Home Page
cover of kinhdaibatnha (366)
kinhdaibatnha (366)

kinhdaibatnha (366)

Phuc Tien

0 followers

00:00-37:34

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech
0
Plays
0
Downloads
0
Shares

Audio hosting, extended storage and many more

AI Mastering

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa Tập 15 Quyển 366 LXIII Phẩm Xảo Tiện Hành 02 Phật Dạy Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, chẳng vì hai nên nhiếp thọ bố thí Ba-La-Mật-Đa, chẳng vì hai nên nhiếp thọ tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, chẳng vì hai nên nhiếp thọ Pháp không nội, chẳng vì hai nên nhiếp thọ Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không rốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đội khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh. Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh. Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, chẳng vì hai nên nhiếp thọ chân như, chẳng vì hai nên nhiếp thọ Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định Pháp, trụ Pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghị. Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, chẳng vì hai nên nhiếp thọ bốn niệm trụ, chẳng vì hai nên nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, chẳng vì hai nên nhiếp thọ thánh đế khổ, chẳng vì hai nên nhiếp thọ thánh đế tập, diệt, đạo. Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, chẳng vì hai nên nhiếp thọ bốn tình lự, chẳng vì hai nên nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, chẳng vì hai nên nhiếp thọ tám giải thoát, chẳng vì hai nên nhiếp thọ tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng. Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, chẳng vì hai nên nhiếp thọ pháp môn Tam-ma-địa, chẳng vì hai nên nhiếp thọ pháp môn Đa-la-ni. Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, chẳng vì hai nên nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, chẳng vì hai nên nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, chẳng vì hai nên nhiếp thọ năm loại mắt, chẳng vì hai nên nhiếp thọ sáu phép thần thông. Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, chẳng vì hai nên nhiếp thọ mười lực Phật, chẳng vì hai nên nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng. Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, chẳng vì hai nên nhiếp thọ đại tử, chẳng vì hai nên nhiếp thọ đại bi, đại hỷ, đại xã. Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, chẳng vì hai nên nhiếp thọ pháp không quên mất, chẳng vì hai nên nhiếp thọ tánh luôn luôn xã. Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, chẳng vì hai nên nhiếp thọ trí nhất thiết, chẳng vì hai nên nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, chẳng vì hai nên vượt các bật thanh văn và độc giác, chẳng vì hai nên nhập tránh tánh ly sanh của Đại Bồ-Tát, chẳng vì hai nên tu hành tránh hành của người địa Bồ-Tát, chẳng vì hai nên chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Cụ thọ thiện hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ-Tát khi hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, chẳng vì hai nên nhiếp thọ bổ thí Ba-La-Mật-Đa, chẳng vì hai nên nhiếp thọ tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, chẳng vì hai nên nhiếp thọ Pháp không nội, chẳng vì hai nên nhiếp thọ Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không trốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tản mạng, Pháp không không đổi khác, Pháp Bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không trọng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh, chẳng vì hai nên nhiếp thọ chân như, chẳng vì hai nên nhiếp thọ Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định Pháp, trụ Pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghị. Chẳng vì hai nên nhiếp thọ bốn niệm trụ, chẳng vì hai nên nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng gác, tám chi thánh đạo, chẳng vì hai nên nhiếp thọ thánh đế khổ, chẳng vì hai nên nhiếp thọ thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng vì hai nên nhiếp thọ bốn tình lự, chẳng vì hai nên nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng vì hai nên nhiếp thọ tám giải thoát, chẳng vì hai nên nhiếp thọ tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng Chẳng vì hai nên nhiếp thọ pháp môn Đà-la-địa, chẳng vì hai nên nhiếp thọ pháp môn Đà-la-đi, chẳng vì hai nên nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, chẳng vì hai nên nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng vì hai nên nhiếp thọ năm loại mắt, chẳng vì hai nên nhiếp thọ sáu phép thần thông, chẳng vì hai nên nhiếp thọ mười lực Phật, chẳng vì hai nên nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám Pháp Phật bất cộng, chẳng vì hai nên nhiếp th Chẳng vì hai nên nhiếp thọ pháp không quên mất, chẳng vì hai nên nhiếp thọ tánh luôn luôn xã, chẳng vì hai nên nhiếp thọ trí nhất thiết, chẳng vì hai nên nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng vì hai nên vượt lên các vật thanh văn và độc giác, chẳng vì hai nên thú nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát, chẳng vì hai nên tu hành chánh hành của mười địa Bồ-Tát, chẳng vì hai nên chứng các quả vị giác ngộ cao tột, vì tại sao Đại Bồ-Tát từ khi mới phát tâm cho đến tâm tối hậu phát khởi, ở trong tất cả thời thiện pháp tăng trưởng. Phật dạy Này Thiện Hiện Nếu Đại Bồ-Tát vì hai nên tu hành thì các thiện pháp chẳng được tăng trưởng. Vì sao? Này Thiện Hiện Vì tất cả hàng phạm phu Ngu Si đều nương vào hai nên các thứ thiện pháp sanh khởi chẳng được tăng trưởng. Vì Đại Bồ-Tát tu hành bất nhị nên từ khi mới phát tâm cho đến tâm tối hậu phát khởi, trong tất cả thời thiện pháp tăng trưởng. Vì vậy, này Thiện Hiện Đại Bồ-Tát, thiện căng kiên cố nên chẳng bị chế phục. Thiên, nhân, à tối lạc V V. Trong thế gian chẳng thể phá hoại, khiến rơi vào bật thanh văn hoặc độc giác, các thứ pháp ác bất thiện thế gian, chẳng có thể chế phục. Khiến khi hành bố thí Balamudda, các thiện pháp phát khởi chẳng tăng trưởng được, chẳng có thể chế phục. Khiến khi hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã Balamudda, các thiện pháp phát khởi chẳng tăng trưởng được, chẳng có thể chế phục. Khiến khi an trụ pháp không ngoại, pháp không đội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không trốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạng, pháp không không đội khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tổng tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, thiền pháp pháp khởi chẳng tăng trưởng được, chẳng có thể chế phục, khiến khi an trụ chân như, thiền pháp pháp khởi chẳng tăng trưởng được, chẳng có thể chế phục, khiến khi an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghị, thiền pháp pháp khởi chẳng tăng trưởng được, chẳng có thể chế phục, khiến khi tu bốn niệm trụ, thiền pháp ph pháp khởi chẳng tăng trưởng được, chẳng có thể chế phục, khiến khi tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, thiền pháp pháp khởi chẳng tăng trưởng được, chẳng có thể chế phục, khiến khi an trụ thánh đế khổ, thiền pháp pháp khởi chẳng tăng trưởng được, chẳng có thể chế phục, khiến khi an trụ thánh đế tập, diệt, đạo, thiền pháp pháp khởi chẳng tăng trưởng được chẳng có thể chế phục, khiến khi tu bốn tình lự, thiền pháp pháp khởi chẳng tăng trưởng được, chẳng có thể chế phục, khiến khi tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc, thiền pháp pháp khởi chẳng tăng trưởng được, chẳng có thể chế phục, khiến khi tu pháp môn Tamadea, thiền pháp pháp khởi chẳng tăng trưởng được, chẳng có thể chế phục, khiến khi tu pháp môn Dalani, thiền pháp pháp khởi chẳng tăng trưởng được, chẳng có thể chế phục, khiến khi tu pháp môn Giải thoát không, thiền pháp pháp khởi chẳ chẳng có thể chế phục, khiến khi tu pháp môn Giải thoát vô tướng, vô nguyện, thiền pháp pháp khởi chẳng tăng trưởng được, chẳng có thể chế phục, khiến khi tu năm loại mắt, thiền pháp pháp khởi chẳng tăng trưởng được, chẳng có thể chế phục, khiến khi tu sáu phép thần thông, thiền pháp pháp khởi chẳng tăng trưởng được Chẳng có thể chế phục, khiến khi tu mười lực Phật, thiền pháp pháp khởi chẳng tăng trưởng được, chẳng có thể chế phục, khiến khi tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám Pháp Phật bất cộng, thiền pháp pháp khởi chẳng tăng trưởng được, chẳng có thể chế phục, khiến khi tu Đại Từ, thiền pháp pháp khởi chẳng tăng trưởng được, chẳng có thể chế phục, khiến khi tu Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Sả, thiền pháp pháp khởi chẳng tăng trưởng được, chẳng có thể chế phục, khiến khi tu Thánh Luân Luân Sả, thiền pháp pháp khởi chẳng tăng trưởng được, chẳng có thể chế phục, khiến khi tu Trí Nhất Thiết, thiền pháp pháp khởi chẳng tăng trưởng được, chẳng có thể chế phục, khiến khi tu Trí Đạo Tướng, Trí Nhất Thiết Tướng, thiền pháp pháp khởi chẳng tăng trưởng được. Vì vậy, này thiền hiện, Đại Bồ Tát nên hành bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thế. Bây giờ, cụ thọ thiền hiện bạch Phật. Bạch Thế Tôn Đại Bồ Tát vì thiện căng nên hành bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chăng? Phật dạy Không Thiền hiện Đại Bồ Tát chẳng vì thiện căng mà hành bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, cũng chẳng vì bất thiện căng mà hành bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Này thiền hiện Vì pháp của Đại Bồ Tát nên như vậy, nếu chưa cung kính cúng dường chiêu Phật, chưa viên mãn thiện căng thù thắng, chưa được nhiều chân thiện hữu nhiếp thọ thì chẳng bao giờ đắc trí nhất thiết trí. Cụ thọ thiền hiện lại bạch Phật. Bạch Thế Tôn Tại sao Đại Bồ Tát cung kính cúng dường chiêu Phật, viên mãn thiện căng thù thắng, được nhiều chân thiện hữu nhiếp thọ mới có thể chứng đắc trí nhất thiết trí? Phật dạy Này thiền hiện Các Đại Bồ Tát từ khi mới phát tâm cung kính cúng dường vô lượng như lai ứng chánh đẳng giác, từ chỗ chiêu Phật, nghe nói khế kinh, ứng tụng, ký biệt, gia đà, từ thuyết, bản sự, bản sanh, phương quản, hy pháp, thí dụ, luận nghị, Nghe rồi trì hết, trì xong, thân nữ cung kính cúng dường, chuyển đọc, ôn tập, khiến khéo thông lợi, đã thông lợi rồi, tầm khéo quan sát, tầm khéo quan sát rồi, thấy rõ ý thú, thấy ý thú rồi lại khéo thông đạt, đã thông đạt rồi, đắc đà la ni, đắc đà la ni rồi, phát khởi sự hiểu biết thông suốt, phát khởi sự hiểu biết thông suốt rồi, cho đến chứng đắc trí nhất thiết trí, tùy chỗ thọ sanh. Đối với giáo nghị chánh pháp đã nghe, trì, chẳng bao giờ quên mất, ở chỗ chiêu Phật, gieo trồng vô lượng, thiện căng to lớn, do các thiện căng đã nhiếp thọ nên chẳng bao giờ sanh vào đường ác, chỗ nạn, lại do thiện căng đã nhiếp thọ nên ở trong tất cả thời, ý ưa thanh tịnh, vì ý ưa thanh tịnh nên thường nghiêm tịnh sở cầu là cõi Phật, cũng thường thành thuộc sở hóa là hữu tình, lại do thiện căng đã nhiếp thọ nên thường chẳng xa lìa thiện tri thức chân chánh, đó là chiều như lai ứng chánh đẳng giác và các chúng đại Bồ Tát, độc giác, thanh văn và những vị có khả năng luôn khen nợ Phật, phát, tăng khác, thường được gần gũi cung kính cúng dương. Như thế, này thiện hiện, đại Bồ Tát cung kính cúng dương chiêu Phật, viên mãn thiện căng thù thắng, được nhiều chân thiện hữu nhiếp thọ, màu chứng đắc trí nhất thiết trí. Vì vậy, này thiện hiện, đại Bồ Tát tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa muốn mau chứng đắc trí nhất thiết trí, nên tình cận cung kính cúng dương chiêu Phật, nhiếp thọ viên mãn thiện căng thù thắng, thường cầu gần gũi chân thiện tri thức, thường không chán nạn mỏi mệt. Bây giờ, cụ thọ thiện hiện bạch Phật. Bạch Thế Tôn Nếu đại Bồ Tát chẳng cung kính cúng dương chiêu Phật, chẳng viên mãn thiện căng thù thắng, chẳng được nhiều thiện hữu nhiếp thọ, thì đại Bồ Tát ấy chắc chắn chẳng có thể đạt được trí nhất thiết trí. Phật dạy Này thiện hiện Nếu chẳng cung kính cúng dương chiêu Phật, chẳng có thể viên mãn thiện căng thù thắng, chẳng được nhiều thiện hữu nhiếp thọ, thì còn chẳng nên được mang danh đại Bồ Tát, huống là có thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Vì sao? Này thiện hiện Vì hoặc có người cung kính cúng dương chiêu Phật, gieo trồng viên mãn thiện căng thù thắng, được nhiều chân thiện hữu nhiếp thọ còn chẳng có thể đắc trí nhất thiết trí, huống là chẳng cung kính cúng dương chiêu Phật, chẳng có thể viên mãn thiện căng thù thắng, chẳng được thiện hữu nhiếp thọ mà có thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Nếu người đó chứng được trí nhất thiết trí là điều không có. Vì vậy, này thiện hiện Nếu đại Bồ Tát muốn xứng danh là đại Bồ Tát, muốn mau chứng đắc trí nhất thiết trí, thì nên tinh trần cung kính cúng dương chiêu Phật, gieo trồng viên mãn thiện căng thù thắng, gần gũi cúng dương chân thiện tri thức, chở sanh mệt mỏi chán nản. Cụ thọ thiện hiện bạch Phật Bạch Thế Tôn Vì nhân duyên gì mà có đại Bồ Tát tuy đã cung kính cúng dương chiêu Phật, gieo trồng viên mãn thiện căng thù thắng, được chân thiện hữu nhiếp thọ, nhưng chẳng có thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Phật dạy Này thiện hiện Vì đại Bồ Tát ấy xa liệt sức phương tiện thiện xảo nên chẳng có thể chứng đắc trí nhất thiết trí, nghĩa là đại Bồ Tát ấy chẳng theo chiêu Phật để nghe nói phương tiện thiện xảo như thế để cung kính cúng dương chiêu Phật Thế Tôn, gieo trồng viên mãn thiện căng thù thắng, gần gũi cúng dương chân thiện tri thức, cho nên chẳng có thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Bây giờ, cụ thọ thiện hiện bạch Phật Bạch Thế Tôn Những gì gọi là phương tiện thiện xảo để đại Bồ Tát thành tựu các việc làm của phương tiện thiện xảo ấy thì nhất định có thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Phật dạy Này thiện hiện Nếu đại Bồ Tát từ khi mới phát tâm tu hành bố thí Ba-la-mật-đa dùng tác ý tương tương trí nhất thiết trí hoặc cúng dương như lai ứng chánh đẳng giác, hoặc cúng dương độc giác, hoặc cúng dương thanh văn, hoặc cúng dương đại Bồ Tát, hoặc cúng dương các sa-môn, ba-la-môn khác, hoặc bố thí người ngoại đạo tu phạm hành, hoặc bố thí kẻ bên cùng, hành đạo khổ hạnh và người đến cầu sinh, hoặc bố thí tất cả người chẳng phải người V.V. thì đại Bồ Tát ấy thành tựu tác ý tương tương trí nhất thiết trí như thế. Không tưởng việc bố thí, không tưởng nghĩ người nhận, không tưởng nghĩ người cho, cũng không tưởng nghĩ tất cả ngã, ngã sở. Vì sao? Này thiện hiện! Vì đại Bồ Tát ấy quán tự tướng của tất cả Pháp đều không, không khởi, không thành, không chuyển, không diệt, nhập các Pháp tướng, biết tất cả Pháp vô tác, vô năng, nhập các hành tướng. Đại Bồ Tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, luôn luôn tăng trưởng thiện căng thù thắng. Nhưng do thiện căng thù thắng thường tăng trưởng, nên có thể hành bố thí Palamudda, thành thuộc hữu tình, nhiên tình cõi Phật, tuy hành bố thí, nhưng chẳng mong cầu được quả của sự bố thí, nghĩa là chẳng tham trước cảnh giới khả ái do việc bố thí mà được, cũng chẳng ham cầu quả báo tốt đẹp, trong sanh tự do bố thí mà được, chỉ vì cứu hộ người không ai cứu hộ và muốn giải thoát cho người chưa giải thoát, mà tu hành bố thí Palamudda. Lại nữa, thiện hiện, nếu Đại Bồ Tát từ khi mới phát tâm tu hành tình giới Palamudda dùng tác ý tương tương trí nhất thiết trí mà thọ trì tình giới, thì tâm ý chẳng bị tham dục che lấp, cũng lại chẳng bị sân nhuế che lấp, cũng lại chẳng bị ngu si che lấp, lại cũng chẳng bị tuy phiền não. Các chuyện và các pháp ác bất thiện khác là những thứ chứng ngại bồ đề, che lấp, đó là sang lẫn ác hoạt, phẫn nhuế, giải đải, liệt tâm, loạn tâm, ác tuệ, các mạng, quá mạng, mạng quá mạng, ngã mạng, tăng thượng mạng, ti mạng, ta mạng, cũng thường chẳng khởi tác ý tương tương thanh văn, độc giác. Vì sao? Này thiện hiện! Vì Đại Bồ Tát ấy quán tự tướng của tất cả pháp đều không, không khởi, không thành, không chuyển, không diệt, nhập các pháp tướng, viết tất cả pháp vô tác, vô năng, nhập các hành tướng. Đại Bồ Tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, nên luôn luôn tăng trưởng thiện trăng thù thắng, do thiện trăng thù thắng thường tăng trưởng, nên có thể hành tịnh giới Palamudda, thành thuộc hữu tình, nhiêm tình cõi Phật, tuy hành tịnh giới, mà chẳng mong cầu đắc quả tịnh giới, đó là chẳng tham trước cảnh giới xả ái do dữ giới mà được, cũng chẳng tham cầu quả báo tốt đẹp trong sanh tử do dữ giới mà được, chỉ vì cứu hộ người không ai cứu hộ và muốn giải thoát người chưa giải thoát, mà. Tu tịnh giới Palamudda Lại nữa, thiện hiện, nếu Đại Bồ Tát từ khi mới phát tâm tu hành an nhẫn Palamudda, dùng tác ý tương tương trí nhất thiết trí mà tu học an nhẫn thì Đại Bồ Tát ấy thậm chí vì nhân duyên bảo vệ sự sống của mình cũng chẳng phát khởi một niềm sân nhuế, lời nói thô ác và tâm quán hẳn báo thu. Đại Bồ Tát ấy, giả sử có người đến muốn giết hại thân mạng, cướp đoạt tài sản, xâm phạm thê thiết, láo khoét dối trá, ly dáng thân hữu, nhục mạ thô tục, dễu cực bôi nhỏ, hoặc đập hoặc đánh, hoặc cắt hoặc giứt, hoặc làm nhiều việc chẳng phải việc lợi ích thì đối với hữu tình kia hoàn toàn không phẫn hận, chỉ muốn làm cho kẻ ấy lợi ích an lạc. Vì sao? Này thiện hiện! Vì Đại Bồ Tát ấy quán tất cả pháp, tự tướng đều không, không khởi, không thành, không chuyển, không diệt, nhập các pháp tướng, viết tất cả pháp vô tác, vô năng, nhập các hành tướng. Đại Bồ Tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, luôn luôn tăng trưởng thiện căng thù thắng, do thiện căng thù thắng thường tăng trưởng, nên có thể hành an nhẫn Balamarda, thành thuộc hữu tình, nhiên tình cõi Phật, tuy hành an nhẫn, nhưng chẳng mong cầu đắc quả nhẫn, đó là chẳng thăm trước cảnh giới xã ái doi nhẫn mà được, cũng chẳng thăm cầu quả báo tốt đẹp trong sanh tử doi nhẫn mà được, chỉ vì cứu hộ những kẻ không người cứu hộ và muốn giải thoát những người chưa giải thoát, mà tu hành. An nhẫn Balamarda Lại nữa, thiện hiện Vì sao? Này thiện hiện! Vì Đại Bồ Tát ấy quán tất cả Pháp, tự tướng đều không, không khởi, không thành, không chuyển, không diệt, nhập các Pháp tướng, viết tất cả Pháp vô tác, vô năng, nhập các hành tướng. Đại Bồ Tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, luôn luôn tăng trưởng thiện căng thù thắng, do thiện căng thù thắng thường tăng trưởng, nên có thể hành tinh tấn Balamarda, thành thuộc hữu tình, nhiêm tình cõi Phật, tuy hành tinh tấn, nhưng chẳng mong cầu đắc quả của sự tinh cần, đó là chẳng thăm trước các cảnh giới xã ái doi tinh cần mà được, cũng chẳng thăm cầu quả báo tốt đẹp trong sanh tử doi tinh cần mà được, chỉ vì cứu hộ những kẻ không người cứu hộ và muốn giải thoát những người chưa giải thoát mà tu hành tinh tấn Balamarda. Lại nữa, thiện hiện. Phong hộ nhị căng, chẳng bám theo sự phóng giật, chớ khiến tâm khởi sự tham ái Pháp ác bất thiện, các phiền não thế gian, mà chuyên tu niệm định, thủ hộ nhị căng, Đại Bồ Tát ấy mũi ngửi hương rồi, chẳng thủ các tướng, chẳng thủ hương thơm kèm theo, tức là ngay khi ấy phong hộ tỉ căng, chẳng bám vào sự phóng giật, chớ khiến tâm khởi sự tham ái Pháp ác bất thiện, các lậu phiền não thế gian, mà chuyên tu niệm định, thủ hộ tỉ căng. Đại Bồ Tát ấy lưỡi nến vị rồi, chẳng thủ các tướng, chẳng thủ các vị kèm theo, tức là ngay khi ấy phong hộ tỉ căng, chẳng bám theo sự phóng giật, chớ khiến tâm khởi tham ái Pháp ác bất thiện, các lậu phiền não thế gian, mà chuyên tu niệm định, thủ hộ tỉ căng. Đại Bồ Tát ấy thân xuất chạm rồi, chẳng thủ các tướng, chẳng thủ sự dễ chịu kèm theo, tức là ngay khi ấy phong hộ thân căng, chẳng bám vào sự phóng giật, chớ khiến tâm khởi tham ái Pháp ác bất thiện, các lậu phiền não thế gian, mà chuyên tu niệm định, thủ hộ thân căng. Đại Bồ Tát ấy hoặc tay, hoặc chân, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc lưng, hoặc l đều chẳng hung giữ, lời nói chẳng cứng nhắc, nói chẳng lẫn lộn, mắt và các căn chẳng nhiễu loạn, chẳng lây, chẳng đồng, cũng chẳng cao nạo, thân chẳng tán loạn, nói chẳng tán loạn, tâm chẳng tán loạn, thân tỉnh lặng, nói tỉnh lặng, tâm tỉnh lặng, hoặc ẩn, hoặc lộ, ngoài nghi không khác, đối với thức ăn uống, y phục, đồ nằm, thuốc thang kỳ bệnh và các vật dùng khác đều biết đủ, dễ thỏa mãn, dễ cúng dường, dễ phụng sự, khung pháp tu hành, chỗ ồn ào nhưng hành viễn ly, đối với lợi, với suy, với vui, với khổ, với khen, với hủy, với xưng, với chê, với sống, với sát, bình đẳng không biến, chẳng cao, chẳng thấp, với oán, với thân, với thiện, với ác, tâm không ghét thương, không mừng, không lo, đối với lợi thánh, với chẳng phải lợi thánh, với viễn ly, với ồn ào, tâm bình đẳng, không có đổi khác, đối với sát khả ái, sát chẳng khả ái, đối với các việc tùy thuận, trái nghịch, hoàn toàn không phân biệt, tâm thường an định. Vì sao? Này thiện hiện! Vì Đại Bồ-Tát ấy quán tất cả pháp tự tướng đều không, không khởi, không thành, không chuyển, không diệt, nhập các pháp tướng, viết tất cả pháp vô tác, vô năng, nhập các hành tướng. Đại Bồ-Tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, luôn luôn tăng trưởng thiện trăng thù thắng, do thiện trăng thù thắng thường tăng trưởng, nên hành tình lựu Ba-La-Mật-Đa, thành thuộc hữu tình, nghiêm tình cõi Phật, tuy hành tình lựu, nhưng chẳng mong cầu đắc quả định, nghĩa là chẳng tham trước các cảnh giới khả ái do định mà được, cũng chẳng tham cầu quả báo tốt đẹp trong sanh tử do tình lựu mà được, chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và muốn giải thoát người chưa giải thoát, mà tu hành tình lựu Ba-La-Mật-Đ Lại nữa, thiện hiện, nếu Đại Bồ-Tát từ khi mới phát tâm tu hành bác ngã Ba-La-Mật-Đa, dùng tác ý tương ưng ký nhất thiết trí mà tu học bác ngã thì Đại Bồ-Tát ấy không có các ác tuệ, thế lực khác chẳng có thể dẫn dắt, xa liệt tất cả chiến chấp ngã và ngã sở, xa liệt tất cả chiến chấp về ngã, chiến chấp hữu tình, chiến chấp dòng sanh mạng, chiến chấp khả năng sanh khởi, chiến chấp sự dưỡng dục, chiến chấp sự trưởng thành, chiến chấp chủ thể luân hồi, chiến chấp ý sanh, chiến chấp nho đồng, chiến chấp khả năng làm việc, chiến chấp xã, năng thọ quả báo, chiến chấp cái biết, chiến chấp cái thấy, xa liệt tất cả chiến chấp có, không có, các chiến chấp đường ác, xa liệt kiêu mạng, không phân biệt, không đổi xác mà tu dịu tuệ. Vì sao? Này thiện hiện, vì Đại Bồ-Tát ấy quán tất cả pháp tự tướng đều không, không khởi, không thành, không chuyển, không diệt, nhập các pháp tướng, viết tất cả pháp vô tác, vô năng, nhập các hành tướng. Đại Bồ-Tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, luôn luôn tăng trưởng thiện căng thù thắng, do thiện căng thù thắng thường tăng trưởng, nên có thể hành bác nhã Palamarda, thành thuộc hữu tình, nghiêm tình cõi Phật, tuy hành bác nhã, nhưng chẳng mong cầu đắc quả của tuệ, nghĩa là chẳng tham trước các cảnh giới xã ái do tuệ mà được, cũng chẳng tham cầu quả báo tốt đẹp trong sanh tử do tuệ mà được, chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và muốn giải thoát người chưa giải thoát, mà tu hành dịu. Tuệ Palamarda Lại nữa, Thiện Hiện Nếu Đại Bồ-Tát từ khi mới phát tâm tu hành bác nhã Palamarda, dùng tác ý tương tương trí nhất thiết trí nhập Sơ Thiền, nhập Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ Thiền, Đệ Tứ Thiền, nhập từ vô lượng, nhập đi, hỉ, xả vô lượng, nhập định không vô biên xứ, định thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ thì Đại Bồ-Tát ấy, tuy đối với tịnh lựu vô lượng vô sắc, xuất nhập từ tại, nhưng chẳng tham ái quả gì thuộc ấy. Vì sao? Thiện Hiện Vì Đại Bồ-Tát ấy thành thuộc phương tiện thiện xảo tối thắng. Do sức phương tiện thiện xảo này, quán các tịnh lựu vô lượng vô sắc, tự tướng đều không, không khởi, không thành, không chuyển, không diệt, nhập các pháp tướng, viết tất cả pháp vô tác, vô năng, nhập các hành tướng. Đại Bồ-Tát ấy thành tự phương tiện thiện xảo như thế, luôn luôn tăng trưởng Thiện Căng Thù Thắng, do Thiện Căng Thù Thắng thường tăng trưởng, nên có thể hành tịnh lựu vô lượng vô sắc. Do hành tịnh lựu vô lượng vô sắc, nên có thể tự tại, thành thuộc hữu tình, nghiêm tình cõi Phật, tuy hành tịnh lựu vô lượng vô sắc, nhưng chẳng mong cầu đắt quả của tịnh lựu ấy, nghĩa là chẳng tham trước các quả gì thuộc trong sanh tử đã được của tịnh lựu, vô lượng và định vô sắc, chỉ vì cứu hộ kẻ không người cứu hộ và vì giải thoát cho những người chưa giải thoát, mà không chấp thọ đối với việc tu các tịnh lựu vô lượng vô sắc. Lại nữa, Thiện Hiện Nếu Đại Bồ-Tát từ khi mới phát tâm tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, dùng tác ý tương ưng chí nhất thiết trí tu học tất cả Pháp phần bồ đề, thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, tuy hành đạo Pháp kiến và tu sở đoạn nhưng chẳng thủ quả dự lưu, cũng lại chẳng thủ quả nhất lai, bất hoàng, à-la-háng, quả vị độc giác. Vì sao? Này Thiện Hiện Vì Đại Bồ-Tát ấy quán tất cả Pháp tự tướng đều không, không khởi, không thành, không chuyển, không diệt, nhập các Pháp tướng, viết tất cả Pháp vô tác, vô năng, nhập các hành tướng. Đại Bồ-Tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, luôn luôn tăng trưởng Thiện Trăng Thù Thắng. Do Thiện Trăng Thù Thắng thường tăng trưởng, nên có thể hành 37 Pháp phần bồ đề, tuy hành Pháp phần bồ đề như thế nhưng vượt qua bậc thanh văn và độc giác, chứng nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát. Này Thiện Hiện, đó là vô sanh Pháp nhẫn của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, Thiện Hiện. Đại Bồ-Tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, luôn luôn tăng trưởng Thiện Trăng Thù Thắng. Do Thiện Trăng Thù Thắng thường tăng trưởng, nên có thể hành định 8 giải thoát, định 8 thắng xứ, định 9 thứ đệ, định 10 biến xứ, quán 4 thanh đế, Pháp môn Tam-ma-địa, Pháp môn Đa-la-ni, Pháp môn 3 giải thoát, tuy có khả năng hành định 8 giải thoát cho đến Pháp môn 3 giải thoát, nhưng vượt qua bậc thanh văn và độc giác, chứng nhập địa vị Bồ-Tát bất thối chuyển. Này Thiện Hiện, đó là Pháp nhẫn vô sanh Thọ ký của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, Thiện Hiện. Vì sao? Này Thiện Hiện. Vì Đại Bồ-Tát ấy quán tự tướng của tất cả Pháp đều không, không khởi, không thành, không chuyển, không diệt, nhập các Pháp tướng, biết tất cả Pháp vô tác, vô năng, nhập các hành tướng. Đại Bồ-Tát ấy thành tự phương tiện thiện xảo như thế, luôn luôn Thiện Trăng Thù Thắng tăng trưởng. Do Thiện Trăng Thù Thắng thường tăng trưởng, nên có khả năng hành 10 lực Phật, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, 18 Pháp Phật bất cộng, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Xã, Pháp không quên mất, Tánh Luân Luân Xã, Trí Nhất Thiết, Trí Đạo Tướng, Trí Nhất Thiết Tướng, 5 loại mắt, 6 phép thần thông. Do có khả năng hành 10 lực Phật cho đến 6 phép thần thông nên có thể viên mãn thành thuộc hữu tình, nghiêm tình cõi Phật, dần dần Chính Đắc Trí Nhất Thiết Trí. Này Thiện Hiện! Như vậy gọi là phương tiện thiện xảo. Nếu Đại Bồ-Tát thành tự phương tiện thiện xảo như thế, có làm việc gì, nhất định có khả năng Chính Đắc Trí Nhất Thiết Trí. Này Thiện Hiện! Phương tiện thiện xảo như thế đều do Bác Nhã Ba-la-mật-đa mà được thành tự. Vì vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-Tát nên hành Bác Nhã Ba-la-mật-đa, đối với các việc làm, chẳng cầu quả báo. LXIV Phẩm Học Đạo Khắp 0-1 Lúc bấy giờ, Cụ Thọ Thiền Hiện bạch Phật. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ-Tát đầy đủ sự giác ngộ tối thắng, tuy có thể thọ hành pháp sâu xa như thế, nhưng đối với việc ấy chẳng cầu quả báo. Phật Dạy Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Các Đại Bồ-Tát đầy đủ sự giác ngộ tối thắng tuy có thể thọ hành pháp sâu xa như thế, nhưng đối với việc ấy chẳng cầu quả báo. Vì sao? Thiện Hiện! Vì các Đại Bồ-Tát đối với tự tánh không lây động. Cụ Thọ Thiền Hiện lại bạch Phật. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ-Tát có thể đối với tự tánh nào mà không lây động? Phật Dạy Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-Tát có thể đối với tự tánh vô tánh, không lây động? Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ-Tát có thể đối với những pháp tự tánh vô tánh nào mà không lây động? Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-Tát có thể đối với tự tánh vô tánh của sắc, không lây động? Có thể đối với tự tánh vô tánh của thọ, tưởng, hành, thức, không lây động? Có thể đối với tự tánh vô tánh của nhãn xứ, không lây động? Có thể đối với tự tánh vô tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, không lây động? Có thể đối với tự tánh vô tánh của sắc xứ, không lây động? Có thể đối với tự tánh vô tánh của thanh, hương, vị, súc, pháp xứ, không lây động? Có thể đối với tự tánh vô tánh của nhãn xứ, không lây động? Có thể đối với tự tánh vô tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, không lây động? Có thể đối với tự tánh vô tánh của sắc xứ, không lây động? Có thể đối với tự tánh vô tánh của thanh, hương, vị, súc, pháp xứ, không lây động? Có thể đối với tự tánh vô tánh của nhãn xứ, không lây động? Có thể đối với tự tánh vô tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, không lây động? Có thể đối với tự tánh vô tánh của nhãn xứ, không lây động? Có thể đối với tự tánh vô tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, không lây động? Có thể đối với tự tánh vô tánh của các họ do nhãn xứ làm duyên sanh ra, không lây động? Có thể đối với tự tánh vô tánh của các họ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ làm duyên sanh ra, không lây động? Có thể đối với tự tánh vô tánh của địa giới, không lây động? Không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của vô minh, không lây động? Có thể đối với tự tánh vô tánh của hành, thức, danh sách, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ ưu, não, không lây động? Có thể đối với tự tánh vô tánh của bố thí Ba-la-mật-đa, không lây động? Không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã Ba-la-mật-đa, không lây động? Có thể đối với tự tánh vô tánh của pháp không nội, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không trốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đội khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh. Pháp không không tánh tự tánh, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của bốn tịnh lự, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của bốn niệm trụ, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chiêu thán đạo, không lây động. Có thể đối với tự tánh vô tánh của pháp môn giải thoát không, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của thánh đế khổ, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của thánh đế tập, diệt, đạo, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của tám giải thoát, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của tám tháng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng, không lây động, có thể đối với tự tánh. Vô tánh của tất cả pháp môn Tamma địa, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của tất cả pháp môn Đà La Nhi, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của mười địa Bồ Tát, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của năm loại mắt, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của sáu phép thần thông, không lây động. Có thể đối với tự tánh vô tánh của mười lực Phật, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám Pháp Phật bất động, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của Đại Tự, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Phả, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của Pháp không quên mất, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của tánh Luân Luân Phả, không lây động, có thể đối với tự tánh vô. Tánh của Trí Nhất Thiết, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của Trí Đạo Tướng, Trí Nhất Thiết Tướng, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của Quả Dự Lưu, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của Quả Nhất Lai, Bất Hoàng, A-La-Hán, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của Quả Vị Độc Giác, không lây động, có thể đối với tự tánh vô tánh của tất cả hành đại Bồ Tát, không lây động. Có thể đối với tự tánh vô tánh của Quả Vị Giác Ngộ Cao Tột của Chiêu Phật không lây động. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của các Pháp tức là vô tánh, vô tánh thì chẳng có thể hiện chứng vô tánh.

Listen Next

Other Creators