Details
Nothing to say, yet
Big christmas sale
Premium Access 35% OFF
Nothing to say, yet
The transcription is about the practice of a Buddhist text called Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa. It discusses the qualities and benefits of practicing this text, such as developing inner and outer strength, mindfulness, and the desire to benefit others. It also mentions the importance of understanding the impermanence of the body and the need to cultivate virtuous actions. The text emphasizes the role of the practitioner in purifying their mind and attaining enlightenment. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 3, Quyển 53, 15 Phẩm Biện D.I.T.H.G.A 03 Lúc bấy giờ, Cụ Thọ Thiện Hiện Bạch Phật, Bạch Thế Tôn, Thế nào là Đại Bộ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội ngoại của thân, thọ, tâm, phát, trụ quán khắp thân, thọ, tâm, phát, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niềm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Phật Dạy, Thiện Hiện Nếu Đại Bộ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân, khi đi biết là đi, khi đứng biết là đứng, khi ngồi biết là ngồi, khi nằm biết là nằm, cứ như thế, như thế, sự sai sát về oai nghi của tự thân như thế nào, biết chính xác, đầy đủ, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bộ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niềm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Lại nữa, Thiện Hiện. Nếu Đại Bộ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân, biết chính xác qua lại, biết chính xác nhìn nắm, biết chính xác cuối ngước, biết chính xác coi dũi, mặt tăng dà lê, cầm nắm y bát, ăn uống, nằm nghỉ, kinh hành, ngồi, đứng lên, đóng tiết, thức ngủ, nói im, vào tra các định đều nhớ biết chính xác, thì này Thiện Hiện, đó là Đại Bộ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh kỳ, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Lại nữa, Thiện Hiện. Nếu Đại Bộ Tát, khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân, khi thở vào thì biết như thật là thở vào, khi thở ra thì biết như thật là thở ra, khi thở vào dài thì biết như thật là thở vào dài, khi thở ra dài thì biết như thật là thở ra dài, khi thở vào ngắn thì biết như thật là thở vào ngắn, khi thở ra ngắn thì biết như thật là thở ra ngắn, như thở bánh xe hoặc học trò của y, khi sức bánh xe quay nhiều vòng thì biết như thật là sức bánh xe quay nhiều vòng, khi sức bánh xe quay ít vòng thì biết như thật là sức bánh xe quay ít vòng. Các Đại Bộ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân, thở vào thở ra, hoặc dài hoặc ngắn, đều biết như thật, cũng lại như vậy, thì này thiện hiện, đó là Đại Bộ Tát, khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niềm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Lại nữa, thiện hiện, nếu Đại Bộ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân, nghĩ biết như thật bốn giới sai biệt, đó là địa giới, thủy, hỏa, phong giới. Như người rồ tẩy giỏi hoặc học trò của y, chết chết trâu rồi, lại dùng dao bén, cắt xẻ thân trâu, chia làm bốn phần, hoặc ngồi hoặc đứng, quán biết như thật. Các Đại Bộ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân, nghĩ biết như thật sự sai biệt của bốn giới địa, thủy, hỏa, phong, cũng lại như vậy, thì này thiện hiện, đó là Đại Bộ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niềm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Lại nữa, thiện hiện. Nước giải, nước mắt, cấu bẩn, mồ hôi, đàm, ngũ, mỡ lá, mạng ốc, ghen, cứt cháy, những loại bất tịnh như vậy đầy giảy trong thân, như Trong kho của nông phu hoặc các trưởng giả, chứa đầy các thứ tạp cốc, đó là nếp, mẹ, lúa tẻ, đậu, lúa mì v, v. Có người sáng mắt mở kho thấy hết, liền biết như thật, trong đó chỉ có các thứ tạp cốc, nếp, mẹ, lúa tẻ v. Các Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân, nghĩ biết như thật, từ chân đến đầu, chỉ có các thứ bất tịnh hôi thối đầy giảy trong đó, cũng lại như vậy, kẻ trí nào lại quyến mến thân này, chỉ có Phạm Phu mới mê làm đắm trước, thì này thiện hiện, đó là Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Lại nữa, thiện hiện, nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi hoang vắng, quán tử thi vứt bỏ, tử thi trải qua một ngày, hay trải qua hai ngày, cho đến bảy ngày, tử thi ấy phình trướng, biến thành màu xanh bầm thối rửa, da thủng, muỗng máu chảy ra, thấy sự ấy rồi, tự nghĩ thân mình có tính chất như vậy, có đầy đủ hiện tượng như vậy, chưa được giải thoát, chung quy cũng như vậy, kẻ trí nào lại quyến mến thân này, chỉ có kẻ ngu si mới mê làm đắm trước, thì này thiện hiện, đó là Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Lại nữa, thiện hiện. Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Lại nữa, thiện hiện. Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Lại nữa, thiện hiện. Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi hoang vắng quán tử thi vứt bỏ, trùng dòi ăn rồi, thịt trả xương lọi, lóng đốt liền nhau, gân tràn máu dính, chỉ còn thịt thối rửa, thấy việc này rồi, tự nghĩ thân mình có tính chất như vậy, đầy đủ hiện tượng như vậy, chưa được giải thoát, chung quy cũng thế, người trí nào lại quý mến thân này, chỉ có kẻ ngu si mới mê làm chấp trước, khi này thiện hiện, đó là Đại Bồ-Tát. Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, chủ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niềm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Lại nữa, thiện hiện, nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi hoang vắng quán tử thi vứt bỏ, còn bộ xương, máu thịt đều hết, chỉ còn gân gắn liền, thấy việc này rồi, tự nghĩ thân mình có tính chất như vậy, đầy đủ những hiện tượng như vậy, chưa được giải thoát, chung quy cũng thế, người trí nào lại quý mến thân này, chỉ có kẻ ngu si mới mê làm chấp trước, khi này thiện hiện, đó là Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, chủ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niềm chánh khi, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Lại nữa, thiện hiện, nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi hoang vắng quán tử thi vứt bỏ, chỉ còn sóc lại ít xương, màu xương trắng héo như ốc tuyết kha, các gân tan nát, lống đốt trời đã, thấy việc này rồi, tự nghĩ thân mình có tính chất như vậy, đầy đủ hiện tượng như vậy, chưa được giải thoát, chung quy cũng thế, người trí nào lại quý mến thân này, chỉ có kẻ ngu si mới mê làm chấp trước, khi này thiện hiện, đó là Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niềm chánh khi, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Lại nữa, thiện hiện. Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niềm chánh khi, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Lại nữa, thiện hiện. Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi hoàng vắng quán tử thi vứt bỏ, hài cốt ngỗ ngang, gió thổi nắng đốt, mưa chan, sương phủ, trải nhiều năm tháng, màu như tuyết kha, thấy việc này rồi, tự nghĩ thân mình có tính chất như vậy, đầy đủ hiện tượng như vậy, chưa được giải thoát, chung quy cũng như thế, người trí nào lại quý mến thân này, chỉ có kẻ ngu si mới mê làm chấp trước, thì này thiện hiện, đó là Đại Bồ-Tát. Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niềm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Lại nữa, thiện hiện. Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi hoang vắng quán tử thi vứt bỏ, sương còn vung vải trên đất, trải nhiều trăm năm, hoặc nhiều ngàn năm, sương biến thành màu xanh, giống như màu chim cát, hoặc có sương mục nát bụng như bụi, hòa lẫn trong đất, chẳng thể phân biệt, thấy việc này rồi, tự nghĩ thân mình có tính chất như vậy, đầy đủ hiện tượng như vậy, chưa được giải thoát, chung quy cũng thế, người trí nào lại quý mến thân này, chỉ có kẻ ngu si, mới mê làm chấp trước, thì này thiện hiện, đó là Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niềm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Thiện hiện. Thiện hiện. Thiện hiện. Thiện hiện. Thiện hiện. Lại nữa, thiện hiện. Những gì là bốn? Thiện hiện. Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với các Pháp ác bất thiện đã sanh, thì làm cho đoạn trừ vĩnh viễn, nên sanh ý muốn thúc đẩy phát khởi sự siêng năng chân chính, thúc giục tâm giữ tâm, đó là chánh đoạn thứ hai. Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, thiện Pháp chưa sanh thì khiến cho Pháp sanh, nên sanh ý muốn thúc đẩy phát khởi sự siêng năng chân chính, thúc giục tâm giữ tâm, đó là chánh đoạn thứ ba. Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, thiện Pháp đã sanh thì khiến cho An Trụ, chẳng quên tăng trưởng mở rộng, bồi tu viên mãn, nên sanh ý muốn thúc đẩy phát khởi sự siêng năng chân chính, thúc giục tâm giữ tâm, đó là chánh đoạn thứ tư. Thiện Hiện Nên biết đó là tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, Thiện Hiện Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát là bốn thần túc. Những gì là bốn? Thiện Hiện Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu thần túc giục tâm mà địa đoạn hành thành tựu thì nương vào ly, nương vào vô nhiễm, nương vào dịch, hồi hướng xã, đó là thần túc thứ nhất. Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu thần túc trần tâm mà địa đoạn hành thành tựu thì nương vào ly, nương vào vô nhiễm, nương vào dịch, hồi hướng xã, đó là thần túc thứ hai. Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu thần túc tâm mà địa đoạn hành thành tựu thì nương vào ly, nương vào vô nhiễm, nương vào dịch, hồi hướng xã, đó là thần túc thứ ba. Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu thần túc quán tâm mà địa đoạn hành thành tựu thì nương vào ly, nương vào vô nhiễm, nương vào dịch, hồi hướng rồi xã, đó là thần túc thứ tư. Thiện hiện Nên biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, thiện hiện Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là năm căng. Những gì là năm? Thiện hiện Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì đối tượng tu hành là tính căng, tinh tấn căng, nhiệm căng, định căng, tuệ căng. Thiện hiện Nên biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, thiện hiện Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là năm lực. Những gì là năm? Thiện hiện Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì đối tượng tu hành là tính lực, tinh tấn lực, nhiệm lực, định lực, tuệ lực. Thiện hiện Nên biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, thiện hiện Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là bảy chi đẳng giác. Những gì là bảy? Thiện hiện Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì đối tượng tu hành là niềm đẳng giác, trạch pháp đẳng giác, tinh tấn đẳng giác, thị đẳng giác, kinh an đẳng giác, định đẳng giác, xã đẳng giác, nương vào ly, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt, hồi hướng xã. Thiện hiện Nên biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, thiện hiện Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là tám chi thánh đạo. Những gì là tám? Thiện hiện Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì đối tượng tu hành là tránh kiến, tránh tư duy, tránh nữ, tránh nghiệp, tránh mạng, tránh tinh tấn, tránh niệm, tránh định, nương vào ly, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt, hồi hướng xã. Thiện hiện Nên biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, thiện hiện Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là ba tam-ma-địa. Những gì là ba? Thiện hiện Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán tự tướng của tất cả Pháp đều là không, tâm được an trụ, thì gọi là Pháp môn giải thoát không, cũng gọi là tam-ma-địa không, đó là tam-ma-địa thứ nhất. Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, vì quán tự tướng của tất cả Pháp là không, nên đều không có tướng, tâm được an trụ, thì gọi là Pháp môn giải thoát vô tướng, cũng gọi là tam-ma-địa vô tướng, đó là tam-ma-địa thứ hai. Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, vì quán tự tướng của tất cả Pháp là không, nên đều không có sở nguyện, tâm được an trụ, thì gọi là Pháp môn giải thoát vô nguyện, cũng gọi là tam-ma-địa vô nguyện, đó là tam-ma-địa thứ ba. Thiện hiện Nên biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, thiện hiện Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là Pháp trí, loại trí, thế tục trí, tha tâm trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sanh trí, như thật trí, đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lúc bấy giờ, tôn giả thiện hiện bạch Phật, bạch thế tôn. Thế nào là Pháp trí? Phật dạy, thiện hiện Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết sự chuyển biến tướng sai biệt của năm quận V, V, thì đó là Pháp trí. Bạch thế tôn Thế nào là loại trí? Thiện hiện Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết quận giới, xứ và các duyên khởi, hoặc tổng, hoặc biệt là vô thường V, V, thì đó là loại trí. Bạch thế tôn Thế nào là thế tục trí? Thiện hiện Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết tất cả Pháp là danh tự giả thiết, thì đó là thế tục trí. Bạch thế tôn Thế nào là tha tâm trí? Thiện hiện Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết tâm, tâm sở Pháp của hữu tình và tu hành chứng diệt, thì đó là tha tâm trí. Bạch thế tôn Thế nào là khổ trí? Thiện hiện Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết khổ nên chẳng thọ xanh, thì đó là khổ trí. Bạch thế tôn Thế nào là tập trí? Thiện hiện Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết tập nên đoạn trừ vĩnh viễn, thì đó là tập trí. Bạch thế tôn Thế nào là diệt trí? Thiện hiện Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết diệt nên tác chứng, thì đó là diệt trí. Bạch thế tôn Thế nào là đạo trí? Thiện hiện Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết đạo nên tu tập, thì đó là đạo trí. Bạch thế tôn Thế nào là tận trí? Thiện hiện Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết tham, sân, si hết, thì đó là tận trí. Bạch thế tôn Thế nào là vô sanh trí? Thiện hiện Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết cõi đến của chúng sanh chẳng sanh lại, thì đó là vô sanh trí. Bạch thế tôn Thế nào là như thật trí? Thiện hiện Trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng của như lai, đó là như thật trí. Thiện hiện Nên biết đó là tướng đại thừa của đại Bồ Tát. Lại nữa, thiện hiện Tướng đại thừa của đại Bồ Tát là ba vô lậu căng. Những gì là ba? Đó là vị trí đương tri căng, dĩ tri căng, cụ tri căng. Lúc bấy giờ, thiện hiện Bạch Phật, Bạch thế tôn. Thế nào là vị trí đương tri căng? Phật dạy, thiện hiện Nếu các hành giả, đối với các thánh đế, chưa được hiện quán, chưa được thánh quả, nhưng có tính căng, tinh tấn căng, niềm căng, định căng, tuệ căng, thì đó gọi là vị trí đương tri căng. Bạch thế tôn Thế nào là dĩ tri căng? Thiện hiện Nếu các hành giả, đối với các thánh đế, đã được hiện quán, đã được thánh quả, lại có tính căng, tinh tấn căng, niềm căng, định căng, tuệ căng, thì đó gọi là dĩ tri căng. Bạch thế tôn Thế nào là cụ tri căng? Thiện hiện Các hành giả, hoặc là A-la-hán, hoặc là độc giác, hoặc là Bồ-Tát đã trụ thập địa, hoặc là chưa như lai ứng chánh đẳng giác, có tính căng, tinh tấn căng, niềm căng, định căng, tuệ căng, thì đó gọi là cụ tri căng. Thiện hiện Ba căng như vậy, nếu ai lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì nên viết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, thiện hiện Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là ba Tam-ma-địa. Những gì là ba? Đó là Tam-ma-địa hữu tầm hữu tướng, Tam-ma-địa vô tầm duy tướng, Tam-ma-địa vô tầm vô tướng. Lúc bấy giờ, cụ thọ thiện hiện Bạch Phật, Bạch thế tôn. Thế nào là Tam-ma-địa hữu tầm hữu tướng? Phật dạy, thiện hiện Nếu Lý Pháp dục ác bất thiện, có tầm, có tướng, ly xanh hỷ lạc, nhập tỉnh lựu ban đầu và an trú trọn vẹn trong đó, thì đó là Tam-ma-địa hữu tầm hữu tướng. Bạch thế tôn Thế nào là vô tầm duy tướng? Thiện hiện Nếu là định ở giữa tỉnh lựu ban đầu và tỉnh lựu thứ hai, thì đó là Tam-ma-địa vô tầm duy tướng. Bạch thế tôn Thế nào là Tam-ma-địa vô tầm vô tướng? Thiện hiện Nếu là tỉnh lựu thứ ba cho đến phi tưởng phi phi tưởng tướng, thì đó là Tam-ma-địa vô tầm vô tướng. Thiện hiện Với ba Tam-ma-địa như vậy, nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện ấy, thì nên biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, thiện hiện Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là 10 tuy nịm. Những gì là 10? Đó là tuy nịm Phật, tuy nịm Pháp, tuy nịm Tăng, tuy nịm Giới, tuy nịm Xã, tuy nịm Thiên, tuy nịm Tịch Tịnh Yểm Ly, tuy nịm Nhập Phước Tức, tuy nịm Thân, tuy nịm Tử. Thiện hiện Với 10 tuy nịm như vậy, nếu ai lấy vô sở đắc làm phương tiện ấy, thì nên biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, thiện hiện Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát nghĩa là đối với 4 tình lựu, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 8 giải thoát, 8 thắng xứ, 9 thứ đệ định, 10 biến xứ V, V, có bao nhiêu thiện pháp, nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì nên biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, thiện hiện Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là 10 lực của Phật. Những gì là 10? Đó là xứ phi xứ trí lực, nhịp dì thục trí lực, chủng chủng giới trí lực, chủng chủng thắng giải trí lực, căng thắng liệt trí lực, biến hành hành trí lực, tình lựu giải thoát đẳng trì đẳng trí tập nhiễm thanh tình trí lực, túc trụ tùy niệm trí lực, tử sanh trí lực, lầu tận trí lực. Lúc bấy giờ, cụ thọ thiện hiện bạch Phật, bạch Thế Tôn. Thế nào là xứ phi xứ trí lực? Phật dạy, thiện hiện. Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết như thật tướng xứ phi xứ của các Pháp nhân quả, thì đó là xứ phi xứ trí lực. Bạch Thế Tôn. Thế nào là nhịp dì thục trí lực? Thiện hiện. Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết rõ như thật, cái tướng của các nghiệp Pháp và các thứ nhân quả phải chịu ở quá khứ, vị lai, hiện tại của các loài hữu tình, thì đó là nhịp dì thục trí lực. Bạch Thế Tôn. Thế nào là trụng trụng giới trí lực? Thiện hiện. Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết rõ như thật tướng giới vô lượng của các loài hữu tình, thì đó là trụng trụng giới trí lực. Bạch Thế Tôn. Thế nào là trụng trụng thắng giải trí lực? Thiện hiện. Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết rõ như thật tướng thắng giải vô lượng của các loài hữu tình, thì đó là trụng trụng thắng giải trí lực. Bạch Thế Tôn. Thế nào là căng thắng liệt trí lực? Thiện hiện. Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết rõ như thật tướng căng thắng liệt của các loài hữu tình, thì đó là căng thắng liệt trí lực. Bạch Thế Tôn. Thế nào là biến hành hành trí lực? Thiện hiện. Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết rõ như thật tướng hoạt động cùng khắp của các loài hữu tình, thì đó là biến hành hành trí lực. Bạch Thế Tôn. Thế nào là tịnh lựu giải thoát đẳng trí đẳng trí tạp nhiễm thanh tịnh trí lực? Thiện hiện. Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết rõ như thật tướng tịnh lựu, giải thoát, đẳng trí, đẳng trí, tạp nhiễm, thanh tịnh, căng, lực, giáp chi, đạo chi v.v. của các loài hữu tình, thì đó là tịnh lựu giải thoát đẳng trí đẳng trí tạp nhiễm thanh tịnh trí lực. Bạch Thế Tôn. Thế nào là tốt trụ tùy niệm trí lực? Thiện hiện. Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết rõ như thật tướng sự việc ở vô lượng vô số đời trước của các loài hữu tình, thì đó là tốt trụ tùy niệm trí lực. Bạch Thế Tôn. Thế nào là tử sanh trí lực? Thiện hiện. Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết rõ như thật tướng vô lượng vô số việc sanh tử của các loài hữu tình, thì đó là tử sanh trí lực. Bạch Thế Tôn. Thế nào là lậu tầng trí lực? Thiện hiện. Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết rõ như thật các lậu dứt hẳn, tầm vô lậu giải thoát, tuệ vô lậu giải thoát, ở trong hiện pháp, tử tác chính, an trú hoàn toàn, có khả năng chánh khi, ta, sự sanh việc dứt, phạm hành đã lập, việc làm đã xong, chẳng thọ thân sau, thì đó là lậu tầng trí lực. Thiện hiện. Nên biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, thiện hiện. Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là bốn vô sở uy. Những gì là bốn? Đó là chánh đẳng giác vô uy, lậu tầng vô uy, chứng pháp vô uy, tầng khổ đạo vô uy. Lúc bấy giờ, cụ thọ thiện hiện Bạch Phật, Bạch Thế Tôn. Thế nào là chánh đẳng giác vô uy? Phật dạy, thiện hiện. Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, tự xưng ta là bậc chánh đẳng giác, dù có sa môn, hoặc bà la môn, hoặc trời, ma, phạm hoặc kẻ thế tục nào khác, y vào pháp lập vấn nạn và nghĩ nhớ nói rằng đối với pháp ấy, chẳng phải là chánh đẳng giác thì ta đối với sự vấn nạn kia, thấy rõ là không có lý do, vì đối với sự vấn nạn kia, thấy không có lý do, nên được an trú trong yên ổn, không sợ, không hãi, tự xưng ta ở môi vị Đại Tiên Tôn Quý, ở trong Đại Chúng, chính thức trống lên tiếng trống sau. Trống lên tiếng trống sư tử, chuyển bánh xe pháp nhịn màu, bánh xe đó thanh tịnh, chính chân vô thường, tất cả sa môn, hoặc bà la môn, hoặc trời, ma, phạm, hoặc kẻ thế tục nào khác đều không ai có khả năng chuyển bánh xe pháp như vậy, thì đó là chánh đẳng giác vô quý. Bạch Thế Tôn Thế nào là lậu tận vô quý? Thiện hiện Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, tự xưng ta đã hết hẳn các lậu, dù có sa môn, hoặc bà la môn, hoặc trời, ma, phạm, kẻ thế tục nào khác y vào pháp lập vấn nạn và nghĩ nhớ nói rằng, có lậu như vậy, chưa hết hẳn, thì ta đối với sự vấn nạn kia, thấy rõ là không có lý do, vì đối với sự vấn nạn kia, thấy không lý do, nên được trông yên ổn, không sợ, không hãi, tự xưng ta ở môi vị Đại Tiên Tôn Quý, ở trong Đại Chúng, chính thức trống lên tiếng trống sư tử, chuyển bánh xe pháp nhịn màu, bánh xe đó thanh tịnh chính chân vô thường, tất cả sa môn, hoặc bà la môn, hoặc trời, ma, phạm, hoặc kẻ thế tục nào khác, đều không có ai có khả năng chuyển bánh xe pháp như vậy, thì đó là lậu tận vô quý Bạch Thế Tôn Thế nào là chứng pháp vô quý? Thiện hiện Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, vì các đệ tử nói rõ pháp trở ngại đạo, dù có sa môn, hoặc bà la môn, hoặc trời, ma, phạm hoặc kẻ thế tục nào khác y pháp lập vấn nạn và nghĩ nhớ nói rằng làm theo pháp này chẳng có khả năng chiếu ngại đạo, ta đối với sự vấn nạn kia, thấy rõ là không có lý do, vì đối với sự vấn nạn kia, thấy không có lý do, nên được an trú trong sự yên ổn, không sợ, không hãi, tự xưng ta ở môi vị Đại Tiên Tôn Quý, ở trong đại chúng, chính thức trống lên tiếng trống sư tử. Chuyển bánh xe pháp nhịn màu, bánh xe này thanh tịnh, chính chân vô thượng, tất cả sa môn, hoặc bà la môn, hoặc trời, ma, phạm, hoặc kẻ thế tục nào khác đều không có ai có khả năng chuyển bánh xe pháp như vậy, thì đó là chứng pháp vô quý. Bạch Thế Tôn Thế nào là tận khổ đạo vô quý? Thiện hiện Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, vì các đệ tử nói đạo dứt hết khổ, dù có sa môn, hoặc bà la môn, hoặc trời, ma, phạm hoặc kẻ thế tục nào khác, y vào pháp lập vấn nạn và nghĩ nhớ nói rằng tu đạo này chẳng thể dứt hết khổ. Ta đối với sự vấn nạn kia, thấy rõ là không có lý do, vì đối với sự vấn nạn kia, thấy không lý do, nên được an trú trong sự yên ổn, không sợ, không hãi, tự xưng ta ở ngôi vị đại tiên tôn quý, ở trong đại chúng, chính thức trống lên tiếng trống sư tử, chuyển bánh xe pháp nhịn màu, bánh xe này thanh tịnh, chính chân vô thượng, tất cả sa môn, hoặc bà la môn, hoặc trời, ma, phạm, hoặc kẻ thế tục nào khác đều không có khả năng chuyển bánh xe pháp như vậy, thì đó là tận khổ đạo vô quý. Thiện hiện Nên biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, thiện hiện Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là bốn sự hiểu biết thông suốt. Những gì là bốn? Đó là sự hiểu biết thông suốt về nghĩa, sự hiểu biết thông suốt về pháp, sự hiểu biết thông suốt về từ, sự hiểu biết thông suốt về biện luận. Thiện hiện Thiện hiện Với bốn sự hiểu biết thông suốt như vậy, nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì nên biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, thiện hiện Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là đại từ, đại bi, đại hỷ, đại phả, năm loại mắt, sáu phép thần thông, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Thiện hiện Với các pháp như vậy, nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì nên biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, thiện hiện Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là mười tám pháp Phật bất công. Những gì là mười tám? Đó là ta, như lai ứng chánh đẳng giác, từ đêm mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, cho đến đêm cuối cùng, việc làm đã làm xong, nhập vô dư y đại niết bàn, ở trong khoảng giữa, thường không lầm lẫn, không một lời vội vàng, thô bạo, không có niệm lơ đỉnh, không có tâm bất định, không nghĩ mong lung, có trạch có xã, chỉ muốn không lùi, tinh tấn không lùi, niệm không lùi, tuệ không lùi, giải thoát không lùi, giải thoát tri kiến không lùi, tất cả thân nghiệp. Tất cả thân nghiệp, trí là dẫn đầu, tùy trí mà chuyển, tất cả nữ nghiệp, trí là dẫn đầu, tùy trí mà chuyển, tất cả yên nghiệp, trí là dẫn đầu, tùy trí mà chuyển, đối với quá xứ phát sợi trí kiến không đắm không ngại, đối với đời vị lai phát sợi trí kiến không đắm không ngại, đối với đời hiện tại phát sợi trí kiến không đắm không ngại. Thiện hiện 18 Pháp Phật bất cộng như vậy, đều lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên biết đó là Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, thiện hiện Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát là các Pháp môn văn tự Đà-La-Ni. Lúc bấy giờ, cụ thọ thiện hiện bạch Phật, bạch Thế Tôn. Thế nào là Pháp môn văn tự Đà-La-Ni? Phật dạy, thiện hiện Tánh bình đẳng của văn tự, tánh bình đẳng của ngôn ngữ, tánh bình đẳng của ngôn thuyết lý thú, nhập vào các Pháp môn văn tự, đó là Pháp môn văn tự Đà-La-Ni. Bạch Thế Tôn Thế nào là nhập vào các Pháp môn văn tự? Thiện hiện Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành bác nhã Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì do nhập vào Pháp môn tử khả nên ngộ tất cả Pháp vốn bất sanh, do nhập vào Pháp môn tử lạc nên ngộ tất cả Pháp lì cấu trần, do nhập vào Pháp môn tử bả nên ngộ thắng nghĩa giáo của tất cả Pháp, do nhập vào Pháp môn tử giả nên ngộ tính không sanh tử của tất cả Pháp, do nhập vào Pháp môn tử na nên ngộ tính vô đắc thất xa lì danh tướng của tất cả Pháp, do nhập vào Pháp môn tử lạ nên ngộ tính phức. Thế gian của tất cả Pháp, nhân duyên của ái vĩnh viễn chẳng hiện, do nhập vào Pháp môn tử đa nên ngộ tính điều phục, tịch tịnh, chân như, bình đẳng, vô phân biệt của tất cả Pháp, do nhập vào Pháp môn tử bả nên ngộ tính lì ràng bù của tất cả Pháp, do nhập vào Pháp môn tử ca nên ngộ tính lì nóng nảy, kiêu mạng, cấu ế của tất cả Pháp, được thanh tịnh, do nhập vào Pháp môn tử sa nên ngộ tính vô quái ngại của tất cả Pháp. Do nhập vào Pháp môn tử phực nên ngộ tính ngôn âm đạo đoạn của tất cả Pháp, do nhập vào Pháp môn tử đả nên ngộ tính chân như bất động của tất cả Pháp, do nhập vào Pháp môn tử giả nên ngộ tính như thật bất sanh của tất cả Pháp, do nhập vào Pháp môn tử sách ca nên ngộ tướng chế phục nhậm trì của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử ca nên ngộ tác giả của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử ta nên ngộ tánh bình đẳng về thời, Giang của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử ma nên ngộ tánh ngã và ngã sở của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử già nên ngộ tính hành thủ của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử tha nên ngộ tính của tất cả Pháp sứ sở là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử sa nên ngộ sự sanh khởi tính của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được. Do nhập vào Pháp môn tử thấp vượt nên ngộ tánh an ổn của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử đạt nên ngộ tính giới của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử xã nên ngộ tánh tịch tịnh của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử xư nên ngộ tánh như hư không của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử sạng nên ngộ tánh cung tận của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử tác đã nên ngộ tính nhậm trì phiếu phiếu khiến chẳng động chuyển của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử nhã nên ngộ tánh được biết rõ của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử lạc tha nên ngộ tánh chấp trước nghĩa của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử xa nên ngộ tánh nguyên nhân của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được. Do nhập vào Pháp môn tử bạc nên ngộ tánh có thể phá hoại của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử xước nên ngộ tánh che khuất của dục lạc của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử tác ma nên ngộ tánh có thể nhớ nghĩa của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử hạp phượt nên ngộ tánh có thể mời gọi của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử ta nên ngộ tánh có thể nhớ nghĩa của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử ngộ tánh võng kiện của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử kiện nên ngộ tánh bình đẳng rộng lớn của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử xoay nên ngộ tánh chứa nhóm của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử ngoả nên ngộ liệt tất cả việc tranh cãi ồn ào, không lại, không qua, đi, đứng, nằm, ngồi của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử phả nên ngộ quả báo đầy đủ cùng khắp của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử tắc ca nên ngộ tánh tích tụ chứa nhóm của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử giật ta nên ngộ tánh tướng giả suy của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử trước nên ngộ giấu vết của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử ca nên ngộ tánh bức bách xua đổi nhau của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được, do nhập vào Pháp môn tử trật nên ngộ chỗ cứu cánh của tất cả Pháp là chẳng thể nắm bắt được. Thiện hiện Pháp môn văn tử như vậy là có khả năng ngộ nhập đến tận cùng Pháp không, trừ văn tử như vậy, còn cái biểu thị về cái không của các Pháp lại chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Thiện hiện Ý nghĩa của văn tử như vậy chẳng thể nói ra được, chẳng thể hiển thị được, chẳng thể chấp thủ, chẳng thể ghi chép giữ gìn, chẳng thể quan sát, vì lìa các tướng. Thiện hiện Giống như hư không là nơi quy thú của tất cả vật, các Pháp môn văn tử này, cũng lại như vậy. Nghĩa không các Pháp đều nhập vào Pháp môn này mới được trỏ bay. Thiện hiện Nhập vào chữ xã này V, V, gọi là nhập vào các Pháp môn văn tử. Thiện hiện Nếu Đại Bồ Tát đối với việc nhập vào các Pháp môn văn tử như vậy thì đạt được trí thiện xảo, đối với sự nói năng, sự phô diễn, sự tiêu biểu của các thứ âm thanh, môn ngữ đều không bị trở ngại, đối với tánh bình đẳng không của tất cả Pháp, có khả năng chứng đắc và duy trì hết, đối với các thứ âm thanh, môn ngữ đều được thông suốt. Thiện hiện Nếu Đại Bồ Tát có khả năng nghe và nhập vào tướng ấn, cú ấn của các Pháp môn văn tử như vậy, nghe rồi thọ trì, đọc tụng rành rọt, vì người khác giảng giải, chẳng ham danh lợi thì do nhân duyên này mà đạt được hai mươi thứ công đức thù thắng. Những gì là hai mươi? Đó là được nghĩ nhớ dai, được tạm quý hơn hết, được sức kiên cố, được chỉ thú của Pháp, được sự hiểu biết tăng thường, được trí tuệ thù thắng, được điện tài vô ngại, được Pháp môn tổng trì, được sự không nghi hoặc, được sự không giận hay ưa đối với lời nói nghịch thuận, được an trú trong sự bình đẳng không cao thấp, được sự thông suốt đối với âm thanh môn ngữ của hữu tình, được vững hoàn hảo, xứ hoàn hảo, giới hoàn hảo, được duyên khởi hoàn hảo, nhân hoàn hảo, duyên hoàn hảo, Pháp hoàn hảo. Được trí hoàn hảo phân biệt sự thắng liệt của căng, được trí hoàn hảo biết tâm người khác, được sự quan sát khéo léo về tinh tú nhân lịch, được trí thiên nhĩ hoàn hảo, trí túc trụ tùy niệm hoàn hảo, trí thần cảnh hoàn hảo, trí hoàn hảo biết sống chết, được trí lậu tận hoàn hảo, được trí hoàn hảo nói về xứ phi xướng, được quay nghi hoàn hảo, qua lại trên đường. Thiện hiện Đó là được hai mươi công đức thù thắng. Thiện hiện Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đạt được Pháp môn văn tự Đa-la-ni, thì nên biết đó là tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát. Phật bảo thiện hiện Người hỏi thế nào là nên biết Đại Bồ-Tát phát tâm hướng đến Đại Thừa ư? Thiện hiện Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, từ vật này đến vật khác, thì nên biết đó là Đại Bồ-Tát phát tâm hướng đến Đại Thừa. Lúc bấy giờ, cụ thọ thiện hiện bạch Phật, bạch Thế Tôn. Thế nào là Đại Bồ-Tát, khi tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, từ vật này đến vật khác? Phật dạy, thiện hiện Nếu Đại Bồ-Tát biết tất cả Pháp không từ đâu đến, cũng chẳng đến đâu, vì sao? Vì tất cả Pháp không đi không đến, không chỗ khởi hành, không có đích để đến, vì các Pháp ấy không biến hoại, Đại Bồ-Tát ấy, đối với chỗ khởi hành và chỗ đến, chẳng ý lại, chẳng tư duy, tuy tu sử nghiệp ở vật của mình mà chẳng thấy vật ấy, thì này thiện hiện, đó là Đại Bồ-Tát, khi tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, từ vật này đến vật khác. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ-Tát tu sử nghiệp ở vật của mình? Thiện hiện Đại Bồ-Tát khi trụ ở vật ban đầu là trực khỉ, nên khéo léo tu sử 10 thứ nghiệp thu thắng. Chính là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sử nghiệp phá trừ kiêu mạng, vì các Pháp hưng thịnh chẳng thể nắm bắt được. Mười là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sử nghiệp ngôn ngữ chắc thật, thường hàng vì tánh của tất cả ngôn ngữ chẳng thể nắm bắt được. Chính là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sử nghiệp phá trừ kiêu mạng, vì các Pháp hưng thịnh chẳng thể nắm bắt được. Mười là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sử nghiệp ngôn ngữ chắc thật, thường hàng vì tánh của tất cả ngôn ngữ chẳng thể nắm bắt được. Thiện hiện Đại Bồ-Tát khi an trú vật ban đầu là trực khỉ, nên khéo tu sử 10 nghiệp thu thắng như vậy. Lại nữa, thiện hiện Đại Bồ-Tát khi trụ vật thứ hai là ly cấu, nên đối với tám Pháp, tư duy, tu tập, khiến mau viên mãng. Những gì là tám? Một là cấm giới thanh tịnh, hai là tri ân báo ân, ba là trụ sức an nhẫn, bốn là thọ hoan hỷ thu thắng, năm là không bỏ hữu tình, sáu là hàng khởi đại bi, bảy là đối với các sư trưởng đem tầm kính tinh để thăm hỏi, thừa sự, cúng dường, tưởng như phụng sự Phật, tám là khuyên cầu tu tập, ba là mật đa. Thiện hiện Đại Bồ-Tát khi trụ vật thứ hai là ly cấu, nên đối với tám Pháp như vậy, tư duy, tu tập, khiến mau viên mãng. Lại nữa, thiện hiện Đại Bồ-Tát khi trụ vật thứ ba là Pháp quan, nên trụ năm Pháp. Những gì là năm? Một là cần cầu đa văn, thường không nhằm chán và không cho là đủ, đối với Pháp đã nghe chẳng chấp trước văn tự, hai là lấy tâm vô nhiễm, thường hành Pháp thí, tuy mở rộng giáo hóa mà không tự cao, ba là vì nghiêm tình cõi nước mà trồng các căng lành, tuy là để hồi hướng mà chẳng tự đề cao, bốn là vì giáo hóa hữu tình, tuy chẳng mệt mỏi chán nản với việc sanh tử vô biên mà chẳng tự cao, năm là tuy trụ tạm quý mà không chấp trước. Thiện hiện Đại Bồ Tát khi trụ bậc thứ ba là Pháp quan, nên thường an trú năm Pháp như vậy. Lại nữa, thiện hiện Đại Bồ Tát khi trụ bậc thứ tư là diệm tuệ, nên trụ mười Pháp thường tu chẳng bỏ. Những gì là mươi? Thiện hiện Đại Bồ Tát khi trụ bậc thứ tư là diệm tuệ, nên an trú mười Pháp như vậy, thường hành chẳng bỏ.