Home Page
cover of kinhdaibatnha (593)
kinhdaibatnha (593)

kinhdaibatnha (593)

Phuc Tien

0 followers

00:00-40:08

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech
0
Plays
0
Downloads
0
Shares

Audio hosting, extended storage and many more

AI Mastering

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 24 Quyển 593 Hội thứ 16 Phạm Bát Nhã Ba La Mật Đa không một Tôi nghe như vậy. Một thời Đức Bạch gia Phạm ở bên ao Cò Trắng, trong vườn Trúc Lâm thuộc thành Vương Xá, cùng đông đủ chúng bí sô 1.250 người, và vô lượng, vô số Đại Bồ-Tát, từ các cõi Phật đồng đến Tập Thật, đều là Bồ-Tát còn một đời nữa. Khi ấy, hơn trăm ngàn chúng cung kính vây quanh nghe Thế Tôn thuyết pháp. Trong chúng có vị Đại Bồ-Tát tên Thiện Dũng Mảnh, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chệt y che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Con muốn thưa hỏi như lai ứng chánh đặng giác chút nghĩa sâu xa, cuối xin Thế Tôn thương xót cho chúng con hỏi, Thế Tôn trả lời. Phật bảo Liện Dũng Mảnh Như lai cho ông hỏi, tùy ý ông hỏi ta sẽ trả lời, để lòng ông vui mừng. Đại Bồ-Tát Thiện Dũng Mảnh Bạch Phật Bạch Thế Tôn Những chỗ mà Đức Thế Tôn vì chúng Đại Bồ-Tát giảng nói Bát Nhã Ba-la-mật-đa sao gọi là Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Đại Bồ-Tát làm sao tu hành Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Bồ-Tát tu hành Bát Nhã Ba-la-mật-đa làm sao mau được viên mãn? Bồ-Tát tu hành Bát Nhã Ba-la-mật-đa làm sao tất cả ác ma không phá được, mà còn biết rõ được những việc của ma? Làm sao Bồ-Tát an trụ Bát Nhã Ba-la-mật-đa mau viên mãn pháp trí nhất thiết? Phật khen ngợi Đại Bồ-Tát Thiện Dũng Mảnh Lành Thay Lành Thay Thiện Nam Tử Nay ông mới có thể thư hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về Bát Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như vậy. Ông đã vì chúng Đại Bồ-Tát được nghĩa lợi ích, cũng muốn cho chúng sanh được lợi ích, cũng muốn cho chúng sanh được an lạc, thương xót tất cả chúng sanh ở thế gian, muốn cho chư thiên và loài người được lợi ích an lạc, muốn làm ánh sáng cho Đại Bồ-Tát về, về, đời này đời sau nên thư hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về Bát Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này. Khi ấy, Phật biết mà hỏi lại Đại Bồ-Tát Thiện Dũng Mảnh. Nay Thiện Nam Tử Ông quán nghĩa nào mà hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về Bát Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như vậy? Đại Bồ-Tát Thiện Dũng Mảnh Bạch Phật Bạch Thế Tôn Vì con đang thương xót tất cả hữu tình mà làm việc lợi ích an vui, nên thư hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về Bát Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thế. Vì sao? Vì Bát Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa thông đạt tất cả Pháp Thanh Văn, Độc Giác, Bồ-Tát và chánh đẳng giác. Cúi xin Thế Tôn thương xót chúng con mà dãn nói đủ cảnh trí như lai. Nếu loài hữu tình nào đối với tánh Thanh Văn thừa đã quyết định, nghe Pháp này rồi mau chứng được tự địa vô lậu. Nếu loài hữu tình nào đối với tánh Độc Giác thừa đã quyết định, nghe Pháp này rồi mau nương tự thừa mà được tra khỏi. Nếu loài hữu tình nào đối với tánh Vô Thượng thừa đã quyết định, nghe Pháp này rồi mau chứng quả vị Vô Thượng chánh đẳng bồ đề. Nếu loài hữu tình nào tuy chưa hay đã nhập vào chánh tánh Ly Xanh, mà đối với tánh Tam Thừa không quyết định, nghe Pháp này rồi đều phát tâm quả vị Vô Thượng chánh đẳng bồ đề. Cúi xin như lai ứng chánh đẳng giác trả lời câu hỏi về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, khiến cho thiện căng các hữu tình thêm sanh trưởng. Bạch Thế Tôn Này con không vì các hữu tình tin hiệu thấp kém, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình giữ tâm nghèo cùng, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình trở thành hàng bận cùng, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình lười điến trễ nải, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình bị điến lười che khuất, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình rơi vào buồn ác chiến, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình mắc phải lưới ma, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình không hổ thẹn, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình tánh không liêm khiếp, cần kiện, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình quên mất chánh niệm, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình tâm thường mê loạn, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình chìm trong buồn lệ tham dục, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình làm nhiều hành động dối trá, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình làm nhiều dối gạt, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình chẳng biết đền ơn, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình đầy đủ ác dục, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình muốn làm hành ác, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình phá hoại giới pháp, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình giới không thanh tình, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình hủy hoại tránh kiến, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình muốn thích hành động trong cảnh giới của ma, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình ưa khen ngợi mình, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình ưa chê bai hủy bán người, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình yêu chuộng lợi dưỡng, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình ngầm tham đắm y bác, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình ngầm làm việc dối trá, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình ưa dệt lời sang bậy, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình dối hiện dị tướng, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình cầu sinh ép buộc, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không vì các hữu tình đem lợi cầu lợi, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Bạch Thế Tôn Này còn không vì các loại hữu tình ô quế ấy, mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Lại nữa, Bạch Thế Tôn Nếu các hữu tình thâm tâm vui thích trí nhất thiết trí, trí vô trước, trí tự nhiên, trí vô đẳng đẳng, trí vô thường, thì này còn cũng vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu các hữu tình đối với sở hữu của mình còn không sợ đắt, húng nửa tự khen nợi mình, thì còn vì họ thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu các hữu tình đối với sở hữu của người khác còn không sợ đắt, húng nửa chê bai, hủy bán người ta, thì còn vì họ thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu các hữu tình xô ngã kiêu mạng như bẻ sừng thú, thì còn vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu các hữu tình muốn nhổ các loại tên độc phiền não, thì còn vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu các hữu tình tâm họ khiêm hại như đứa con chiên Đà-la, thì còn vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu các hữu tình tâm họ bình đẳng như tứ đại hư không, thì còn vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu Đại Bồ-Tát đối với tất cả Pháp còn không có sự đắc, cũng không chấp trước, huống gì đối với phi Pháp, thì còn vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu Đại Bồ-Tát ý muốn thanh tịnh, không nịnh, không dối, tính chất ngay thẳng, thì còn vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu Đại Bồ-Tát trong tâm bình đẳng, thương Pháp, muốn làm lợi lạc cho tất cả hữu tình, thì còn vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu Đại Bồ-Tát thường đối với Pháp lành chỉ dạy, khuyên răng, hướng dẫn, khen ngợi, vui mừng tất cả hữu tình, thì còn vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu Đại Bồ-Tát gánh nổi gánh lớn, cởi được xe lớn, dựng lên việc lớn, thì còn vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu Đại Bồ-Tát đem lòng từ bi, làm lợi lạc cho tất cả hữu tình, thì còn vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu Đại Bồ-Tát đối với các hữu tình có thể làm người dẫn đường, hướng đạo thù thắng và đi khắp nơi, thì còn vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu Đại Bồ-Tát đối với tất cả Pháp không bị lệ thuộc, thì còn vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu Đại Bồ-Tát đối với các chỗ sanh không có sự mong cầu, thì còn vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu Đại Bồ-Tát thoát khỏi lưới của tất cả ác ma, thì còn vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu Đại Bồ-Tát có vui thích lớn, đầy đủ tinh tấn lớn, thường không buông lung, thì còn vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu Đại Bồ-Tát muốn đến bờ các Pháp trốt tráo kia, thì còn vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu Đại Bồ-Tát muốn khéo đoạn diệt tất cả lưới nghi, thì còn vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu Đại Bồ-Tát đối với trí Phật chính còn không kiêu mạng, không chấp, không đám huống là đối với trí khác, thì còn vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu Đại Bồ-Tát vượt khỏi tất cả kiêu mạng chấp trước, có thể trụ trong chánh đạo, có khả năng hành chánh đạo, thuyết giảng chánh đạo, thì còn vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu Đại Bồ-Tát nào luôn vì lợi ích cho tất cả hữu tình, mà làm cho được lợi ích, làm cho an lạc, giúp hữu tình được an ổn, thì còn vì họ mà thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Bạch Thế Tôn Còn vì ban bố khắp cho tất cả hữu tình niềm an vui không nhiễm, niềm an vui vô thượng, niềm an vui không gì hơn, niềm an vui của Niết Bàn, niềm an vui của Chiêu Phật, niềm an vui vô vi, nên thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Còn vì muốn đoạn hẳn các thứ lưới nghi, dây phiền não ràng buộc cho tất cả hữu tình, nên thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Còn vì muốn cắt đứt các thứ lưới nghi, dây phiền não ràng buộc, nên thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu chính con tự cắt đứt các thứ lưới nghi, dây phiền não ràng buộc, thì mới có thể như thật vì các hữu tình nói các pháp yếu, đoạn giúp lưới nghi, trừ dây phiền não. Vì sao? Vì tất cả hữu tình đều thích an vui, đồng chán nguy khổ, tất cả hữu tình đều tìm cách cầu an vui. Con hoàn toàn chẳng thấy có chút an lạc nào đáng mong cầu, chỉ trừ bác nhã Ba-la-mật-đa. Con hoàn toàn chẳng thấy có chút an vui nào đáng cầu, chỉ trừ Đại Bồ-Tát thưa. Con hoàn toàn chẳng thấy có chút an vui nào đáng cầu, chỉ trừ Đại Thưa. Con xem thấy nghĩa lợi như thế muốn ban bố cho hữu tình những sự an vui mầu nhiệm, nên thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Con xem thấy chúng Đại Bồ-Tát được nghĩa lợi như thế, nên thưa hỏi như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Cũi xin Thế Tôn thương xót mà trả lời cho. Phật bảo Đại Bồ-Tát Thiện Dũng Mảnh Lành Thay Lành Thay Thiện Nam Tử Ông có thể thương xót đại chúng sanh V, V, nên thưa như lai ứng chánh đẳng giác về bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Do duyên này ông được công đức vô lượng. Ông nên lắng nghe, suy nghĩ cho kỹ, ta sẽ phân biệt, giảng nói cho ông. Thiện Dũng Mảnh Đáp Bạch Thế Tôn Hay Thay Cũi xin Thế Tôn giảng dạy, chúng con muốn được nghe. Phật bảo Đại Bồ-Tát Thiện Dũng Mảnh Những điều mà ông đã hỏi Thế Tôn ở trước đều là vì chúng Đại Bồ-Tát mà tuyên thuyết bác nhã Ba-la-mật-đa. Sao gọi là bác nhã Ba-la-mật-đa? Các ông nên biết, thật chẳng có chút pháp nào có thể gọi là bác nhã Ba-la-mật-đa. Bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa vượt qua tất cả con đường danh ngôn. Vì sao? Thiện Dũng Mảnh Vì bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa thật không thể nói đây là bác nhã Ba-la-mật-đa. Cũng không thể nói bác nhã Ba-la-mật-đa thủ kia, không thể nói bác nhã Ba-la-mật-đa do kia, cũng không thể nói bác nhã Ba-la-mật-đa từ kia. Vì sao? Thiện Dũng Mảnh Vì trí tuệ có thể thấu đạt thật tánh các pháp nên gọi là bác nhã Ba-la-mật-đa. Trí tuệ của Như Lai còn không thể đắc, hủn chi đắc bác nhã Ba-la-mật-đa. Thiện Dũng Mảnh Bác nhã ấy nghĩa là hiểu các pháp và biết các pháp nên gọi là bác nhã. Thiện Dũng Mảnh Bác nhã hiểu các pháp là sao? Nghĩa là các pháp khác nhau, nên danh ngôn cũng khác nhau, nhưng tất cả pháp không lị danh ngôn. Nếu hiểu các pháp hoặc biết các pháp đều chẳng thể nói, nhưng theo sự hiểu biết của hữu tình mà nói, nên gọi là bác nhã. Thiện Dũng Mảnh Bác nhã ấy nghĩa là giả thiết lập. Do giả thiết lập nên gọi là bác nhã. Nhưng tất cả pháp chẳng thể thiết lập, không thể chuyển động, không thể giảng nói, không thể trình bày, biết như vậy gọi là như thật biết. Thiện Dũng Mảnh Bác nhã đó không phải là biết, không phải không biết, không phải đây, không phải chỗ khác, nên gọi là bác nhã. Này Thiện Dũng Mảnh Bác nhã ấy là sở hành của trí, sở hành phi trí, chẳng phải cảnh phi trí, cũng cảnh phi trí, vì trí xa lịa tất cả cảnh. Nếu trí là cảnh tức là phi trí, không từ phi trí mà được có trí. Cũng không từ trí mà có phi trí, không từ phi trí mà có phi trí. Cũng không từ trí mà được có trí, không do phi trí mà gọi là trí. Cũng không do trí mà gọi là phi trí, không do phi trí mà gọi là phi trí. Cũng không do trí mà gọi là trí, tức phi trí gọi là trí. Do đây tức trí gọi là phi trí. Trong đây, trí không thể hiển thị nên gọi là trí, không thể hiển thị thuộc về trí này, không thể hiển thị nguyên do của trí này, không thể hiển thị từ trí này, nên trong trí không có thật tánh trí, cũng không có thật trí trụ trong tánh trí. Trí và tánh trí đều bất khả đắc, phi trí cùng tánh cũng lại như vậy, chắc chắn không do phi trí gọi là trí. Nếu do phi trí gọi là trí thì tất cả phạm phu đều có trí. Nếu có như thật đối với trí, phi trí thì đều không thể đắc. Đối với trí, phi trí như thật biết khắp, đây gọi là trí. Nhưng thật tánh trí chẳng phải như đã nói. Vì sao? Vì thật tánh trí liền ngôn ngữ. Trí chẳng phải cảnh của trí, chẳng phải cảnh phi trí. Vì trí vượt khỏi tất cả cảnh, không thể nói đây là cảnh của trí hay phi trí. Thiền Dũng Mãnh Đây gọi là như thật giảng nói tướng trí. Như vậy, tướng trí thật không thể nói, không thể hiện bày, nhưng theo sự hiểu biết của hữu tình mà trình bày. Ai có thể biết cũng không thể nói. Cảnh trí còn không có húng có kẻ trí. Nếu có thể như thật biết, như thật tùy ngộ thì gọi là bác nhã. Này Thiền Dũng Mãnh Nếu có thể hiện quán tác chứng được như thế thì gọi là bác nhã xuất thế. Bác nhã xuất thế đã nói như vậy cũng không thể nói. Vì sao? Vì thế gian còn không có húng là có xuất thế gian. Sự xuất còn không có húng chi là người xuất. Do đây, bác nhã xuất thế cũng không có. Vì sao? Vì hoàn toàn không đắc thế gian, xuất thế gian, người xuất và sự xuất nên gọi là bác nhã xuất thế. Nếu có sở đắc thì không gọi là bác nhã xuất thế. Tánh của bác nhã này cũng bớt khả đắc vì xa liệt tánh khả đắc của hữu và vô. Này Thiền Dũng Mãnh Thế gian gọi là giả lập, không thể dựa vào thế gian giả lập mà thật có xuất thế. Nhưng vì ra khỏi các sự giả lập nên gọi xuất thế. Xuất thế đối với thế gian chẳng thật có xuất hay không xuất. Vì sao? Vì trong này hoàn toàn không có pháp xuất hay có thể xuất nên gọi xuất thế. Xuất thế ấy không có thế gian và xuất thế gian. Không xuất không phải không xuất nên gọi xuất thế. Nếu như thật biết rõ như vậy gọi là bác nhã xuất thế. Như vậy, bác nhã chẳng phải như đã nói. Vì sao? Vì bác nhã xuất thế vượt khỏi tất cả đường ngôn ngữ, tuy gọi xuất thế mà không có sự xuất, tuy gọi bác nhã mà không có sự biết. Sự xuất, sự biết bớt khả đắc, hay xuất hay biết cũng bớt khả đắc. Như thật biết như vậy gọi là bác nhã xuất thế. Do đây nên bác nhã vượt ra tất cả. Thế nên gọi là bác nhã xuất thế. Này Thiền Dũng Mãnh Đây cũng gọi là thông đạt bác nhã. Như vậy, thông đạt bác nhã là thế nào? Nghĩa là bác nhã này không có sự thông đạt. Nếu bác nhã này có sự thông đạt tức là giả lập. Nếu là giả lập thì không gọi là bác nhã thông đạt. Nghĩa là đối với trong này hoàn toàn không có gì cả. Không có ở đây, không có ở kia, cũng không ở giữa, không có được thông đạt, không có bị thông đạt, không nơi thông đạt, không có thời gian thông đạt, không người thông đạt, nên gọi là thông đạt. Lại ở trong này hoàn toàn không sở hữu, không có người hành, không có nơi hành, không đây, không kia, cũng không ở giữa, nên gọi thông đạt, lại là thông đạt tuệ. Nói thông đạt là thông đạt tuệ. Thông đạt này hoàn toàn không sở hữu, không trên, không dưới, không chậm, không mau, không tiến, không lui, không qua, không lại nên gọi là thông đạt. Này thiện dũng mãnh! Tuệ thông đạt là thông đạt cái gì? Nghĩa là có sự thấy hoàn toàn thông đạt. Do cái gì thông đạt? Do bác nhã thông đạt. Như vậy, bác nhã làm sao thông đạt? Là tướng giả lập mà có thông đạt. Các tướng giả lập tất cả là phi tướng. Như vậy, phi tướng gọi là tướng giả lập. Này thiện dũng mãnh! Ai thành tựu bác nhã như vậy tức là có thể như thật thông đạt ba cõi. Như thật thông đạt ba cõi là thế nào? Nghĩa là không phải ba cõi gọi là ba cõi. Vì sao? Vì trong này không có cõi để thông đạt. Thông đạt ba cõi tức chẳng phải cõi. Do thông đạt ba cõi nên gọi là thành tựu thông đạt bác nhã. Thế nào là thành tựu thông đạt bác nhã? Là không có việc nhỏ nào mà không thông đạt hoàn toàn. Đối với tất cả việc hoàn toàn thông đạt nên gọi là thông đạt bác nhã. Như vậy, bác nhã đối với tất cả việc đều siêu việt. Nếu thành tựu bác nhã như vậy thì các điều thấy, nghe, ngửi, nếm, biết đều thông đạt. Thông đạt cái gì? Nghĩa là vô thường, khổ, bệnh, ung nhọc, tên bắn, không, trở ngại, hại, khác, hoại, hoại pháp, động, mau diệt, không ngã, không sanh, không diệt, không tướng V, V. Này thiện dũng mãnh! Ai thông đạt như vậy thì gọi là mát mẻ, như xa lìa tên bắn. Như có vị lương y giỏi được mệnh danh là lìa mũi tên. Những chỗ bị tên bắn, ông ta đều có thể chữa lành, thuốc độc không còn trong vết thương. Vì nhờ công lực của dược thảo mà trừ khử được hết. Nếu các bí sô thành tựu được pháp mát mẻ lìa mũi tên này, gọi là thành tựu thông đạt bác nhã. Nếu đầy đủ sáu hàng tánh thông đạt bác nhã thì xa lìa tất cả nhiễm trước ba cõi, vượt khỏi lưới của tất cả ác ma. Này thiện dũng mãnh! Ví như kim cương khoan được các vật, khoan chỗ nào cũng xuyên qua. Cũng vậy, nếu các bí sô V, V đạt được kim cương dụ, do được tuệ thông đạt dung nạp, nên khoán pháp gì cũng đều thông đạt. Tuệ thông đạt này được định kim cương dụ bảo hộ, khoán đến pháp nào cũng đều thông đạt. Nếu ai thành tự trí tuệ thông đạt này, có thể suốt thế gian, diệt hết các khổ, dù đạt đến các khổ đã tận nhưng không bị đắm nhiễm. Tuệ thông đạt này cũng gọi là ba minh. Này thiện dũng mãnh! Gọi là minh là vĩnh viễn diệt trừ vô minh. Đây cũng gọi là biết khắp vô minh, cũng gọi là khái niệm diệt khổ quẩn. Như vị lương y thông minh biết trọng, làm điều gì cũng xem xét rõ ràng, nhờ thế mà thành tự trí tuệ xem xét vi diệu, biết rõ các thuốc, hiểu rõ nguyên nhân của bệnh, biết rõ bệnh tướng có thể chữa nhiều chứng bệnh khổ. Bất cứ bệnh tật nào cũng chữa lành. Vì sao? Vì người ấy thông thạo về thuốc, nguyên nhân, tướng trạng của bệnh, phương pháp hòa hợp thuốc cho nên có thể trừ tất cả bệnh khổ. Nếu ai có thể thành tự minh thứ ba, lầu tận minh, thì có thể diệt các vô minh, giúp tất cả khổ, trừ tất cả sanh, già, bệnh, chết và các pháp sầu thang, khổ, ưu, não. Đây gọi là thông đạt bác nhã xuất thế. Này thiện dũng mãnh! Ta nương nghĩa này mật ý nói, tất cả thế gian tuệ là hơn hết, nghĩa là thông đạt thật tánh các pháp. Nhờ chánh kỳ này làm cho chấm dứt xanh vào các cõi. Sự chấm dứt xanh vào các cõi là khái niệm gì? Là khái niệm thông đạt xuất ra, chìm mất. Vì sao gọi là thông đạt xuất ra và chìm mất? Nghĩa là hoàn toàn thông đạt các pháp có tập khởi, đều có pháp diệt tận. Như vậy gọi là thông đạt xuất và chìm. Này thiện dũng mãnh! Xuất là khái niệm về xanh, chìm là khái niệm về diệt. Tuy là nói vậy nhưng không nói có xuất hay có chìm. Này thiện dũng mãnh! Những gì tập khởi chẳng thật có pháp xuất. Vì sao? Thiện dũng mãnh! Vì tập khởi là bình đẳng xuất, chẳng phải bình đẳng có xuất, cũng chẳng phải có chìm, bình đẳng tùy khởi nên gọi là tập khởi. Bình đẳng tùy khởi là trong này không có xuất, không có chìm. Như vậy, tự thể tự nhiên phá hoại gọi là diệt. Trong đó không có vật gì cả nên nói là diệt, nghĩa là vô gián diệt, không phải ở đây sanh ra là nơi đây có diệt, nên nói là diệt, mà không sanh cũng gọi là diệt. Như vậy, thông đạt hoặc xuất, hoặc chìm, không sanh, không diệt nên gọi là thông đạt hoặc xuất, hoặc chìm. Này thiện dũng mãnh! Nói thông đạt là có thể biết sắp về các duyên khởi, do các duyên mà các Pháp được khởi nên gọi là duyên khởi. Như vậy, duyên khởi hoàn toàn không sở hữu nên gọi là sự thông đạt duyên khởi. Đây gọi là biết sắp duyên khởi. Nghĩa là có thể hiểu rõ như thật không khởi, vì không khởi nên gọi là duyên khởi. Bình đẳng không khởi nên gọi là duyên khởi, với chỗ này khởi còn không có, húng chì có diệt. Tuy sự hiểu rõ duyên khởi hoặc thuận, hoặc trái đều bất xả đắt. Vì không đẳng khởi nên gọi là duyên khởi, nếu không đẳng khởi thì không có sanh, nếu không có sanh thì không có quá khứ, cũng không có đã sanh. Nếu không có quá khứ, cũng không có đã sanh, thì không có diệt, nếu không có diệt tức vô sanh trí. Do vô sanh trí nên không sanh cũng không chứng diệt. Do vô sanh nên cũng không diệt. Do có sanh nên thiết lập có diệt, đã không có sanh nên không có diệt. Đối với tất cả Pháp thấy biết, thông đạt tác chứng như vậy gọi là tận trí. Thiện Dũng Mảnh Tận trí là chấm dứt sự vô tri, không biết, nên gọi là tận trí. Thế nào gọi là tận? Là do không tận nên gọi là tận, không thấy có Pháp nào để gọi là tận, nhưng liều vô tri nên gọi là tận trí. Tức là chấm dứt vô tri gọi là tận trí, biết khắp tất cả Pháp vô tri nên gọi là chấm dứt vô tri. Do chấm dứt vô tri nên gọi là tận trí, chẳng phải Pháp vô tri có tận, không tận, nhưng liều vô tri nên gọi là tận trí, như thật biết khắp. Pháp vô tri này hoàn toàn không sở hữu, nên gọi là liệt. Như vậy, do trí biết Pháp vô tri, không tuyên biệt, có thể đắt nên gọi là sa liều vô tri, nhưng Pháp vô tri thật bất khả đắt. Trí còn không có húng là có vô tri. Nếu người có thể tận đắt giải thoát thì gọi là tận trí. Tuy nói như vậy mà như không nói. Đã có trí tận thì hoàn toàn không thể nói, chỉ là giả danh. Nên nói chấm dứt vô tri cũng gọi là tận trí. Nếu đem vô tận tận trí mà xem xét các Pháp, thì tận trí cũng không. Nếu biết như vậy liên lị tận trí, cho đến bờ vô tận. Bờ vô tận này tức là không bờ, cũng là bờ niết bàn. Tuy nói như vậy mà như không nói. Vì tất cả Pháp đều là không bờ, cũng là bờ niết bàn, các bờ dứt hẳn gọi là niết bàn. Tuy nói như vậy mà như không nói. Vì bờ niết bàn liệt ngôn ngữ, tất cả ngôn ngữ trong ấy hoàn toàn dứt hẳn. Này thiện dũng mãnh! Như lai tuy nói cõi niết bàn, mà như không nói. Vì cõi niết bàn hoàn toàn không thể nói, vượt tất cả sự nói. Trong cõi niết bàn dứt hẳn các lời nói. Nếu nói tướng cõi niết bàn như thế, tức là nói tướng thông đạc bác nhã xuất thế. Này thiện dũng mãnh! Chẳng phải niết bàn có thể nói phương xứ ở đây, ở kia. Nên niết bàn thật không thể nói. Này thiện dũng mãnh! Sao trong này gọi là bác nhã ba la mật đa sâu xa? Thiện dũng mãnh! Chẳng phải bác nhã ba la mật đa này có thể đắt một phần nhỏ xa bờ kia. Thiện dũng mãnh! Nếu bác nhã ba la mật đa này có một phần nhỏ nào xa bờ kia, thì như lai nói bác nhã ba la mật đa sâu xa có xa bờ kia. Thiện dũng mãnh! Chẳng phải bác nhã ba la mật đa này có xa được, nên không nói đây có bờ bên kia. Này thiện dũng mãnh! Bác nhã ba la mật đa này nghĩa là tác nghiệp dự trí, rốt tráo đến bờ kia của tất cả Pháp, nên gọi là bác nhã ba la mật đa. Tuy nói như vậy mà như không nói. Vì sao? Vì chẳng phải ngữ, chẳng phải nghiệp, có thể đến bác nhã ba la mật đa. Vì sao? Thiện dũng mãnh! Vì bác nhã ba la mật đa sâu xa không thể nói được. Này thiện dũng mãnh! Bác nhã ba la mật đa tùy sự hiểu rõ các Pháp, nếu có thể tùy sự hiểu rõ tức trái giác ngộ. Vì sao? Vì trong đây không có vật để gọi là tùy sự hiểu rõ. Tùy sự hiểu rõ không, nên giác ngộ cũng không. Tức là đối với các Pháp không thông đạt nghĩa, tùy sự hiểu rõ thông đạt Pháp tánh bình đẳng là bồ đề. Tùy sự hiểu rõ các Pháp nên gọi là bồ đề. Làm sao có thể tùy sự hiểu rõ các Pháp, vì trong đây không có vật để gọi bồ đề, nên đối với trong đây cũng không có tùy sự hiểu rõ. Vì sao? Thiện dũng mãnh! Vì nếu có đắt được chúc phần bồ đề nào, tức là trong bồ đề đắt bồ đề. Nhưng trong bồ đề không có bồ đề, nên làm như vậy là hiện chính bồ đề. Vì chẳng tùy sự hiểu rõ, chẳng thông đạt nên gọi là giác ngộ. Tuy nói như vậy mà như không nói. Vì tất cả Pháp không thể tùy sự hiểu rõ, không thể thông đạt. Lại Pháp và Phi Pháp đều không có tự tánh, do giác ngộ lý này nên gọi là bồ đề. Vì sao? Thiện dũng mãnh! Vì không phải các như lai ứng chánh đặng giác có thể đắt bồ đề. Không phải các như lai ứng chánh đặng giác có thể rõ bồ đề. Vì như thật bồ đề không thể rõ, không thể nêu ra, không phải các như lai ứng chánh đặng giác sanh bồ đề, vì tánh bồ đề không sanh, không khởi. Này Thiện dũng mãnh! Nói bồ đề là không có sự tràng bu, chẳng phải trong bồ đề có chút hữu tình, thiết lập hữu tình. Ở trong bồ đề không có hữu tình, thiết lập hữu tình. Tại sao nói rằng tát đỏa, hữu tình, là sở hữu bồ đề, mà phải nói bồ đề tát đỏa của bác nhã Ba-la-mật-đa? Này Thiện dũng mãnh! Không phải trong bồ đề có thể đắt bồ đề, chẳng phải trong bồ đề có thể đắt tát đỏa. Vì sao? Thiện dũng mãnh! Vì bồ đề siêu Việt, bồ đề không sanh, bồ đề không khởi, bồ đề không tướng. Không phải trong bồ đề có tánh tát đỏa, không phải trong bồ đề có thể đắt tát đỏa. Không do tát đỏa thiết lập bồ đề, không do bồ đề thiết lập tát đỏa. Vì tuy sự hiểu rõ tát đỏa không có tự tánh nên gọi là bồ đề, viết trong bồ đề thật không có tát đỏa, nên gọi là bồ đề tát đỏa. Vì sao? Thiện dũng mãnh! Bồ đề tát đỏa không phải tưởng tát đỏa hiện bày. Trừ tưởng tát đỏa nên gọi là bồ đề. Vì nói như vậy mà như không nói. Vì sao? Vì bồ đề tát đỏa lì ngôn nữ. Bồ đề tát đỏa lì tánh tát đỏa. Bồ đề tát đỏa lì tưởng tát đỏa, viết bồ đề như vậy nên gọi là Bồ Tát. Làm sao Bồ Tát có thể biết bồ đề? Nhỉ là biết bồ đề siêu Việt tất cả, bồ đề không tạo, bồ đề không sanh, bồ đề không diệt. Không phải tánh bồ đề có thể rõ bồ đề. Cũng không phải bồ đề hiện bày, không thể hiện rõ, không thể thiết lập, không thể dẫn chuyển, nên gọi là bồ đề. Nếu không thể trái ngược tùy sự hiểu rõ, không đạt, không sự phân biệt, dứt hẳn phân biệt thì gọi là bồ đề tát đỏa. Tuy nói như vậy mà như không nói. Vì sao? Thiện dũng mãnh! Vì bồ đề tát đỏa không thể đắt vậy. Nếu bồ đề tát đỏa có thể đắt, tức đắt đây là bồ đề, đây thuộc bồ đề, đây là tát đỏa, đây thuộc tát đỏa, nhưng không thể nói đây là bồ đề, đây thuộc bồ đề, cũng không thể nói đây là tát đỏa, đây thuộc tát đỏa. Vì có thể tùy sự hiểu rõ thật không có tát đỏa. Không có tánh tát đỏa, lì tánh tát đỏa nên gọi là bồ tát. Do không có tát đỏa, trừ tưởng tát đỏa nên gọi là bồ tát. Vì sao? Thiện dũng mãnh! Cõi hữu tình tức là khái niệm không thật có hữu tình. Chẳng phải trong hữu tình có tánh hữu tình. Hữu tình không có nên gọi là cõi hữu tình. Nếu trong hữu tình có tánh hữu tình thì không nói là cõi hữu tình. Cõi hữu tình ấy tức là hiện không cõi. Vì cõi hữu tình không có tánh cõi. Nếu cõi hữu tình có tánh cõi thì phải thật có mạng, tức là thân. Nếu cõi hữu tình liệt tánh cõi mà có, thì phải thật có mạng, tức là có thân khác. Nhưng cõi hữu tình không thật tánh cõi chỉ do thế tục giả nói là cõi. Không phải trong cõi hữu tình có tánh cõi cũng không phải trong tánh cõi có cõi hữu tình. Không phải tánh cõi là cõi hữu tình không phải liệt tánh cõi có cõi hữu tình. Vì tất cả Pháp không có tánh cõi. Này thiện dũng mãnh! Ta nương nghĩa này mật ý nói các cõi hữu tình không thể thiết lập có vơi có đầy. Vì sao? Vì cõi hữu tình không có tánh các cõi hữu tình liệt có tánh như vậy cõi hữu tình không thể thiết lập có vơi có đầy. Các Pháp cũng vậy không thể thiết lập có vơi có đầy. Vì tất cả Pháp đều không thật tánh không thể nói có vơi có đầy. Nếu có thể tùy sự hiểu rõ các Pháp như thế tức gọi là tùy sự hiểu rõ Phật Pháp. Ta nương nghĩa này mật ý nói như cõi hữu tình không thể thiết lập có vơi có đầy. Các Pháp cũng vậy không thể thiết lập có vơi có đầy. Nếu tất cả Pháp không vơi không đầy thì lấy không chân thật làm phương tiện tức là Phật Pháp không vơi không đầy. Như vậy, tùy sự hiểu rõ tất cả Pháp tức gọi Phật Pháp không vơi không đầy. Vì tất cả Pháp không vơi không đầy nên gọi là Phật Pháp. Phật Pháp tức không phải khái niệm Phật Pháp chẳng phải Phật Pháp có vật khiến có thể vơi hoặc đầy được. Vì sao? Vì tùy sự hiểu rõ tất cả Pháp nếu có thể tùy sự hiểu rõ tánh tất cả Pháp thì trong ấy không có Pháp hoặc vơi hoặc đầy. Tất cả Pháp ấy nên biết là khái niệm Pháp giới. Không phải Pháp giới ấy có vơi có đầy. Vì sao? Vì Pháp giới kia không có bờ bến chẳng phải hữu tình giới và Pháp giới kia sai khác có thể đắt không phải hữu tình giới và Pháp giới kia hoặc vơi hoặc đầy, hoặc đắt hoặc mất. Tùy sự hiểu rõ như vậy tức gọi là bồ đề. Do đây nên nói không phải Phật Pháp có thể đắt có thể thiết lập có vơi có đầy. Này Thiện Dũng Mảnh! Không có tánh vơi đầy. Nếu người có thể như thật không phân biệt gọi là người thấy như thật. Chẳng phải ở trong đây có lấy có bỏ tùy sự hiểu rõ như vậy gọi là bồ đề. Thiện Dũng Mảnh! Bồ đề tức là tướng Phật. Sao gọi là tướng Phật? Nghĩa là tất cả tướng rốt tráo vô tướng tức là tướng Phật. Vì sao? Thiện Dũng Mảnh! Vì rốt tráo vô tướng cùng tướng bồ đề là tự tánh xa liệt. Như vậy, tùy sự hiểu rõ gọi là bồ đề. Tuy nói như vậy mà như không nói. Vì sao? Thiện Dũng Mảnh! Cần có thể tùy sự hiểu rõ Pháp như thế nên gọi là bồ đề. Nếu có Bồ Tát nào thật không biết rõ Pháp tánh như vậy mà bảo ta có thể như thật tùy sự hiểu rõ tự xưng là Bồ Tát. Phải biết người ấy sa bật Bồ Tát sa Pháp Bồ Tát, đen danh Bồ Tát dối gạt trời, người, a tố lạc v, v. Này Thiện Dũng Mảnh! Nếu chỉ dùng lời dối tự xưng là Bồ Tát thành Bồ Tát ấy thì tất cả hữu tình chẳng lẽ đều là Bồ Tát. Này Thiện Dũng Mảnh! Không phải chỉ lời dối vào bật Bồ Tát được Pháp Bồ Tát chẳng do lời nói mà chứng được quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Không do ngữ nghiệp tự xưng danh mà liện được bồ đề. Cũng không do lời tự xưng danh vào bật Bồ Tát được Pháp Bồ Tát. Này Thiện Dũng Mảnh! Tất cả hữu tình hành hạnh bồ đề không biết, không hiểu thật tánh các Pháp thì không gọi là Bồ Tát. Vì sao? Vì chẳng biết hữu tình chẳng phải hữu tình vậy. Nếu biết hữu tình chẳng phải tánh hữu tình là hành hạnh bồ đề nên thành Bồ Tát. Nhưng do các hữu tình biên đảo không thể hiểu rõ việc làm của mình, cảnh giới của mình, hành xứ của mình. Nếu như thật biết rõ việc làm của mình thì hành không còn phân biệt. Bởi hành phân biệt nên tất cả phàm phu ngu si duyên cảnh hư dối khởi hành điên đảo. Cũng duyên bồ đề mà khởi kiêu mạng chấp trước. Vì họ duyên vọng cảnh sanh ra điên đảo kiêu mạng hành hành phân biệt nên không thể đắc Pháp của các Bồ Tát, hướng là đắc bồ đề. Nếu ai có thể biết rõ Pháp ấy như vậy thì chẳng còn khởi hành duyên hư dối cũng không còn duyên các Pháp sanh kiêu mạng. Đây gọi là Bồ Tát hành nơi vô hành. Bồ Tát không nên do phân biệt mà khởi hành phân biệt. Nếu ở chỗ này không có sự phân biệt thì không phải ở chỗ này mà có sự hành. Nếu ở chỗ này không khởi phân biệt thì không phải ở chỗ này lại có sự hành. Chiêu Phật Bồ Tát đối với tất cả hành không có sự phân biệt mà tu hành. Tất cả kiêu mạng rốt tráo không khởi Bồ Tát biết tất cả Pháp như vậy. Đối với tất cả Pháp không còn dính vào không còn phân biệt, không dạo, không đi. Như vậy, gọi là chân hành Bồ Tát lấy vô sở hành làm phương tiện. Nếu các Bồ Tát có thể hành như thế thì gọi là Bồ Tát chân hành. Vì sao? Thiện dũng mãnh vì có thể tùy sự hiểu rõ các Pháp thông đạt các Pháp nên gọi là Bồ Tát. Này thiện dũng mãnh nên biết không hữu tình tức là khái niệm Bồ Tát vì có thể từ bỏ tất cả tưởng. Vì sao? Vì có thể rõ suốt tất cả hữu tình chẳng thật hữu tình. Tất cả hữu tình đều không phải hữu tình. Tất cả hữu tình đều là điên đảo chấp trước hữu tình. Tất cả hữu tình đều là biến kế sở chấp hữu tình. Tất cả hữu tình đều là hư dối sở duyên hữu tình. Tất cả hữu tình đều là bại hoại tự hành hữu tình. Tất cả hữu tình đều là vô minh duyên hành hữu tình. Vì sao? Thiền Dũng Mảnh Nếu Pháp của tất cả hữu tình chẳng có các loại hữu tình tạo tác Pháp kia thì gọi là vô minh duyên hành hữu tình. Pháp nào không có? Nghĩa là chấp ta, chấp của ta, chính ta chấp cái của ta, sự chấp ấy là nắm giữ, bám víu, Pháp đó chẳng có. Nếu có Pháp đó thì tất cả hữu tình đều chấp là ta, chấp là của ta, chính ta chấp cái của ta, sự chấp kia là nắm giữ, bám víu, nên cho là thật có, không gọi hư dối. Không có Pháp đó mà các hữu tình vọng chấp là ta, chấp là của ta, chính ta chấp cái của ta, sự chấp ấy là nắm giữ, bám víu đều không thật có, đều là hư dối, nên nói thế này, tất cả hữu tình không thật hữu tình, tất cả hữu tình đều là vô minh duyên hành hữu tình. Này Thiền Dũng Mảnh, không phải hữu tình là có chút thật Pháp có thể chấp là ta, không phải hữu tình là có chút thật Pháp không phải hữu tình là có chút thật Pháp không phải hữu tình là có chút thật Pháp không phải hữu tình là có chút thật Pháp không phải hữu tình là có chút thật Pháp không phải hữu tình là có chút thật Pháp không phải hữu tình là có chút thật Pháp không phải hữu tình là có chút thật Pháp không phải hữu tình là có chút thật Pháp không phải hữu tình là có chút thật Pháp không phải hữu tình là có chút thật Pháp không phải hữu tình là có chút thật Pháp không phải hữu tình là có chút thật Pháp Hữu tình trong này do hư dối chấp trước mà tự ràng buộc nên có thể nói tất cả hữu tình đều là hư dối duyên theo hữu tình, họ đối với việc làm của mình không thể hiểu rõ nên nói là không thật hữu tình tức là trong nghĩa này phải giác ngộ viên mãng cùng khắp nếu họ đối với các hành có giác ngộ viên mãng cùng khắp thì biết người ấy gọi là Bồ Tát Hãy subscribe cho kênh Ghiền Mì Gõ Để không bỏ lỡ những video hấp dẫn

Listen Next

Other Creators