Home Page
cover of kinhdaibatnha (160)
kinhdaibatnha (160)

kinhdaibatnha (160)

Phuc Tien

0 followers

00:00-38:46

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech

Audio hosting, extended storage and much more

AI Mastering

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 7 Quyển 160 ít ít ít phẩm so sánh công đức 58 Lại nữa, Kiều Thi Ca Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân về, về, vì người phát tâm vô thường bồ đề, tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán địa giới hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì địa giới và tự tánh của địa giới là không, thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không. Tự tánh của địa giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, địa giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thủy, hỏa, phong, không, thức giới đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có địa giới V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán địa giới hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì địa giới và tự tánh của địa giới là không, thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không. Tự tánh của địa giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, địa giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thủy, hỏa, phong, không, thức giới đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có địa giới V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán địa giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì địa giới và tự tánh của địa giới là không, thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không. Tự tánh của địa giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, địa giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thủy, hỏa, phong, không, thức giới đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có địa giới V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán địa giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì địa giới và tự tánh của địa giới là không, thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không. Tự tánh của địa giới ấy chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, địa giới chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thủy, hỏa, phong, không, thức giới đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có địa giới V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán vô minh hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán hành, thức, danh sách, luật sứ, súc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì vô minh và tử tánh của vô minh là không, hành, thức, danh sách, luật sứ, súc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não và tử tánh của hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não là không. Tử tánh của vô minh ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tịnh giới ba la mật đa. Đối với tịnh giới ba la mật đa này, vô minh chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có vô minh về, về, có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới ba la mật đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới ba la mật đa, chẳng nên quán vô minh hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán hành, thức, danh sách, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì vô minh và tử tánh của vô minh là không, hành, thức, danh sách, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não và tử tánh của hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não là không. Tử tánh của vô minh ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tịnh giới Palamuddha. Đối với tịnh giới Palamuddha này, vô minh chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có vô minh về. Về có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Palamuddha. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới Palamuddha chẳng nên quán vô minh hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán hành, thức, danh sách, luật sứ, súc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì vô minh và tử tánh của vô minh là không, hành, thức, danh sách, luật sứ, súc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não và tử tánh của hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não là không. Tử tánh của vô minh ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tịnh giới Palamuddha. Đối với tịnh giới Palamuddha này, vô minh chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có vô minh về. Về, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Palamuddha. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới Palamuddha chẳng nên quán vô minh hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán hành, thức, danh sách, luật sứ, xuất, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì vô minh và tử tánh của vô minh là không, hành, thức, danh sách, luật sứ, xuất, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não và tử tánh của hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não là không. Tử tánh của vô minh ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tịnh giới ba la mật đa. Đối với tịnh giới ba la mật đa này, vô minh chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có vô minh về. V, có thể nắm bắt được, húng là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới ba la mật đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới ba la mật đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tịnh giới ba la mật đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tịnh giới ba la mật đa, chẳng nên quán bố thí ba la mật đa hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã ba la mật đa hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì bố thí ba la mật đa và tự tánh của bố thí ba la mật đa là không, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã ba la mật đa và tự tánh của tịnh giới cho đến bác nhã ba la mật đa là không. Tự tánh của bố thí ba la mật đa ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tịnh giới cho đến bác nhã ba la mật đa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới ba la mật đa. Đối với tịnh giới ba la mật đa này, bố thí ba la mật đa chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tịnh giới cho đến bác nhã ba la mật đa đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có bố thí ba la mật đa v.v. có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới ba la mật đa. Lại nói thế này, thiện 5 tử. Người nên tu tịnh giới ba la mật đa, chẳng nên quán bố thí ba la mật đa hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã ba la mật đa hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì bố thí ba la mật đa và tự tánh của bố thí ba la mật đa là không, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã ba la mật đa và tự tánh của tịnh giới cho đến bác nhã ba la mật đa là không. Tự tánh của bố thí ba la mật đa ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tịnh giới cho đến bác nhã ba la mật đa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới ba la mật đa. Đối với tịnh giới ba la mật đa này, bố thí ba la mật đa chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tịnh giới cho đến bác nhã ba la mật đa đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có bố thí ba la mật đa V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới ba la mật đa. Lại nói thế này, Thiện Nam Tử. Người nên tu tịnh giới ba la mật đa, chẳng nên quán bố thí ba la mật đa hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã ba la mật đa hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì bố thí ba la mật đa và tự tánh của bố thí ba la mật đa là không, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã ba la mật đa và tự tánh của tịnh giới cho đến bác nhã ba la mật đa là không. Tự tánh của bố thí ba la mật đa ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tịnh giới cho đến bác nhã ba la mật đa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới ba la mật đa. Đối với tịnh giới ba la mật đa này, bố thí ba la mật đa chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tịnh giới cho đến bác nhã ba la mật đa đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có bố thí ba la mật đa v. V, có thể nắm bắt được, hũn là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới ba la mật đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới ba la mật đa, chẳng nên quán bố thí ba la mật đa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã ba la mật đa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì bố thí ba la mật đa và tự tánh của bố thí ba la mật đa là không, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã ba la mật đa và tự tánh của tịnh giới cho đến bác nhã ba la mật đa là không. Tự tánh của bố thí ba la mật đa ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tịnh giới cho đến bác nhã ba la mật đa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới ba la mật đa. Đối với tịnh giới ba la mật đa này, bố thí ba la mật đa chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tịnh giới cho đến bác nhã ba la mật đa đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có bố thí ba la mật đa V. V, có thể nắm bắt được, húng là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới ba la mật đa. Này Kiều Thi Ca. Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới ba la mật đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tịnh giới ba la mật đa thì nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới ba la mật đa, chẳng nên quán pháp không nội hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không tốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không... Tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì pháp không nội và tự tánh của pháp không nội là không, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không tốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh và tự tánh của. Pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh là không. Tự tánh của pháp không nội ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Palamudda. Đối với tịnh giới Palamudda này, pháp không nội chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có pháp không nội V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Palamudda. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới Palamudda, chẳng nên quán pháp không nội hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh. Pháp không không tánh tự tánh hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì pháp không nội và tự tánh của pháp không nội là không, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh và tự tánh của. Pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh là không. Tự tánh của pháp không nội ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới ba la mật đa. Đối với tịnh giới ba la mật đa này, pháp không nội chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có pháp không nội V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới ba la mật đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới ba la mật đa, chẳng nên quán pháp không nội hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nhỉa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không trốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đội khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự. Pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có pháp không nội V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba-la-mật-đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp không nội hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự... tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì pháp không nội và tự tánh của pháp không nội là không, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh và tự tánh của. Pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh là không. Tự tánh của pháp không nội ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới ba la mật đa. Đối với tịnh giới ba la mật đa này, pháp không nội chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có pháp không nội V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới ba la mật đa. Đây Kiều Thi Ca. Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới ba la mật đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đề, tuyên thuyết tịnh giới ba la mật đa, thì nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới ba la mật đa, chẳng nên quán chân như hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghị hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì chân như và tử tánh của chân như là không, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghị và tử tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghị là không. Tử tánh của chân như ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghị ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tịnh giới ba la mật đa. Đối với tịnh giới ba la mật đa này, chân như chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghị đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có chân như v, v, có thể nắm bắt được, cũng là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới ba la mật đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới ba la mật đa, chẳng nên quán chân như hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghị hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì chân như và tự tánh của chân như là không, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghị và tự tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghị là không. Tự tánh của chân như ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghị ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới ba-la-mật-đa này, chân như chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghị đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có chân như V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới ba-la-mật-đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tịnh giới ba-la-mật-đa, chẳng nên quán chân như hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghị hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì chân như và tử tánh của chân như là không, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghị và tử tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghị là không. Tử tánh của chân như ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghị ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tịnh giới ba la mật đa. Đối với tịnh giới ba la mật đa này, chân như chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghị đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có chân như v, v, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới ba la mật đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới ba la mật đa, chẳng nên quán chân như hoạt tịnh, hoạt bất tịnh, chẳng nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghị hoạt tịnh, hoạt bất tịnh. Vì sao? Vì chân như và tự tánh của chân như là không, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghị và tự tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghị là không. Tự tánh của chân như ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghị ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới ba-la-mật-đa này, chân như chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghị đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có chân như V, V, có thể nắm bắt được, hũn là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới ba-la-mật-đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện Nam Tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới ba-la-mật-đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Thiện Nam Tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tịnh giới ba-la-mật-đa, thì nói thế này, Thiện Nam Tử! Người nên tu tịnh giới ba-la-mật-đa, chẳng nên quán thánh đế khổ hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán thánh đế tập, diệt, đạo hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì thánh đế khổ và tự tánh của thánh đế khổ là không, thánh đế tập, diệt, đạo và tự tánh của thánh đế tập, diệt, đạo là không. Tự tánh của thánh đế khổ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thánh đế tập, diệt, đạo ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới ba-la-mật-đa này, thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thánh đế tập, diệt, đạo đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có thánh đế khổ vê. Vê có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới ba-la-mật-đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tịnh giới ba-la-mật-đa, chẳng nên quán thánh đế khổ hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán thánh đế tập, diệt, đạo hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì thánh đế khổ và tử tánh của thánh đế khổ là không, thánh đế tập, diệt, đạo và tử tánh của thánh đế tập, diệt, đạo là không. Tử tánh của thánh đế khổ ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của thánh đế tập, diệt, đạo ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tịnh giới ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới ba-la-mật-đa này, thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thánh đế tập, diệt, đạo đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có thánh đế khổ v, v, có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới ba-la-mật-đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới ba-la-mật-đa, chẳng nên quán thánh đế khổ hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán thánh đế tập, diệt, đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì thánh đế khổ và tử tánh của thánh đế khổ là không, thánh đế tập, diệt, đạo và tử tánh của thánh đế tập, diệt, đạo là không. Tử tánh của thánh đế khổ ấy chắc chẳng phải là tử tánh, tử tánh của thánh đế tập, diệt, đạo ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tịnh giới ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới ba-la-mật-đa này, thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thánh đế tập, diệt, đạo đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có thánh đế khổ v, v, có thể nắm bắt được, cũng là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới ba-la-mật-đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tịnh giới ba-la-mật-đa, chẳng nên quán thánh đế khổ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán thánh đế tập, diệt, đạo hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì thánh đế khổ và tự tánh của thánh đế khổ là không, thánh đế tập, diệt, đạo và tự tánh của thánh đế tập, diệt, đạo là không. Tự tánh của thánh đế khổ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thánh đế tập, diệt, đạo ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới ba-la-mật-đa này, thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thánh đế tập, diệt, đạo đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có thánh đế khổ v.v. có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới ba-la-mật-đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới ba-la-mật-đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bồ đề, tuyên thuyết tịnh giới ba-la-mật-đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tịnh giới ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bốn tịnh lự hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì bốn tịnh lự và tự tánh của bốn tịnh lự là không, bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không. Tự tánh của bốn tịnh lự ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới ba-la-mật-đa này, bốn tịnh lự chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có bốn tịnh lự V. V, có thể nắm bắt được, cũng là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới ba-la-mật-đa. Lại nói thế này, Thiện Nam Tử. Ngươi nên tu tịnh giới ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bốn tịnh lự hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì bốn tịnh lự và tự tánh của bốn tịnh lự là không, bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không. Tự tánh của bốn tịnh lự ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới ba-la-mật-đa này, bốn tịnh lự chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có bốn tịnh lự V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới ba-la-mật-đa. Lại nói thế này, thì Nam tử ngươi nên tu tịnh giới ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bốn tịnh lự hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì bốn tịnh lự và tự tánh của bốn tịnh lự là không, bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không. Tự tánh của bốn tịnh lự ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới ba-la-mật-đa này, bốn tịnh lự chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có bốn tịnh lự V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới ba-la-mật-đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bốn tịnh lự hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì bốn tịnh lự và tự tánh của bốn tịnh lự là không, bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không. Tự tánh của bốn tịnh lự ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới ba-la-mật-đa. Đối với tịnh giới ba-la-mật-đa này, bốn tịnh lự chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có bốn tịnh lự V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới ba-la-mật-đa. Này Tiều Thi Ca! Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới ba-la-mật-đa một cách chân chánh. Cảm ơn các bạn đã theo dõi và ủng hộ cho kênh lalaschool Để không bỏ lỡ những video hấp dẫn

Listen Next

Other Creators