Details
Nothing to say, yet
Big christmas sale
Premium Access 35% OFF
Nothing to say, yet
This transcription is from a Buddhist text called Kinh Đại Bác Nhã Ba La Mật Đa Tập 20. It discusses the various teachings and practices followed by the Great Bodhisattvas. The text emphasizes the importance of learning and practicing all the teachings in order to achieve enlightenment. It also highlights the need to observe and understand the true nature of these teachings. The Bodhisattvas are advised to avoid attachment to any particular teaching and cultivate qualities such as patience, compassion, and mindfulness. The text concludes that the Bodhisattvas should strive to attain the ultimate goal of enlightenment and not cling to temporary aspects of the teachings. Kinh Đại Bác Nhã Ba La Mật Đa Tập 20 Kinh Đại Bác Nhã Ba La Mật Đa Tập 20, Từ Quyển 476 đến Quyển 500 Hán Dịch, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang Việt Dịch, Hòa Thượng Thích Trí Nhiên Khảo Dịch, Hòa Thượng Thích Quảng Độ Quyển 476 Lxxx Phẩm Đạo Sĩ Bây giờ, Cụ Thọ Thiện Hiện suy nghĩ, đạo của Đại Bồ-Tát như thế nào mà các Đại Bồ-Tát an trụ vào đạo này có thể mặc những loại áo giáp công đức thù thắng và như thật làm lợi ích cho tất cả hữu tình. Biết tâm niệm của Cụ Thọ Thiện Hiện, Đức Thế Tôn Liên Bảo Này Thiện Hiện! Nên biết, Bố Thí Ba La Mật Đa cho đến Bác Nhã Ba La Mật Đa là đạo của các Đại Bồ-Tát. Bốn Niệm Trụ cho đến Tám Chi Thánh Đạo là đạo của các Đại Bồ-Tát. Pháp Nội Không cho đến Pháp Vô Tính Tự Tính Không là đạo của các Đại Bồ-Tát. Chân Như cho đến Cảnh Giới Bất Tương Nghị là đạo của các Đại Bồ-Tát. Thánh Đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo là đạo của các Đại Bồ-Tát. Bốn Tịnh Lự, Bốn Vô Lượng, Bốn Định Vô Sắc là đạo của các Đại Bồ-Tát. Tám Giải Thoát cho đến Mười Biến Xứ là đạo của các Đại Bồ-Tát. Pháp Môn Giải Thoát Không, Vô Tướng, Vô Nguyện là đạo của các Đại Bồ-Tát. Cực Khỉ Đị cho đến Pháp Vân Địa là đạo của các Đại Bồ-Tát. Tất cả Môn Đà-La-Ni, Môn Tam-Ma Địa là đạo của các Đại Bồ-Tát. Năm Loại Mắt, Sáu Phép Thần Thông là đạo của các Đại Bồ-Tát. Mười Lực Như Lai cho đến Mười Tám Pháp Phật Bất Cộng là đạo của các Đại Bồ-Tát. Pháp Không Quên Mất, Tánh Luôn Luôn Xã là đạo của các Đại Bồ-Tát. Trí Nhất Thiết, Trí Đạo Tướng, Trí Nhất Thiết Tướng là đạo của các Đại Bồ-Tát. Vô Lượng, Vô Biên Phật Pháp Khác là đạo của các Đại Bồ-Tát. Lại nữa, Này Thiện Hiện! Nói chung tất cả Pháp đều là đạo của các Đại Bồ-Tát. Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Vậy thì có Pháp nào mà các Đại Bồ-Tát không nên học không? Nếu các Đại Bồ-Tát không học Pháp đó thì có thể chứng quả vị vô thượng chánh đẳng Bồ-Đề không? Thiện Hiện Thưa! Bạch Thế Tôn! Không! Phật Bảo Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nhất định không có một Pháp nào mà Đại Bồ-Tát không nên học. Nếu các Đại Bồ-Tát không học Pháp ấy thì chắc chắn không thể cầu được quả vị vô thượng chánh đẳng Bồ-Đề. Vì sao? Vì nếu Đại Bồ-Tát không học tất cả Pháp thì nhất định không thể đạt được Trí Thất Thiết Trí. Cụ Thọ Thiện Hiện lại bạch Phật! Nếu tự tánh của tất cả các Pháp đều là không? Vì sao? Đại Bồ-Tát cần phải học vậy thì học ở chỗ nào? Nếu có sự học thì bạch Thế Tôn không lẽ đối với Pháp không hí luận mà làm ra hí luận, cho là có các Pháp là đây, là kia, do thế này, là thế kia. Đây là Thế Giang, đây là Phước Thế Giang, đây là Hữu Lậu, đây là Vô Lậu, đây là Hữu Vi, đây là Vô Vi. Đây là Pháp Phàm Phu, đây là Pháp Dự Lưu, đây là Pháp Nhất Lai, đây là Pháp Bất Hoàng, đây là Pháp A-La-Hán, đây là Pháp Độc Giác, đây là Pháp Bồ-Tát, đây là Pháp Như Lai. Phật Bảo Thiện Hiện Đúng vậy! Đúng vậy! Này Thiện Hiện! Như lời ông đã nói, tự tánh của các Pháp sở hữu đều không, hoặc tất cả các Pháp chẳng phải tự tánh không, thì Đại Bồ-Tát sẽ không chứng quả vị vô thường chánh Đẳng Bồ-Đề. Do tự tánh của tất cả Pháp đều không, cho nên Đại Bồ-Tát có thể chứng quả vị vô thường chánh Đẳng Bồ-Đề. Này Thiện Hiện! Như lời ông đã nói, nếu tự tánh của tất cả Pháp đều không, vì sao Đại Bồ-Tát cần phải học, vậy thì học ở đâu? Nếu có chỗ học thì Bạch Thế Tôn không lẽ đối với Pháp không hí luận mà tạo ra hí luận, cho là có các Pháp là đây, là kia, do thế này, là thế kia, nói đủ cho đến đây là Pháp của Như Lai. Này Thiện Hiện! Nếu các hữu tình biết tự tánh tất cả Pháp đều không, thì các Đại Bồ-Tát không cần học tất cả Pháp để chứng đắc trí thức thiết ký, hãy vì các hữu tình mà tìm phương cách để giáo hóa, bởi vì các hữu tình không biết tự tánh các Pháp đều không. Các Đại Bồ-Tát nhất định phải học tất cả Pháp, để chứng đắc trí thức thiết ký, vì các hữu tình mà lập những phương cách để giáo hóa. Này Thiện Hiện! Ông nên biết các Đại Bồ-Tát khi mới tu học Bồ-Tát Đạo, nên quan sát thật kỹ các Pháp tự tánh nó đều không thể đắc, chỉ do chấp trước, hòa hợp mà tạo ra, nên quan sát thật kỹ tự tánh của các Pháp hoàn toàn không, ở trong đó không nên chấp trước. Chỉ là không nên chấp trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Không nên chấp trước nhãn sứ cho đến ý sướng. Không nên chấp trước sắc sứ cho đến Pháp sướng. Không nên chấp trước nhãn giới cho đến ý giới. Không nên chấp trước sắc giới cho đến Pháp giới. Không nên chấp trước nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Không nên chấp trước nhãn xúc cho đến ý xúc. Không nên chấp trước các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Không nên chấp trước địa giới cho đến thức giới. Không nên chấp trước nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Không nên chấp trước các Pháp do duyên sanh. Không nên chấp trước vô minh cho đến lão tử. Không nên chấp trước bổ thí Ba-la-mật-đa cho đến bát nhã Ba-la-mật-đa. Không nên chấp trước Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không. Không nên chấp trước chân như cho đến cảnh giới bất tư nghi. Không nên chấp trước thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Không nên chấp trước bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Không nên chấp trước bốn tỉnh lử, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Không nên chấp trước tám giải thoát cho đến mười biến xướng. Không nên chấp trước Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Không nên chấp trước tỉnh quán địa cho đến như lai địa. Không nên chấp trước từ khỉ địa cho đến Pháp vân địa. Không nên chấp trước tất cả môn đà-la-ni, môn tam-ma địa. Không nên chấp trước năm loại mắt, sáu phép thần thông. Không nên chấp trước mười lực của như lai cho đến mười tám Pháp Phật bất trọng. Không nên chấp trước ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc đại sĩ. Không nên chấp trước Pháp không quên mất, tảnh luôn luôn xả. Không nên chấp trước trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Không nên chấp trước quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề. Không nên chấp trước tất cả hành đại bồ tát. Không nên chấp trước quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả Pháp đều không. Vì tánh không nên không chấp trước. Tánh không trong cái không của tánh không còn không thể đắt, hủn chỉ có tánh không mà chấp trước cái không. Này thiện hiện! Khi các đại bồ tát quan sát tất cả Pháp như vậy, đối với tánh của các Pháp tuy không chấp trước, nhưng với các Pháp phải học hỏi không nhằm chán. Đại bồ tát ấy trụ trong sự học này mà quán tâm hành sai khác của các hữu tình. Nghĩa là quan sát tâm hành của các hữu tình ở đâu? Sau khi quan sát rồi biết rõ như thật tâm của họ chỉ do hư vọng mà chấp. Bây giờ, bồ tát suy nghĩ, tâm kia chỉ do hư vọng mà chấp lấy. Này ta hãy làm cho họ giải thoát chắc chắn không khó. Suy nghĩ như vậy rồi, đại bồ tát an trụ vào bác nhã Palamudda, dùng phương tiện thiện xảo khuyên rằng, dạy Bảo nói với các hữu tình, bây giờ các ngươi hãy tránh xa những kiến chấp do hư vọng để đi vào chánh Pháp, tu tập các hành lành. Lại nói, bây giờ các ngươi nên thực hành bố thí để được đầy đủ tư lương không còn thiếu kém, chở nên ý vào đó mà sanh lòng kiêu mạng, buông lung. Vì sao? Vì trong ấy hoàn toàn không có gì lâu bền chắc thật. Bây giờ các ngươi nên tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã sẽ được đầy đủ những loại công đức, nhưng đừng ý vào đó mà sanh lòng kiêu mạng, buông lung. Vì sao? Vì trong ấy hoàn toàn không có lâu bền, chắc thật. Bây giờ các ngươi nên hành Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không? Nên hành chân như cho đến cảnh giới bất trương nhì. Nên hành thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Nên hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Nên hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Nên hành tám giải thoát cho đến mười biến xứng. Nên hành Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Nên hành tịnh quán địa cho đến như lai địa. Nên hành cực khỉ địa cho đến Pháp vân địa. Nên hành tất cả Pháp môn Dalani, môn Tamma địa. Nên hành năm loại mắt, sáu phép thần thông. Nên hành mười lực như lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Nên hành Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Nên hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Nên hành quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề. Nên hành tất cả hành đại Bồ Tát. Nên hành quả vị vô thượng chánh đẳng bồ đề của chư Phật. Nên hành vô lượng các Phật Pháp khác, nhưng đừng ý vào đó mà sanh tâm ngã mạng, buông lung. Vì sao? Vì trong ấy đều không có gì lâu bền, chắc thật. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy an trụ vào bác nhã Balamudda khi dùng phương tiện thiện xảo khuyên rằng, dạy bảo cho các hữu tình hành đạo Bồ Tát nhưng không chấp trước. Vì sao? Không nên chấp trước vào tánh của tất cả Pháp, hoặc năng chấp trước, hoặc sở chấp trước, chấp trước thời gian, chấp trước nơi trốn, hoàn toàn không có tự tánh, vì tự tánh của tất cả Pháp là không. Này thiện hiện! Khi các đại Bồ Tát tu hành đạo của Bồ Tát như vậy, thì đối với tất cả Pháp đều không có chỗ trụ. Lấy không có chỗ trụ mà làm phương tiện. Tuy hành bố thí Balamudda cho đến bác nhã Balamudda nhưng trong đó không có chỗ trụ. Tuy hành Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không, nhưng trong đó không có chỗ trụ. Tuy hành chân như cho đến cảnh giới bất tương nghị nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành thánh đế khổ, tập, diệt, đạo nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành tịnh quán địa cho đến như lai địa nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành cực khỉ địa cho đến Pháp vân địa nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành tất cả Pháp môn Dalani, Pháp môn Tamma địa nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành năm loại mắt, sáu phép thần thông nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành mười lực như lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành Pháp không quên mất, tảnh luôn luôn xã nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành tất cả hành đại Bồ Tát nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chiêu Phật nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành vô lượng các Phật Pháp khác nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Vì sao? Vì tự tánh của hành giả và hành tướng tất cả đều không, ở trong đó hoàn toàn không có chỗ trụ. Này thiện hiện! Nên biết các đại Bồ Tát mặc dù có thể chứng đắc quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề nhưng trong đó không muốn trụ vào chỗ chứng. Vì sao? Vì có hai lý do. Hai lý do đó là, một là quả vị ấy hoàn toàn không có tự tánh. Người có thể trụ và Pháp được trụ đều không thể đắc. Hai là đối với quả vị ấy không thỏa mãn. Cho nên đối với quả vị ấy không muốn trụ vào chỗ chứng. Nghĩa là các Bồ Tát thường nghĩ như vậy, ta phải chứng đắc quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề, không thể không chứng đắc. Nhưng ở trong đó không nên trụ vào quả vị đã chứng. Vì sao? Vì từ lúc ta mới phát tâm quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề cho đến nay, không bao giờ có tư tưởng khác chỉ cầu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Nhưng ta nhất định phải chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, không lẽ ở trong thời gian đó trụ quả khác. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy từ mới phát tâm cho đến khi nhập chánh tánh ly xanh của Bồ Tát chưa từng có tư tưởng khác, chỉ cầu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy từ lúc chứng đắc sơ địa lần lượt chứng đắc địa thứ mười chưa từng có tư tưởng khác, chỉ mong cầu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy một lòng cầu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, đối với tất cả thời tâm không tán loạn. Hoạt động của thân, khẩu, ý nghiệp hoàn toàn tương ưng với tâm bồ đề. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy trụ vào tâm bồ đề để hành đạo bồ đề, không bị những việc khác làm quấy nhiễu tâm mình. Cụ thọ thiện hiện thưa! Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả các Pháp hoàn toàn không sanh thì vì sao nói Đại Bồ Tát hành đạo bồ đề? Phật bảo! Đúng vậy! Đúng vậy! Theo lời ông nói, tất cả các Pháp đều không sanh, nhưng ở đây sao lại nói các Pháp không tạo tác, không có kết quả của sự tạo tác, nên biết tất cả Pháp đều không sanh? Cụ thọ thiện hiện Bạch Phật! Bạch Thế Tôn! Có phải chăng chư Phật dù xuất hiện ở thế gian hay không xuất hiện ở thế gian thì Pháp giới của các Pháp là Pháp thường trú như vậy? Phật bảo! Đúng vậy! Đúng vậy! Nhưng các hữu tình không thể hiểu rõ Pháp giới của các Pháp là Pháp thường trú như vậy nên luân hồi trong sanh tử, chịu các khổ não. Các Đại Bồ Tát vì làm lợi ích cho họ mà hành đạo bồ đề. Nhờ đạo bồ đề mà làm cho các hữu tình hoàn toàn giải thoát các khổ sanh tử và chứng đắc niết bàn thường là thanh lương. Cụ thọ thiện hiện lại Bạch Phật! Các Đại Bồ Tát nhờ dùng đạo sanh mà chứng bồ đề phải không? Phật bảo! Không! Cụ thọ thiện hiện Thư Phật! Bạch Thế Tôn! Nhờ dùng đạo không phát sanh nên đắc bồ đề phải không? Phật bảo! Không! Cụ thọ thiện hiện Thư! Bạch Thế Tôn! Nhờ dùng đạo phát sanh hay bớt sanh mà đắc bồ đề chăng? Phật bảo! Không! Cụ thọ thiện hiện Thư! Bạch Thế Tôn! Nhờ dùng đạo chẳng sanh chẳng phải không sanh mà đắc bồ đề chăng? Phật bảo! Không! Cụ thọ thiện hiện Thư! Bạch Thế Tôn! Nếu vậy thì do đâu mà đắc bồ đề? Phật bảo thiện hiện! Bồ đề không do đạo, chẳng phải đạo mà đạt được. Vì sao? Vì bồ đề tức là đạo, đạo tức là bồ đề. Cho nên không do đạo, phi đạo mà được. Cụ thọ thiện hiện lại Bạch Phật! Bạch Thế Tôn! Nếu bồ đề tức là đạo, đạo tức là bồ đề phải chăng đại Bồ Tát đã đắc đạo bồ đề thì cũng phải chính bồ đề. Nếu vậy thì Như Lai ứng chánh đẳng giác do duyên gì mà vì chư Bồ Tát nói mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại thả, mười tám Pháp Phật bất cộng, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Phật và vô lượng, vô biên các Phật Pháp khác để khiến cho họ tu chính. Phật bảo! Này thiện hiện, ý ông thế nào? Chẳng lẽ ông cho là Phật thật có đắc bồ đề sao? Thiện hiện thưa! Bạch Thế Tôn! Không! Vì sao? Vì Phật tức là bồ đề, bồ đề tức là Phật. Không nên nói Phật thật có đắc bồ đề. Phật bảo! Này thiện hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nhưng theo điều ông hỏi phải chăng đại Bồ Tát đã đắc đạo bồ đề thì cũng đắc đạo bồ đề. Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát tu đạo bồ đề chưa được viên mãn thì vì sao nói đã đắc bồ đề? Này thiện hiện! Nên biết, các đại Bồ Tát nếu đã viên mãn Bố Thí-Ba-La-Mật-Đa cho đến Bác-Nhã-Ba-La-Mật-Đa, nếu đã viên mãn Pháp-Nội không cho đến Pháp-Vô-Tính-Tự-Tính không, nếu đã viên mãn Chân-Như cho đến Cảnh-Giới-Bất-Tương-Nhì, nếu đã viên mãn Thánh-Đế-Khổ, Tập-Việt-Đạo, nếu đã viên mãn Bốn-Niệm-Trụ cho đến Tám-Chi-Thánh-Đạo, nếu đã viên mãn Bốn-Tịnh-Lự, Bốn-Vô-Lượng, Bốn-Định-Vô-Sắc, nếu đã viên mãn Tám-Giải-Thoát cho đến Mười-Biến-Xướng, nếu đã viên mãn Pháp-Môn-Giải-Thoát không, Vô-Tướng, Vô-Nguyện, nếu đã viên mãn Cực-Khỉ-Địa cho đến Pháp-Vân-Địa, nếu đã viên mãn tất cả Pháp-Môn-Đà-La-Ni, Pháp-Môn-Tam-Ma-Địa, nếu đã viên mãn Năm-Loại-Mắt, Sáu-Phép-Thần-Thông, nếu đã viên mãn Mười-Lực-Như-Lai cho đến Mười-Tám-Pháp-Phật-Bất-Cộng, nếu đã viên mãn Ba-Mươi-Hai-Tướng-Tốt, Tám-Mươi-Vẻ-Đẹp của Bậc-Đài-Sĩ, nếu đã viên mãn Pháp-Không-Quên-Mất, Tánh-Luôn-Luôn-Xã, nếu đã viên mãn Trí-Nhất-Thiết, Trí-Đạo-Tướng, Trí-Nhất-Thiết-Tướng, nếu đã viên mãn Vô-Lượng, Vô-Biên các Phật-Pháp khác. Từ đây không gián đoạn thì trong một sát na định kim cương dụ tương ưng với dụ tuệ, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả hai chứng ngại tập khí tương tục thô trọng mà chính đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Đó mới gọi là như Lai ứng chánh đẳng giác. Với tất cả Pháp đều được Đại Tử tại cho đến tận đời vị Lai luôn làm lợi ích cho hữu tình. Bây giờ, cụ Thọ Thiện Hiện bạch Phật Bạch Thế Tôn Đại Bồ-Tát trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật như thế nào? Phật dạy Này Thiện Hiện! Chiêu Đại Bồ-Tát từ mới phát tâm cho đến đời vị Lai, luôn làm thanh tịnh ba nghiệp thô trọng thuộc về thân, khẩu, ý của mình và làm thanh tịnh ba nghiệp thô trọng ấy cho người thì có thể trang nghiêm ở cõi Phật. Cụ Thọ Thiện Hiện thưa! Bạch Thế Tôn Thế nào là ba nghiệp thô trọng thuộc thân, khẩu, ý của Đại Bồ-Tát? Phật dạy Này Thiện Hiện! Nếu sát hại sanh mạng, không cho mà lấy và dục tà hạnh đó là thô trọng thuộc về thân. Nếu nói lời hư dối, lời ly gián, lời hung ác, lời tạp quế đó là sự thô trọng thuộc về khẩu. Nếu tham muốn, sân hận, tạ kiến đó là sự thô trọng thuộc về ý. Lại nữa, này Thiện Hiện! Giới quẩn, định quẩn, tuệ quẩn, giải thoát quẩn, giải thoát trí kiến quẩn của Đại Bồ-Tát mà không thanh tịnh thì cũng gọi là thô trọng. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-Tát có tâm sang tham, tâm phạm giới, tâm tức giận, tâm biến nhát, tâm tán loạn, tâm ác tuệ, cũng gọi là thô trọng. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-Tát có tâm xa thì bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo cũng gọi là thô trọng. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-Tát có tâm xa thì pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không cũng gọi là thô trọng. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-Tát có tâm xa thì chân như cho đến cảnh giới bất tương nghi, cũng gọi là thô trọng. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-Tát có tâm xa thì thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, cũng gọi là thô trọng. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-Tát có tâm xa thì bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng gọi là thô trọng. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-Tát có tâm xa thì tám giải thoát cho đến mười biến xứ cũng gọi là thô trọng. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-Tát có tâm xa thì pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng gọi là thô trọng. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-Tát có tâm xa thì cực khỉ địa cho đến pháp vân địa cũng gọi là thô trọng. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-Tát có tâm xa thì tất cả môn Đà-La-Ni, môn Tam-Ma địa cũng gọi là thô trọng. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-Tát có tâm xa thì năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng gọi là thô trọng. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-Tát có tâm xa thì mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất trọng cũng gọi là thô trọng. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-Tát có tâm xa thì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã cũng gọi là thô trọng. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-Tát có tâm xa thì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng gọi là thô trọng. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-Tát có tâm xa thì tất cả hành Đại Bồ-Tát cũng gọi là thô trọng. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-Tát có tâm xa thì quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ của Chiêu Phật cũng gọi là thô trọng. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-Tát tham trước quả dự lưu cho đến độc giác bồ đệ cũng gọi là thô trọng. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-Tát có tưởng về sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về nhãn xứ cho đến ý xứ cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về sắc xứ cho đến pháp xứ cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về nhãn giới cho đến ý giới cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về sắc giới cho đến pháp giới cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về nhãn thức giới cho đến ý thức giới cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về nhãn xuất cho đến ý xuất cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về địa giới cho đến thức giới cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về nhân duyên cho đến tăng thượng duyên cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về các pháp do duyên sanh ra cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về vô minh cho đến lão tử cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về bố thí ba la mật đa cho đến bác nhã ba la mật đa cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về chân như cho đến cảnh giới bất tư nghi cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về thánh đế khổ, tập, diệt, đạo cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về bốn tỉnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về tám giải thoát cho đến mười biến xứ cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về tỉnh quán địa cho đến như lai địa cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về cực khỉ địa cho đến pháp vân địa cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về tất cả pháp môn đa la ni, pháp môn tam ma địa cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về mười lực như lai cho đến mười tám pháp phật bất cộng cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc đại sĩ cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về tất cả hành đại bồ tác cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về dị xanh, tưởng về thanh văn, tưởng về độc giác, tưởng về bồ tác, tưởng về như lai cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về địa ngục, tưởng về bàn xanh, tưởng về ngã quỷ, tưởng về người, tưởng về trời, tưởng về nam, tưởng về nữ cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về cõi dục, tưởng về cõi sắc, tưởng về cõi vô sắc cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp thiện, tưởng về pháp không thiện cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp hữu ký, tưởng về pháp vô ký cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp hữu lậu, tưởng về pháp vô lậu cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp thế gian, tưởng về pháp suốt thế gian cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp hữu vi, tưởng về pháp vô vi cũng gọi là thô trọng. Này thiện hiện! Tất cả vô lượng, vô biên sự chấp trước các pháp như vậy cho đến các phân biệt do hư vọng của hữu tình tạo ra, cùng với thân, khẩu, ý nghiệp phát khởi và chủng loại đó không có tánh chịu đựng nổi đều gọi là thô trọng. Các đại bồ tác đều nên xa liệt. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác hành bát nhã Palamatta sâu xa nên xa liệt tất cả thô trọng như đã nói trên. Tự mình hành bố thí Palamatta và dạy bảo người khác hành bố thí Palamatta. Nếu các hữu tình cần thức ăn thì bố thí thức ăn, cần thức uống thì bố thí thức uống, cần xe cổ thì bố thí xe cổ, cần y phục thì bố thí y phục, theo những gì họ cần thì giúp đỡ đầy đủ. Tùy thời, tùy nơi mà bố thí tất cả. Mình tu hành những gì thì dạy bảo người tu hành như vậy. Bố thí như vậy rồi đem những căng lành ấy cho các hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hội hướng làm trang nghiêm thanh tình cỏi Phật mình đang ở, để mau viên mãn làm lợi lạc cho hữu tình. Đại bồ tác ấy tự mình hành tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã Palamatta và dạy bảo người khác cũng hành tình giới cho đến bát nhã Palamatta. Làm những việc ấy rồi, đem căng lành cho tất cả hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hội hướng làm trang nghiêm thanh tình cỏi Phật mình đang ở, để mau viên mãn làm lợi lạc hữu tình. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác dùng nguyện lực thần thông chứa đầy bảy báu thượng diệu trong ba ngàn đại thiên thế giới để cúng dường Phật, Pháp, Tăng. Cúng dường rồi đại bồ tác hoan hỉ phát lời thệ nguyện rộng lớn như vậy, tôi đem tất cả những căng lành đã trồng được này cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng nhau hội hướng làm trang nghiêm thanh tình cỏi Phật mình đang ở, tôi sẽ làm cho cỏi của tôi trang nghiêm bằng bảy báu và tất cả hữu tình tùy ý hưởng thụ các trân bảo tốt đẹp nhưng không có tham đắm. Lại nữa, này thiện hiện! Chứa đại bồ tác dùng nguyện lực thần thông trỗi vô lượng thứ kỷ nhạc vi diệu của cỏi trời, cỏi người để cúng dường tam bảo và tháp Phật. Cúng dường xong, đại bồ tác hoan hỉ phát thệ nguyện rộng lớn như vậy, tôi đem những căng lành đã trồng được này cho các hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hội hướng làm trang nghiêm thanh tình cỏi Phật mình đang ở, khiến cho cỏi của tôi thường được tấu lên những âm nhạc vi diệu như thế. Hữu tình nào được nghe thân tâm vui mừng nhưng không tham đắm. Lại nữa, này thiện hiện! Chứa đại bồ tác dùng nguyện lực thần thông chứa đầy các hương hoa tốt đẹp của cỏi trời, cỏi người cả ba ngàn đại thiên thế giới cúng dường tam bảo và tháp Phật. Cúng dường xong, đại bồ tác hoan hỉ phát thệ nguyện rộng lớn như vậy, tôi đem những căng lành đã trồng được này cho tất cả hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hội hướng làm trang nghiêm thanh tình cỏi Phật mình đang ở, khiến cho cỏi của tôi thường có các hương hoa tốt đẹp như vậy, hữu tình nào được nhận thì thân tâm vui sướng nhưng không tham đắm. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác dùng nguyện lực thần thông làm trăm món thức ăn uống thượng hạn cúng dường chiêu Phật, độc giác, thanh văn và các đại bồ tác. Cúng dường xong, đại bồ tác hoan hỉ phát thệ nguyện rộng lớn như vậy, tôi đem tất cả căng lành đã trồng được này cho tất cả hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hội hướng làm trang nghiêm thanh tình cỏi Phật mình đang ở, khiến cho các đại bồ tác hoan hỉ phát thệ nguyện rộng lớn như vậy, hữu tình nào được nhận thì thân tâm vui sướng nhưng không tham đắm. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác dùng nguyện lực thần thông làm các hương thơm tốt đẹp, y phục mềm mại như cỏi trời, cỏi người dân lên cúng dường chiêu Phật, độc giác, thanh văn và các chúng đại bồ tác, hoặc cúng dường Pháp và Tháp Phật. Cúng dường xong đại bồ tác hoan hỉ phát thệ nguyện rộng lớn như vậy, tôi đem tất cả căng lành đã trồng được này cho các hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hội hướng làm trang nghiêm thanh tình cỏi Phật mình đang ở khi chứng được quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, khiến cho các loại hữu tình trong quốc độ của tôi sẽ được những hương thơm, y phục như vậy, tùy ý thọ hưởng nhưng không tham đắm. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác dùng nguyện thần thông làm năm cảnh dự dục Pháp sanh tùy ý trong cỏi người, cỏi trời, để cúng dường chiêu Phật và Tháp Phật, độc giác, thanh văn và chúng đại bồ tác, bố thí cho các hữu tình khác. Cúng dường song đại bồ tác hoan hỷ Pháp thợ nguyện động lớn như vậy, tôi đem những căn lành này cho các hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hội hướng làm trang nghiêm thanh tình cỏi Phật mình đang ở khi chứng được quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, khiến cho các loại hữu tình trong quốc độ của tôi, tùy tâm ưa thích cảnh sát, thanh, hương, vị, xúc tốt đẹp thì ứng với ý nghĩ đó mà hiện ra, vui sướng hưởng thọ nhưng không tham đắm. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, giỏng mảnh xiên năng, Pháp thợ nguyện động lớn như vậy, tự mình trụ trong Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không, và dạy người khác trụ trong Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không. Làm những việc như vậy rồi, đại bồ tác phát nguyện, khi chứng được quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, nguyện cho tất cả loại hữu tình trong quốc độ của tôi không liệt Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, giỏng mảnh xiên năng, Pháp thợ nguyện như vậy, tự mình trụ trong chân như cho đến cảnh giới bất tư nghị, và dạy bảo người trụ trong chân như cho đến cảnh giới bất tư nghị. Làm như vậy rồi, bồ tác phát nguyện, khi chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, nguyện cho các loại hữu tình trong quốc độ của tôi không xa lì chân như cho đến cảnh giới bất tư nghị. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác hành bát nhã ba la mật đa thâm sâu, giỏng mảnh tinh tấn và Pháp thợ nguyện rộng lớn, tự mình trụ trong thánh đế khổ, tập, diệt, đạo và dạy bảo người khác cũng trụ trong thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Làm những việc như vậy xong đại bồ tác lại Pháp thợ nguyện như vậy, khi chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, tôi nguyện cho các loại hữu tình trong quốc độ của tôi không lìa bỏ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác hành bát nhã ba la mật đa thâm sâu, giỏng mảnh tinh tấn và Pháp thợ nguyện rộng lớn như vậy, tự mình tu tập bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, và cũng dạy bảo người khác tu tập bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Làm những việc như vậy rồi, đại bồ tác lại Pháp nguyện, khi chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, nguyện cho các loại hữu tình trong quốc độ của tôi không lìa bỏ tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác hành bát nhã ba la mật đa thâm sâu, giỏng mảnh tinh tấn và Pháp thợ nguyện rộng lớn như vậy, tự mình tu tập bốn tinh lựu, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, và dạy bảo người khác cũng tu tập bốn tinh lựu, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Làm như vậy xong, bồ tác Pháp nguyện, khi chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, tôi nguyện cho các loại hữu tình trong quốc độ của tôi không lìa bỏ bốn tinh lựu, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác hành bát nhã ba la mật đa thâm sâu, giỏng mảnh tinh tấn và Pháp thợ nguyện rộng lớn như vậy, tự mình tu tắm giải thoát cho đến mười biến xứng, và dạy bảo người khác tu tắm giải thoát cho đến mười biến xứng. Làm như vậy xong, đại bồ tác lại Pháp nguyện, khi chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, tôi nguyện cho các loại hữu tình trong quốc độ của tôi không lìa bỏ tám giải thoát cho đến mười biến xứng. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác hành bát nhã ba la mật đa thâm sâu, giỏng mảnh tinh tấn và Pháp thợ nguyện rộng lớn như vậy, tự mình tu Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, và dạy bảo người khác tu Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Làm những việc như vậy rồi, đại bồ tác lại Pháp nguyện, khi chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, tôi nguyện cho các loại hữu tình trong quốc độ của tôi không lìa bỏ Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác hành bát nhã ba la mật đa thâm sâu, giỏng mảnh tinh tấn và Pháp thợ nguyện rộng lớn như vậy, tự mình tu Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Làm những việc như vậy rồi, đại bồ tác lại Pháp nguyện, khi chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, tôi nguyện cho các loại hữu tình trong quốc độ của tôi không lìa bỏ Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác hành bát nhã ba la mật đa thâm sâu, giỏng mảnh tinh tấn và Pháp thợ nguyện rộng lớn như vậy, tự mình tu Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Làm những việc như vậy rồi, bồ tác phát nguyện, khi chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, tôi nguyện cho các loại hữu tình trong quốc độ của tôi không lìa bỏ tất cả Pháp môn đa la ni, Pháp môn tam ma địa. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác hành bát nhã ba la mật đa thâm sâu, giỏng mảnh tinh tấn và Pháp thợ nguyện rộng lớn như vậy, tự mình tu năm loại mắt, sáu phép thần thông, và dạy bảo người khác tu năm loại mắt, sáu phép thần thông. Làm những việc như vậy rồi, đại bồ tác lại phát nguyện, khi chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, tôi nguyện cho các loại hữu tình trong quốc độ của tôi không lìa bỏ năm loại mắt, sáu phép thần thông. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác hành bát nhã ba la mật đa thâm sâu, giỏng mảnh tinh tấn và Pháp thợ nguyện rộng lớn như vậy, tự mình tu tập mười lực như lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng, và dạy bảo người khác tu mười lực như lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Làm như vậy rồi, đại bồ tác phát nguyện, khi chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, tôi nguyện cho các loại hữu tình trong quốc độ của tôi không lìa bỏ mười lực như lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác hành bát nhã ba la mật đa thâm sâu, giỏng mảnh tinh tấn và Pháp thợ nguyện rộng lớn như vậy, tự mình tu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc đại sĩ và dạy bảo người khác tu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc đại sĩ. Làm như vậy xong, đại bồ tác lại phát nguyện, khi chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, tôi nguyện cho các loại hữu tình trong quốc độ của tôi không lìa bỏ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc đại sĩ. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác hành bát nhã ba la mật đa thâm sâu, giỏng mảnh tinh tấn và Pháp thợ nguyện rộng lớn như vậy, tự mình tu Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã, và dạy bảo người khác tu Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã. Làm như vậy xong, đại bồ tác lại phát nguyện, khi chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, tôi nguyện cho các loại hữu tình trong quốc độ của tôi không lìa bỏ Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác hành bát nhã ba la mật đa thâm sâu, giỏng mảnh tinh tấn và Pháp thợ nguyện rộng lớn như vậy, tự mình tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, và dạy bảo người khác tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Làm như vậy rồi, đại bồ tác lại phát nguyện, khi chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, tôi nguyện cho các loại hữu tình trong quốc độ của tôi không lìa bỏ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác hành bát nhã ba la mật đa thâm sâu, giỏng mảnh tinh tấn và Pháp thợ nguyện rộng lớn như vậy, tự mình tu tất cả hành đại bồ tác, và dạy bảo người khác tu tất cả hành đại bồ tác. Làm như vậy rồi, đại bồ tác lại phát nguyện, khi chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, tôi nguyện cho các loại hữu tình trong quốc độ của tôi không lìa bỏ tất cả hành đại bồ tác. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác hành bát nhã ba la mật đa thâm sâu, giỏng mảnh tinh tấn và Pháp thợ nguyện rộng lớn như vậy, tự mình tu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật, và dạy bảo người khác tu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật. Làm như vậy xong, đại bồ tác lại phát nguyện, khi chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, tôi nguyện cho các loại hữu tình trong quốc độ của tôi không lìa bỏ quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật. Như vậy, này thiện hiện! Các đại bồ tác hành bát nhã ba la mật đa thâm sâu, nhờ hành nguyện này mà có thể trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật đang ở. Thiện hiện nên biết, chúng đại bồ tác ấy tùy theo nơi trốn và thời gian mà hành đạo bồ đề nên được viên mãn hành nguyện đã phát. Tức là bất cứ nơi nào, lúc nào cũng tinh tấn tu học. Do nhân duyên này mà tự mình có thể thành tựu tất cả pháp lành, cũng có thể khiến cho người khác tuần tự thành tựu tất cả pháp lành. Tự mình có thể tu đắc tướng tốt đẹp, thù thắng để trang nghiêm thân, cũng có thể khiến người khác lần lượt tu được tướng tốt đẹp thù thắng để trang nghiêm, đó là do Phước Đức Rộng lớn bảo hộ. Thiện hiện nên biết, chúng đại bồ tác ấy hành nguyện tu tập đã được viên mãn, và đều được ở chỗ Phật trang nghiêm thanh tịnh. Khi chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, loài hữu tình được giáo hóa cũng sanh vào cõi đó cùng nhau thọ hưởng pháp lạc đại thư của tình độ. Thiện hiện nên biết, các đại bồ tác nên tu hành trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật như vậy, bởi vì trong cõi đó không nghe có ba đường ác, cũng không nghe có các cảnh giới thuộc ác kiến, không nghe có ba độc tham, sân, si, không nghe có hình tướng nam nữ, không nghe có thanh văn, độc giác, không nghe có hổ, vô thường, những việc không vừa ý, không nghe có tất chứa cuộc cãi, không nghe có chấp ngã, ngã sở, tùy miên, kiết sử, điên đảo, chấp trước, không nghe có an lập quả vị sai khác của hữu tình. Chỉ nghe nói về những tiếng không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tánh, nghĩa là tùy theo những điều ưa thích chuyên biệt của hữu tình. Tất cả những vật trong ngoài ở trong trường thường có gió nhẹ làm va chạm vào nhau phát trai những loại âm thanh vi diệu. Trong âm thanh đó nói tất cả Pháp đều không có tự tánh. Vì không có tự tánh nên nói là không. Vì không nên vô tướng. Vì vô tướng nên vô nguyện. Vì vô nguyện nên vô sanh. Vì vô sanh nên vô diệt. Cho nên các Pháp xưa nay tịch tịnh, tự tánh miết bàn. Như Lai xuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở đời Pháp giới của các Pháp vẫn là Pháp thường trụ như vậy, nghĩa là tất cả Pháp vô tánh không v.v. Trong cõi Phật đó các loại hữu tình hoặc đêm, hoặc ngày, hoặc đi đứng, nằm, ngồi thường nghe những âm thanh diệu Pháp như vậy. Thiện hiện nên biết, chúng đại Bồ Tát đó đều trụ ở cõi Phật trang nghiêm thanh tình khi chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, như Lai ứng chánh đẳng Giác trong mười phương đều khen nợ danh hiệu của các vị Phật ấy. Nếu hữu tình nào nghe danh hiệu của chiêu Phật như thế thì nhất định đối quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề được đắc bất thối chuyển. Thiện hiện nên biết, chúng đại Bồ Tát đều trụ ở cõi Phật trang nghiêm thanh tình khi chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, tuy nói chánh Pháp cho các hữu tình. Hữu tình nào nghe rồi nhất định không còn nghi ngờ. Nghĩa là đó là Pháp, đó là phi Pháp. Vì sao? Vì các hữu tình đó thấu đạt tất cả Pháp đều là chân như Pháp giới, Pháp tánh v.v. tất cả là chánh Pháp không phải phi Pháp. Như vậy, này thiện hiện, các đại Bồ Tát ấy đều có thể trang nghiêm thanh tình cõi Phật như vậy. Lại nữa, này thiện hiện, chúng đại Bồ Tát có vị do hóa sanh mà thiện căn chưa đầy đủ, chưa trồng các căn lành với chư Phật, Bồ Tát, độc giác và thanh văn vì bị các bạn ác khống chế. Vì sa lì bạn lạnh nên không nghe chánh Pháp, thường bị chấp trước vào những loại ngã kiến, hữu tình kiến và các cảnh giới kiến chấp, rơi vào hai kiến chấp đoạn kiến và thường kiến. Các hữu tình đó tự phát sanh tà chấp, và thường dạy bảo người khác phát sanh tà kiến. Chẳng phải tam bảo mà tưởng tam bảo, ở trong tam bảo mà cho là chẳng phải tam bảo, chê bai chánh Pháp, khen nợi tà Pháp. Do nhân duyên ấy, sau khi qua đời đọa vào các đường ác, chịu khổ sở. Các đại Bồ Tát mỗi vị ở cõi của mình, khi chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề rồi, thấy các hữu tình kia chìm đắm trong sanh tử bị vô lượng khổ, dùng lực thần thông và phương tiện để giáo hóa khiến cho họ xả bỏ ác kiến mà sống trong chánh kiến. Đa khỏi đường ác được sanh vào cõi người. Sanh vào cõi người rồi, lại dùng phương tiện thần thông giáo hóa khiến họ trụ trong chánh định tụ, nhờ vậy mà hoàn toàn không bị đọa vào đường ác. Lại khuyên họ tu tập hành nguyện thu thắng để sau khi qua đời được sanh về cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh, thỏa hưởng Pháp là Đại Thừa của tỉnh Độ. Như vậy, này thiện hiện. Các Đại Bồ Tát đều có thể ở cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh. Nhờ được ở cõi trang nghiêm thanh tịnh mà các hữu tình ấy đối với các Pháp không có nghi ngờ. Nói đây là Pháp Thế Giang, đây là Pháp Xuất Thế Giang, đây là Pháp hữu lậu, đây là Pháp vô lậu, đây là Pháp hữu vi, đây là Pháp vô vi. Tất cả những phân biệt nghi ngờ hoàn toàn không sanh. Do nhân duyên này mà các loài hữu tình ấy nhất định chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Này thiện hiện. Đó là tướng công đức của cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh.