Details
Nothing to say, yet
Big christmas sale
Premium Access 35% OFF
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Quyển 369 LXIV Phẩm Học Đạo khắp 04 Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa sâu xa, nên quán đại từ hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán đại bi, đại hỉ, đại xá hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán đại từ hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán đại bi, đại hỉ, đại xá hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán đại từ hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán đại. Bi, đại hỉ, đại xá hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán đại từ hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán đại bi, đại hỉ, đại xá hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán đại từ hoặc tịch tỉnh, hoặc chẳng tịch tỉnh, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán đại bi, đại hỉ, đại xá hoặc tịch tỉnh, hoặc chẳng tịch tỉnh, chẳng thể Nên quán đại từ hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán đại bi, đại hỉ, đại xá hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán đại từ hoặc là sở biến kỳ, hoặc chẳng phải là sở biến kỳ, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán đại bi, đại hỉ, đại xá hoặc là sở biến kỳ, hoặc chẳng phải là sở biến kỳ, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận. Này thiện hiện! Chẳng nên hí luận, nên quán tánh luôn luôn xả hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán pháp không quên mất hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán tánh luôn luôn xả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận. Nên quán pháp không quên mất hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán tánh luôn luôn xả hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán pháp không quên mất hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán tánh luôn luôn xả hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán pháp không quên mất hoặc là sở biến kỳ, hoặc ch� chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán tánh luôn luôn xả hoặc là sở biến kỳ, hoặc chẳng phải là sở biến kỳ, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán trí nhất thiết hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán trí nhất thiết hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán trí nhất thiết hoặc ng chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán trí nhất thiết hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận nên quán trí nhất thiết hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán trí nhất thiết hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán trí nhất thiết hoặc viễn ly, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc là sở biến tri, hoặc chẳng phải là sở biến tri, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận. Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán quả dự lưu hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán quả nhất lai, bất hoàng, à-la-hán, quả vị độc giác hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán quả dự lưu hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán quả nhất lai, bất hoàng, à-la-hán, quả vị độc giác hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán quả nhất lai, bất hoàng, à-la-hán, quả vị độc giác hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán quả dự lưu hoặc tình, hoặc bất tình, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán quả nhất lai, bất hoàng, à-la-hán, quả vị độc giác hoặc tình, hoặc bất tình, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán quả nhất lai, bất hoàng, à-la-hán, quả vị độc giác hoặc tình, hoặc bất tình nên quán quả dự lưu hoặc tình, hoặc chẳng tình, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán quả nhất lai, bất hoàng, à-la-hán, quả vị độc giác hoặc tình, hoặc chẳng tình, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán quả dự lưu hoặc viện ly, hoặc chẳng viện ly, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán quả nhất lai, bất hoàng, à-la-hán, quả vị độc giác hoặc viện ly, hoặc chẳng viện ly, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán qu Biến tri, hoặc chẳng phải là sở biến tri, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán quả nhất lai, bất hoàng, à-la-hán, quả vị độc giác hoặc là sở biến tri, hoặc chẳng phải là sở biến tri, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận. Này Thiện Hiện! Hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán quả vị giác ngộ cao tổ của chư Phật. Hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán tất cả hành đại Bồ Tát. Hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán quả vị giác ngộ cao tổ của chư Phật. Hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán tất cả hành đại Bồ Tát. Hoặc tịnh, hoặc chẳng tịnh, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán quả vị giác ngộ cao tổ của chư Phật. Hoặc tịnh, hoặc chẳng tịnh, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán tất cả hành đại Bồ Tát. Hoặc viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng thể hí luận nên chẳng nên hí luận, nên quán quả vị giác ngộ cao tổ của chư Phật. Lại nữa, thiên hiện. Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, nên quán thánh đế khổ, hoặc nền biến thi, hoặc nền biến thi, hoặc nền biến thi, hoặc nền biến thi, hoặc nền biến thi, hoặc nền biến thi, hoặc nền biến thi, hoặc nền biến thi, hoặc nền biến thi, hoặc nền biến thi, hoặc nền biến thi, hoặc nền biến thi, hoặc nền biến thi, hoặc nền biến thi, hoặc nền biến thi, hoặc nền biến thi, hoặc nền biến thi, hoặc nền biến thi, Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, nên quán thánh đế khổ, hoặc nền biến thi, hoặc chẳng nền biến thi, chẳng thể hí luận, nên chẳng nền hí luận, nền quán thánh đế tập, hoặc nền vĩnh đoạn, hoặc chẳng nền vĩnh đoạn, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, nền quán thánh đế diệt, hoặc nền tác chính, hoặc chẳng nền tác chính, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, nền quán thánh đế đạo, hoặc nền tu tập, hoặc chẳng nền tu tập, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, nên quán bốn tình lự, hoặc nền tu, hoặc chẳng nền tu, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, nền quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoặc nền tu, hoặc chẳng nền tu, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, nên quán bốn niệm trụ, hoặc nền tu, hoặc chẳng nền tu, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, nền quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, hoặc nền tu, hoặc chẳng nền tu, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, nên quán tám dạy thoát, hoặc nền tu, hoặc chẳng nền tu, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, nền quán tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng, hoặc nền tu, hoặc chẳng nền tu, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, nên quán tám dạy thoát, hoặc nền tu, hoặc chẳng nền tu, chẳng thể hí luận, nên quán tám dạy thoát, hoặc nền tu, hoặc chẳng nền tu, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, nên quán tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng, hoặc nền tu, hoặc chẳng nền tu, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, nên quán năm loại mắt, hoặc nền tu, hoặc chẳng nền tu, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, hoặc nền tu, hoặc chẳng nền tu, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, nên quán sáu phép thần thông, hoặc nền tu, hoặc chẳng nền tu, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, nên quán quả dự lưu, hoặc nền vượt, hoặc chẳng nền vượt, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, nên quán quả nhất lai, bất hoàng, à la hán, quả vị độc giác, hoặc nền vượt, hoặc chẳng nền vượt, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, nên quán bố thí ba la mật đa, hoặc nền hành, hoặc chẳng nền hành, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã ba la mật đa, hoặc nền hành, hoặc chẳng nền hành, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, nên quán pháp không nội, hoặc nền an trụ, hoặc chẳng nền an trụ, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, nên quán pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đội khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng. Thể nắm bắt được pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, hoặc nền an trụ, hoặc chẳng nền an trụ, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nền quán chân như hoặc nền an trụ, hoặc chẳng nền an trụ, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, nền quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghi, hoặc nền an trụ, hoặc chẳng nền an trụ, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nền quán chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát, hoặc nền thú nhập, hoặc chẳng nền thú nhập, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, nền quán chánh hành của Mười Địa Bồ-Tát, hoặc nền viên mãn, hoặc chẳng nền thú nhập, Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nền quán tất cả hữu tình, hoặc nền thành thục, hoặc chẳng nền thành thục, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, nền chẳng nền thú nhập, hoặc chẳng nền thú nhập, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, nền quán chánh hành của Mười Địa Bồ-Tát, hoặc nền viên mãn, hoặc chẳng nền viên mãn, Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nền quán tất cả hữu tình, hoặc nền thành thục, hoặc chẳng nền thành thục, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, nền quán tất cả cõi Phật, hoặc nền nhiên tình, hoặc chẳng nền nhiên tình, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nền quán mười lực Phật, hoặc nền khởi, hoặc chẳng nền khởi, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, nền quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám Pháp Phật bất cộng, hoặc nền khởi, hoặc chẳng nền khởi, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, Này thiện hiện! Mười tám Pháp Phật bất cộng, hoặc nền khởi, hoặc chẳng nền khởi, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nền quán đại tư, hoặc nền khởi, hoặc chẳng nền khởi, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, nền quán đại bi, đại hỷ, đại xã, hoặc nền khởi, hoặc chẳng nền khởi, Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nền quán Pháp không quên mất, hoặc nền khởi, hoặc chẳng nền khởi, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, nền quán Tánh Luân Luân xã, hoặc nền khởi, hoặc chẳng nền khởi, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nền quán Tánh Luân Luân xã, hoặc nền khởi, hoặc chẳng nền khởi, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nền quán Trí Nhất Thiết, hoặc nền khởi, hoặc chẳng nền khởi, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, nền quán Trí Đạo Tướng, Trí Nhất Thiết Tướng, hoặc nền khởi, hoặc chẳng nền khởi, Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nền quán Tất Cả Tập Khí Phiền Não Tương Tục, hoặc nền đoạn, hoặc chẳng nền đoạn, chẳng thể hí luận, nền chẳng nền hí luận, nền quán Quả Vị Giác Ngộ Cao Tổ Của Chương Trình, hoặc nền đoạn, hoặc chẳng nền đoạn, nền quán Quả Vị Giác Ngộ Cao Tổ Của Chương Trình, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, hoặc nền đoạn, nhãn xứ không hí luận, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ không hí luận, sắc xứ không hí luận, thanh, hương, vị, xuất, pháp xứ không hí luận, nhãn giới không hí luận, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới không hí luận, sắc giới không hí luận, thanh, hương, vị, xuất, pháp giới không hí luận, nhãn thức giới không hí luận, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới không hí luận, nhãn xuất không hí luận, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất không hí luận, các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra không hí luận, các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất làm duyên sanh ra không hí luận, địa giới không hí luận, thủy, hỏa, phong, không, thức giới không hí luận, vô minh không hí luận, hành, thức, danh sách, lục xứ, xuất, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sâu, thang, khổ ưu, não không hí luận, bố thí ba la mật đa không hí luận, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã ba la mật đa không hí luận, pháp không nội không hí luận, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không trốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không hí luận. Chân như không hí luận, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghị không hí luận. 4 niệm trụ không hí luận, 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo không hí luận. Thánh đế khổ không hí luận, thánh đế tập, diệt, đạo không hí luận. 4 tịnh lự không hí luận, 4 vô lượng, 4 định vô sắc không hí luận. 8 giải thoát không hí luận, 8 thắng xứ, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ không hí luận. Tất cả pháp môn Tam Ma Địa không hí luận, tất cả pháp môn Đà La Ni không hí luận. Pháp môn giải thoát không không hí luận, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không hí luận. Vật cực khỉ không hí luận, vật ly tấu, vật phát quan, vật diện tuệ, vật cực nang thắng, vật hiện tiên, vật viễn hành, vật bất động, vật thiện tuệ, vật pháp vân không hí luận. 5 loại mắt không hí luận, 6 phép thần thông không hí luận. 10 lực Phật không hí luận, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, 18 pháp Phật bất cộng không hí luận. Đại tư không hí luận, đại bi, đại hỷ, đại xã không hí luận. Pháp không quên mất không hí luận, tánh luôn luôn xã không hí luận. Trí nhất thiết không hí luận, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không hí luận. Quả dự lưu không hí luận, quả nhất lai, bất hoạn, à la hán, quả vị độc giác không hí luận. Tất cả hành đại Bồ Tát không hí luận. Đoạn trừ vĩnh viễn tập khí phiền não tương tục không hí luận. Quả vị giác ngộ cao tột của chiêu Phật không hí luận. Như vậy, này thiện hiện! Các đại Bồ Tát nên hành bác nhã ba la mật đa sâu xa không hí luận. Bây giờ, cụ thọ thiện hiện bạch Phật. Bạch Thế Tôn Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, tại sao quán tất cả pháp đều không hí luận? Phật dạy Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, quán sắc không có tự tánh, quán thọ, tưởng, hành, thức không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Vì vậy, sắc không hí luận, thọ, tưởng, hành, thức cũng không hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, quán nhãn xứ không có tự tánh, quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Vì vậy, nhãn xứ không hí luận, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ cũng không hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, quán sắc xứ không có tự tánh, quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Vì vậy, sắc xứ không hí luận, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, quán nhãn giới không có tự tánh, quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Vì vậy, nhãn giới không hí luận, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới cũng không hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, quán sắc giới không có tự tánh, quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Vì vậy, sắc giới không hí luận, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, quán nhãn giới không có tự tánh, quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Vì vậy, nhãn thức giới không hí luận, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, quán nhãn xúc không có tự tánh, quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Vì vậy, nhãn xúc không hí luận, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc cũng không hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, không có tự tánh, quán các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Vì vậy, các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không hí luận, các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng không hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, quán địa giới không có tự tánh, quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Vì vậy, địa giới không hí luận, thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, quán vô minh, không có tự tánh, quán hành, thức, danh sách, lục sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ ưu, não, không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Vì vậy, vô minh không hí luận, hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ ưu, não cũng không hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, quán bố thí ba la mật đa, không có tự tánh, quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã ba la mật đa không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Vì vậy, bố thí ba la mật đa không hí luận, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã ba la mật đa cũng không hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, quán pháp không nội, không có tự tánh, quán pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không trọng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không tánh tự tánh không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Vì vậy, pháp không nội không hí luận, pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng không hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, quán chân như, không có tự tánh, quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghị không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Vì vậy, chân như không hí luận, pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nghị cũng không hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, quán bốn niệm trụ, không có tự tánh, quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, quán thánh đế khổ, không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Vì vậy, bốn niệm trụ không hí luận, bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo cũng không hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, quán thánh đế khổ, không có tự tánh, quán thánh đế tập, diệt, đạo không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, quán thánh đế khổ, không có tự tánh, quán thánh đế tập, diệt, đạo cũng không hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, quán bốn tịnh lự, không có tự tánh, quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, quán tám giải thoát, không có tự tánh, quán tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Vì vậy, tám giải thoát không hí luận, tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ cũng không hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Quán pháp không quên mất, không có tự tánh. Quán tánh luôn luôn xả không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Vì vậy, pháp không quên mất không hí luận. Tánh luôn luôn xả cũng không hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát khi hành bát nhã Balamudda sâu xa, Quán trí nhất thiết, không có tự tánh. Quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Vì vậy, trí nhất thiết không hí luận. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng không hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát khi hành bát nhã Balamudda sâu xa, Quán quả dự lưu, không có tự tánh. Quán quả nhất lai, bất hoàng, à la hán, quả vị độc giác không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Vì vậy, quả dự lưu không hí luận. Quả nhất lai, bất hoàng, à la hán, quả vị độc giác cũng không hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát khi hành bát nhã Balamudda sâu xa, Quán tất cả hành Đại Bồ-Tát không có tự tánh, Quán sự đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não tương tục, Quả vị giác ngộ cao tổ của chư Phật không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thì chẳng nên hí luận. Vì vậy, tất cả hành Đại Bồ-Tát không hí luận sự đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não tương tục, Quả vị giác ngộ cao tổ của chư Phật cũng không hí luận. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát nếu có khả năng hành bát nhã Balamudda sâu xa không hí luận như thế, Khi đạt tất cả pháp không có tự tánh nên đều không hí luận, Liên nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát. Lúc bấy giờ, cụ thọ thiện hiện bạch Phật. Bạch Thế Tôn Nếu tất cả pháp đều không có tự tánh cũng không hí luận mà có thể đắt, Thì Đại Bồ-Tát dùng đạo gì được nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát? Có phải dùng đạo thanh văn, có phải dùng đạo độc giác, có phải dùng đạo Phật? Phật dạy. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát chẳng phải dùng đạo thanh văn, chẳng phải dùng đạo độc giác, Chẳng phải dùng đạo Phật mà được nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát. Nhưng các Đại Bồ-Tát đối với tất cả đạo, trước học hết rồi, Dùng đạo Bồ-Tát mà nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát. Này thiện hiện! Như Đại Bác, trước hết học các đạo, sau dùng đạo của mình mới có thể chứng nhập chánh tánh ly xanh, Cho đến nếu chưa khởi đạo quả vô học, thì còn chưa chứng đắt quả A-La-Hán. Đại Bồ-Tát cũng lại như vậy, đối với tất cả đạo, trước học hết, Rồi dùng đạo Bồ-Tát mới được nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát, Cho đến khi nếu chưa khởi định Kim Cang Dù, thì còn chưa thể đắt trí nhất thiết trí, Nếu khởi định này chỉ trong một sát na tương ưng với dự tuệ, Mới có thể chứng đắt trí nhất thiết trí. Cụ thò thiện hiện lại Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ-Tát vì muốn viên mãn trí nhất thiết trứng, Nên đối với tất cả đạo, trước hết học khắp, Rồi dùng đạo Bồ-Tát mài nhập vật chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát. Bạch Thế Tôn Đạo Đại Bác khác, đạo Dự Lưu quả khác, đạo Nhất Lai hướng khác, đạo Nhất Lai quả khác, Đạo Bất Hoàng hướng khác, đạo Bất Hoàng quả khác, đạo A-La-Hán hướng khác, Đạo Độc Giác khác, đạo Như Lai khác. Bạch Thế Tôn Các đạo như thế đã có sự sai khác, Các Đại Bồ-Tát vì muốn viên mãn trí nhất thiết trứng nên đối với tất cả đạo, Cần phải học hết, rồi mới nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát. Đại Bồ-Tát ấy nếu khi khởi đạo Đại Bác thì thành Đại Bác, Nếu khi khởi đạo Cụ Kiến thì thành Quả Dự Lưu, Nếu khi khởi đạo Tấn Tu thì thành Nhất Lai hướng hoặc thành Nhất Lai quả, Hoặc thành Bất Hoàng hướng, hoặc thành Bất Hoàng quả, hoặc thành A-La-Hán hướng, Nếu khi khởi đạo Vô Học thì thành A-La-Hán quả, Nếu khi khởi đạo Độc Giác thì thành Quả Vị Độc Giác. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ-Tát thành Đại Bác rồi mà có khả năng nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát thì đó là điều không có, Chẳng nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát mà có khả năng chứng đắc trí nhất thiết trí thì cũng là điều không có. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ-Tát thành Dự Lưu Quả, hoặc thành Nhất Lai hướng, hoặc thành Nhất Lai quả, Hoặc thành Bất Hoàng hướng, hoặc thành Bất Hoàng quả, hoặc thành A-La-Hán hướng, Hoặc thành A-La-Hán quả, hoặc thành Quả Vị Độc Giác rồi mà có khả năng nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát thì đó là điều không có, Chẳng nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát mà có khả năng chứng đắc trí nhất thiết trí thì đó cũng là điều không có. Bạch Thế Tôn Làm sao khiến con biết rõ như thật, các Đại Bồ-Tát đối với tất cả đạo, cần phải học hết rồi mới nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát mà chẳng trái lý? Phật dạy Này thiện hiện Đúng vậy Đúng vậy Đúng như ông đã nói Nếu Đại Bồ-Tát thành Đệ Bác rồi mà có khả năng nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát thì đó là điều không có, Chẳng nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát mà có khả năng chứng đắc trí nhất thiết trí thì đó cũng là điều không có, Nếu Đại Bồ-Tát thành Dự Lưu Quả, hoặc thành Nhất Lai Hướng, hoặc thành Nhất Lai Quả, hoặc thành Bất Hoàng Hướng, hoặc thành Bất Hoàng Quả, hoặc thành A-La-Hán Hướng, hoặc thành A-La-Hán Quả, hoặc thành Quả vị độc giác rồi mà có khả năng nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát thì đó là điều không có, Chẳng nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát mà có khả năng chứng đắc trí nhất thiết trí thì đó cũng là điều không có, Nhưng các Đại Bồ-Tát đối với tất cả đạo, cần phải học hết rồi mới nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát cũng chẳng trái lý, Đó là các Đại Bồ-Tát từ khi mới phát tâm giọng mạnh chánh trần tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lựu, bác nhã ba-la-mật-đa, dùng chi kiến thù thắng vượt qua tám bậc. Những gì là tám? Đó là bậc tịnh quán, bậc trũng tánh, bậc đệ bác, bậc kiến, bậc bạc, bậc ly dục, bậc dĩ biện, bậc độc giác. Đại Bồ-Tát ấy tuy đối với tám bậc đã nói như thế, đều tu học hết, nhưng có thể dùng chi kiến thù thắng vượt qua, dùng chi đạo tướng mà nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát. Đã nhập bậc chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát rồi, lại dùng trí nhất thiết tướng đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí tương tục, nhập bậc như lai, như vậy mới thành tự trí nhất thiết trí. Này Thiên Hiện! Đại Bồ-Tát ấy đã học đệ bác, hoặc trí, hoặc đoạn đều là nhẫn của Đại Bồ-Tát. Đại Bồ-Tát ấy đã học dự lưu, hoặc trí, hoặc đoạn và nhất lai, bất hoàng, a-la-hán, độc giác, hoặc trí, hoặc đoạn, cũng là nhẫn của Đại Bồ-Tát. Này Thiên Hiện! Đại Bồ-Tát ấy học hết các đạo của thanh văn và độc giác đã được viên mãn rồi, dùng trí đạo tướng hướng nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát, đã nhập bậc chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát rồi, lại dùng trí nhất thiết tướng, đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí tương tục, nhập bậc như lai, mới được thành tự trí nhất thiết trí. Này Thiên Hiện! Như vậy, Đại Bồ-Tát đối với tất cả đạo, đều tu học hết, được viên mãn rồi, mới chứng quả vị giác ngộ cao tột. Đã chứng quả vị giác ngộ cao tột rồi, đem quả chứng ấy làm lợi ích cho tất cả hữu tình. Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiên Hiện lại bạch Phật. Bạch Thế Tôn! Như Phật đã nói, tất cả tướng đạo, hoặc đạo thanh văn, hoặc đạo độc giác, hoặc đạo chiêu Phật, thì đối với đạo Phật, các Đại Bồ-Tát làm thế nào mà khởi đạo trí đạo tướng? Phật dạy! Này Thiên Hiện! Các Đại Bồ-Tát nên khởi tất cả trí đạo tướng thanh tịnh. Bạch Thế Tôn! Làm thế nào Đại Bồ-Tát khởi tất cả trí đạo tướng thanh tịnh? Này Thiên Hiện! Nếu các hành, trạng, tướng có thể phát khởi rõ trí đạo tướng thanh tịnh, thì Đại Bồ-Tát ấy đối với hết thể hành, trạng, tướng như thế, đều hiện đẳng giác, hiện đẳng giác rồi, như thật vì người tuyên thuyết khai thị, phô diễn, sắp xếp khiến các hữu tình được sự hiểu biết không đảo lộn, như thế mà hướng đến sự lợi ích an lạc. Này Thiên Hiện! Đại Bồ-Tát ấy đối với tất cả âm thanh, môn ngữ đều được thiện xảo, dùng âm thanh, môn ngữ thiện xảo này vì các loài hữu tình trong khắp thế giới tam thiên đại thiên, tuyên thuyết chánh pháp, khiến cho biết những điều đã nghe đều như tiếng vang trong hang núi, tuy có hiểu biết nhưng không chấp trước. Đại Bồ-Tát ấy, do nhân duyên này, nên học viên mãn các trí đạo tướng, đã học viên mãn trí đạo tướng rồi, nên như thật biết tất cả các thứ sai khác về tùy niên, ý thích của tất cả hữu tình, nên như thật biết địa ngục hữu tình có đạo địa ngục, nhân quả địa ngục, biết rồi, dùng phương tiện ngăn chặn đạo ấy và nhân quả ấy, nên như thật biết bàn xanh hữu tình, có đạo bàn xanh, nhân quả bàn xanh, biết rồi, dùng phương tiện ngăn chặn, đạo ấy và nhân quả ấy, nên như thật biết quỷ giới hữu tình có đạo quỷ giới, nhân quả quỷ giới, biết rồi dùng phương tiện ngăn chặn đạo ấy và nhân quả ấy, nên như thật biết các loài rồng, dược xoa, a tố lạc, phẫn nại lạc, kiên đạc phượt, ít lộ độ, cụ hoác tra, già lỗ noa, mạc hô lạc giả, trì thần chú vê. V. Mỗi loài đều có đạo và có nhân quả của chúng, biết rồi, dùng phương tiện ngăn chặn đạo ấy và nhân quả ấy, nên biết như thật đạo và nhân quả của loài người, nên biết như thật đạo và nhân quả của chúng. Trời 33, Trời Giả Ma, Trời Đổ Sử Đa, Trời Lạc Biến Hóa, Trời Tha Hóa Tự Tại, nên biết như thật các đạo và nhân quả của Trời Phạm Chúng, Trời Phạm Phù, Trời Phạm Hội, Trời Đại Phạm, nên biết như thật các đạo và nhân quả của Trời Quang, Trời Thiểu Quang, Trời Vô Lượng, Trời Thực Quang Tịnh, nên biết như thật các đạo và nhân quả của Trời Tịnh, Trời Thiểu Tịnh, Trời Vô Lượng Tịnh, Trời Biến Tịnh, nên biết như thật các đạo và nhân quả của Trời Quảng. Trời Thiểu Quảng, Trời Vô Lượng Quảng, Trời Quảng Quả, nên biết như thật các đạo và nhân quả của Trời Vô Tưởng, nên biết như thật các đạo và nhân quả của Trời Vô Phiền, Trời Vô Nhiệt, Trời Thiện Hiện, Trời Thiện Chiến, Trời Sát Cứu Cánh. Nên biết như thật các đạo và nhân quả của Trời Không Vô Biên Sướng, Vô Sở Hữu Sướng, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Sướng, biết rồi phương tiện tùy theo sự thích ứng mà ngăn chặn đạo kia và nhân quả kia, hoặc khuyên nhiếp thọ tu chứng thiện pháp, nên biết như thật bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và nhân quả của chúng, nên biết như thật pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và nhân quả của chúng, nên biết như thật các đạo và nhân quả của Trời Không Vô Biên S Nên biết như thật thánh đế khổ, tập, diệt, đạo và nhân quả của chúng, nên biết như thật bốn tình lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc và nhân quả của chúng, nên biết như thật tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ và nhân quả của chúng, nên biết như thật bố thí, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã ba la mật đa và nhân quả của chúng Nên biết như thật pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh và nhân quả của chúng, pháp không không tánh tự tánh và nhân quả của chúng. Nên biết như thật chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhị và nhân quả của chúng, nên biết như thật tất cả pháp môn tama địa, tất cả pháp môn đa la ni và nhân quả của chúng, nên biết như thật năm loại mắt, sáu phép thần thông và nhân quả của chúng, nên biết như thật mười địa bồ tát và nhân quả của chúng. Nên biết như thật mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng và nhân quả của chúng, nên biết như thật đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã và nhân quả của chúng, nên biết như thật pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã và nhân quả của chúng, nên biết như thật trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và nhân quả của chúng, nên biết như thật đạo các thanh văn, đạo các độc giác, đạo các bồ tát và nhân quả của chúng. Này thiện hiện, đại bồ tát ấy dùng các đạo như thế để an lập hữu tình. Này thiện hiện, đó gọi là các trí đạo tướng nên phát khởi của đại bồ tát. Đại bồ tát tu học trí đạo tướng như thế rồi, đối với các loại giới tính của hữu tình, các loại tụi miên, các loại ý thích đều khéo léo ngộ nhập, đã ngộ nhập rồi tùy theo sự thích ứng mà vì họ nói chánh pháp, đều khiến đạt được sự lợi ích an lạc, không có việc gì trôi qua trống rỗng. Vì sao? Này thiện hiện, vì đại bồ tát ấy xéo lèo thấu đạt các căn cơ thắng liệt của hữu tình, như thật rõ biết chỗ hướng đến sai biệt của tâm và tâm sở pháp của các hữu tình, qua lại sanh tử. Này thiện hiện, các đại bồ tát nên hành các đạo bác nhã-ba-la-mật-đa như thế. Vì sao? Này thiện hiện, vì đạo nên học của tất cả thanh văn, đạo nên học của tất cả độc giác, đạo nên học của tất cả đại bồ tát, tất cả pháp phận bồ đệ như thế đều được bác nhã-ba-la-mật-đa nhiếp thọ.