú tâm tư duy, ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng thuyết. Trời Đế Thích Thưa! Cuối sinh ngày vậy, chúng con rất muốn nghe. Bây giờ, Phật dạy Trời Đế Thích! Này Kiều Thi Ca! Nếu có các ác ngoại đạo, phạm chí, hoặc các ác ma và quyến thủ của ma, hoặc là những kẻ tăng thường mạng bạo ác khác đến chỗ Đại Bồ Tát này muốn làm những việc không lợi ích, khi họ vừa móng tâm liền gặp tai họa, chắc chắn bị tiêu diệt, không được tội nguyện. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Bởi vì các thiện nam tử, thiện nữ V.V. này đối với bác nhã ba la mật đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá trọng đại nên có thể làm cho kẻ ác tâm tử gặp tai họa, không được tội nguyện. Lại nữa, này Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ V.V. nào đối với bác nhã ba la mật đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá trọng đại thì ở nơi chống ấy, nếu có ác ma và quyến thuộc của ma, hoặc là các ngoại đạo, phàm chí và kẻ tăng thường mạng độc ác khác ganh ghét chánh pháp, muốn làm chứng ngại, gạn hỏi, chống bán V.V. sẽ mau bị tiêu diệt. Tuy họ có muốn làm những việc ác này nhưng không bao giờ thành công được. Nếu họ chỉ nghe qua tiếng bác nhã thì cũng được đoạn trừ các điều ác, dần dần phát sanh công đức, sau nương vào tam thừa được chấm dứt sự khổ, thoát khỏi đường ác, sanh trong cõi trời, người. Các thiện nam, thiện nữ V.V. nào đối với bác nhã Palamuddha sâu xa chí tầm lắng nghe, thọ trị, đọc tụng, xuyên năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép giảng thuyết, truyền bá trọng đại thì được công đức thù thắng như vậy. Như có cây thuốc thần tên là Ma-khi, chất liệu của thuốc này có thể tiêu các chất độc. Thuốc thần như vậy, tùy sanh sản chỗ nào, các loại trùng độc đều chẳng dám đến gần. Ví như có rắn độc to lớn đi kiếm mồi, gặp các loại sát muốn mổ nuốt, các loại kia sợ chết chạy đến chỗ thuốc thần. Rắn nghe hơi thuốc liền thối lui. Vì sao? Vì thuốc thần như vậy có năng lực lớn, có thể cứu vớt thân mạng, diệt trừ các chất độc. Thân lực của bác nhã Balamuddha cũng lại như vậy. Các thiện nam, thiện nữ v.v. nào chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, từ duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng đại thì các ma đối với đại Bồ Tát muốn làm việc ác. Nhờ sức quay thần của bác nhã Balamuddha này nên các việc ác kia nơi chỗ ấy đều biến mất, không hại được. Vì sao? Này kêu thi ca. Vì đại thần lực của bác nhã Balamuddha sâu xa này có thể tiêu trừ các ác, tăng trưởng thiện pháp. Lại nữa, này kêu thi ca. Các thiện nam, thiện nữ v.v. nào đối với bác nhã Balamuddha này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, từ duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng đại thì Trời Tứ Đại Thiên Vương và Trời Đế Thích, Đại Phạm Thiên Vương chủ cõi kham nhẫn, Trời Tịnh Cư v.v. cùng các thiện thần thường đến ủng hộ, không cho tất cả tai nạn xâm phạm, sự mong cầu đúng pháp đều được đầy đủ. Các đức như lai ứng chánh đẳng giác trong hiện tại khắp mười phương thế giới cũng thường hộ niệm, làm cho điều ác tiêu diệt, thiện pháp tăng trưởng. Lại nữa, này kêu thi ca. Các thiện nam, thiện nữ v.v. nào có thể đối với bác nhã ba la mật đa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, từ duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng đại thì các thiện nam tử, thiện nữ v.v. này nhờ nhân duyên đây nên lời nói oai nghiêm, người nghe đều cung kính tinh nhận, nói lời vừa đủ, không nói ôn ao. Bền lòng giúp đỡ bạn lành, trả ơn sâu dày, không bị tham, ganh, hờn, giận, phú não, vua nịnh, kêu mạng v.v. tìm ẩn trong tâm, che lấp tâm tánh. Vì sao? Này kêu thi ca. Vì các thiện nam tử, thiện nữ v.v. này nhờ oai lực của bác nhã ba la mật đa sâu xa tăng trưởng, điều phục thân tâm, làm cho họ xa lịa tham, sơn, si, tùy nguyên trói buộc. Các thiện nam tử, thiện nữ v.v. này đầy đủ chánh niệm, từ, bi, hỉ, xã, luôn suy nghĩ. Ta không nên theo thế lực tham lam, nếu theo thế lực kia thì nghẹo cùng, hèn kém và sự bố thí không được viên mãng. Ta không nên theo thế lực phá giới, nếu theo thế lực kia thì đọa vào các đường ác và tình giới không được viên mãng. Ta không nên theo thế lực sân giận, nếu theo thế lực kia thì phải khuyết các căng, hình mạo xấu xí, không đủ sắc thân viên mãng của Bồ Tát, cũng lại không thể viên mãng an nhẫn. Ta không nên theo thế lực lười biến, nếu theo thế lực kia thì không thể tu đạo Bồ Tát thù thắng, cũng không thể viên mãng tinh tấn tăng trưởng. Ta không nên theo thế lực tán loạn, nếu theo thế lực kia thì không thể tu thắng định của Bồ Tát, các tịnh lự không được viên mãng. Ta không nên theo thế lực ngu si, nếu theo thế lực kia thì thắng tuệ không được viên mãng, chẳng vượt hơn các địa vị thanh văn, độc giác, cũng là được quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Vì vậy, nên này ta không nên theo thế lực tham lam v.v. Này Triều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v. này do suy nghĩ như vậy nên thường được chánh niệm, các ác phiền não chẳng che lắp nơi tâm. Này Triều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v. nào nếu đối với bác nhã Ba-la-mật-đa chỉ cầm lắng nghe, thọ trị, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chết, giảng thuyết truyền bá trọng cải thì được công đức thu thắng lợi ít như vậy.