Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
Kinh đại Bát Nhãp Quyển 36 7. Phẩm dạy bảo trao truyền 26 Thiện hiện Ngư lại quán nghĩa nào mà nói là chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ Tát? Bạch Thế Tôn Hữu vi, vô vi của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt tráo còn chẳng thể nắm bắt được, vì tánh chẳng có, huống là có cái danh hữu vi, vô vi của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Các danh này đã chẳng có, thì tại sao có thể nói là chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ Tát? Thiện hiện Ngư lại quán nghĩa nào mà nói là chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ Tát? Bạch Thế Tôn Hữu vi, vô vi của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt tráo còn chẳng thể nắm bắt được, vì tánh chẳng có, huống là có cái danh hữu vi, vô vi của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Các danh này đã chẳng có, thì tại sao có thể nói là chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ Tát? Thiện hiện Ngư lại quán nghĩa nào mà nói là chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ Tát? Bạch Thế Tôn Hữu vi của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt tráo còn chẳng thể nắm bắt được, vì tánh chẳng có, huống là có cái danh hữu vi, vô vi của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Các danh này đã chẳng có, thì tại sao có thể nói là chính cái danh hữu vi, hoặc vô vi của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ Tát? Thiện hiện Ngư lại quán nghĩa nào mà nói là chính cái danh thiện, hoặc phi thiện của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ Tát? Bạch Thế Tôn Thiện, phi thiện của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt tráo còn chẳng thể nắm bắt được, vì tánh chẳng có, huống là có cái danh thiện, phi thiện của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Các danh này đã chẳng có, thì tại sao có thể nói là chính cái danh thiện, hoặc phi thiện của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ Tát? Thiện hiện Ngư lại quán nghĩa nào mà nói là chính cái danh thiện, hoặc phi thiện của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ Tát? Bạch Thế Tôn Thiện, phi thiện của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt tráo còn chẳng thể nắm bắt được, vì tánh chẳng có, huống là có cái danh thiện, phi thiện của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Các danh này đã chẳng có, thì tại sao có thể nói là chính cái danh hữu tội, hoặc vô tội của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ Tát? Thiện hiện Ngư lại quán nghĩa nào mà nói là chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ Tát? Bạch Thế Tôn Hữu phiền não, vô phiền não của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt tráo còn chẳng thể nắm bắt được, vì tánh chẳng có, huống là có cái danh hữu phiền não, vô phiền não của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Các danh này đã chẳng có, thì tại sao có thể nói là chính cái danh hữu phiền não, hoặc vô phiền não của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ Tát? Thiện hiện Ngư lại quán nghệ nào mà nói là chính cái danh thế gian, hoặc suốt thế gian của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ Tát? Bạch Thế Tôn Thế gian, suốt thế gian của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt tráo còn chẳng thể nắm bắt được, vì tánh chẳng có, huống là có cái danh thế gian, suốt thế gian của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Các danh này đã chẳng có, thì tại sao có thể nói là chính cái danh thế gian, hoặc suốt thế gian của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ Tát? Thiện hiện Ngư lại quán nghệ nào mà nói là chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ Tát? Bạch Thế Tôn Tạp nhiễm, thanh tịnh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt tráo còn chẳng thể nắm bắt được, vì tánh chẳng có, huống là có cái danh tạp nhiễm, thanh tịnh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Các danh này đã chẳng có, thì tại sao có thể nói là chính cái danh tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ Tát? Thiện hiện Ngư lại quán nghĩa nào mà nói là chính cái danh thuộc thanh tử, hoặc thuộc niết bàn của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ Tát? Bạch Thế Tôn Thuộc thanh tử, thuộc niết bàn của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt tráo còn chẳng thể nắm bắt được, vì tánh chẳng có, huống là có cái danh thuộc thanh tử, thuộc niết bàn của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Các danh này đã chẳng có, thì tại sao có thể nói là chính cái danh thuộc thanh tử, hoặc thuộc niết bàn của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ Tát? Thiện hiện Ngư lại quán nghĩa nào mà nói là chính cái danh tại nội, tại ngoại, hoặc tại lưỡng giang của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ Tát? Bạch Thế Tôn Tại nội, tại ngoại, tại lưỡng giang của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt tráo còn chẳng thể nắm bắt được, vì tánh chẳng có, huống là có cái danh tại nội, tại ngoại, tại lưỡng giang của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Các danh này đã chẳng có, thì tại sao có thể nói là chính cái danh tại nội, tại ngoại, hoặc tại lưỡng giang của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ Tát? Thiện hiện Ngư lại quán nghĩa nào mà nói là chính cái danh khả đắc, hoặc bất khả đắc của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là Đại Bồ Tát? Bạch Thế Tôn Khả đắc, bất khả đắc của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt tráo còn chẳng thể nắm bắt được, vì tánh chẳng có, huống là có cái danh khả đắc, bất khả đắc của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Các danh này đã chẳng có, thì tại sao có thể nói là chính cái danh khả đắc, hoặc bất khả đắc của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là Đại Bồ Tát? Bạch Thế Tôn Sắc, các pháp và danh, các pháp thường, vô thường, của sắc và danh đã chẳng thể nắm bắt được, mà nói là cái danh của sắc, các pháp và cái danh các pháp thường, vô thường, của sắc là Đại Bồ Tát, là điều không có. Phật bảo, thiện hiện Hay thay Hay thay Đúng vậy! Đúng vậy! Như người đã nói. Thiện hiện Vì sắc, các pháp và các pháp thường, vô thường, của sắc chẳng thể nắm bắt được, nên cái danh của sắc, các pháp và cái danh của các pháp thường, vô thường, của sắc, cũng chẳng thể nắm bắt được, vì pháp và danh chẳng thể nắm bắt được, nên Đại Bồ Tát cũng chẳng thể nắm bắt được, vì Đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được, nên việc thực hành bác nhạ Ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiện hiện Các Đại Bồ Tát, khi tu hành bác nhạ Ba-la-mật-đa, nên học như vậy. Lại nữa, thiện hiện Trước đây, người đã nói là con chẳng thấy có pháp có thể gọi là Đại Bồ Tát. Đúng vậy! Đúng vậy! Như người đã nói. Thiện hiện Các pháp chẳng thấy các pháp, các pháp chẳng thấy pháp giới, pháp giới chẳng thấy các pháp, pháp giới chẳng thấy pháp giới. Thiện hiện Pháp giới chẳng thấy pháp giới, pháp giới chẳng thấy pháp giới, pháp giới chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức giới, thọ, tưởng, hành, thức giới chẳng thấy pháp giới. Thiện hiện Pháp giới chẳng thấy nhạn sư giới, nhạn sư giới chẳng thấy pháp giới, pháp giới chẳng thấy nhị, tỉ, thiệt, thân, y sư giới, nhị, tỉ, thiệt, thân, y sư giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy sắc sư giới, sắc sư giới chẳng thấy pháp giới, pháp giới chẳng thấy thanh, hương, vị, súc, pháp sư giới, thanh, hương, vị, súc, pháp sư giới chẳng thấy pháp giới. Thiện hiện Pháp giới chẳng thấy nhạn giới, sắc giới, nhạn thức giới, nhạn giới, sắc giới, nhạn thức giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy nhị giới, thanh giới, nhị thức giới, nhị giới, thanh giới, nhị thức giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy tỉ giới, hương giới, tỉ thức giới, tỉ giới, hương giới, tỉ thức giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới, thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy thân giới, xúc giới, thân thức giới, thân giới, xúc giới, thân thức giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy ý giới, pháp giới, ý thức giới, ý giới, pháp giới, ý thức giới chẳng thấy pháp giới. Thiện hiện Pháp giới chẳng thấy đị giới, đị giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới, thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thấy pháp giới. Thiện hiện Pháp giới chẳng thấy thanh đế khổ giới, thanh đế khổ giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy thanh đế tập, diệt, đạo giới, thanh đế tập, diệt, đạo giới chẳng thấy pháp giới. Thiện hiện Pháp giới chẳng thấy vô minh giới, vô minh giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não giới, hành, cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não giới chẳng thấy pháp giới. Thiện hiện Pháp giới chẳng thấy dục giới, dục giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy sắc, vô sắc giới, sắc, vô sắc giới chẳng thấy pháp giới. Thiện hiện Hữu vi giới chẳng thấy vô vi giới, vô vi giới chẳng thấy hữu vi giới. Vì sao vậy? Thiện hiện Vì chẳng lìa hữu vi mà thiết lập vô vi, chẳng lìa vô vi mà thiết lập hữu vi. Thiện hiện Như vậy, khi Đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, đối với tất cả pháp đều không có cái thấy. Khi đối với tất cả các pháp không có cái thấy, thì tâm chẳng kinh hoàng, chẳng hải hùng, chẳng sợ sệt. Đối với tất cả pháp, tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng lo âu, hối hận. Chẳng thấy hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hội, người do người sanh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, tự thò quả báo, khiến người thò quả báo, cái biết, cái thấy. Chẳng thấy thanh văn, chẳng thấy pháp thanh văn, chẳng thấy độc giác, chẳng thấy pháp độc giác, chẳng thấy Bồ Tát, chẳng thấy pháp Bồ Tát, chẳng thấy Phật, chẳng thấy pháp Phật, chẳng thấy quả vị giác ngộ. Cao Tột Chẳng thấy hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hội, người do người sanh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, tự thò quả báo, khiến người thò quả báo, cái biết, cái thấy. Chẳng thấy thanh văn, chẳng thấy pháp thanh văn, chẳng thấy độc giác, chẳng thấy pháp độc giác, chẳng thấy Bồ Tát, chẳng thấy pháp Bồ Tát, chẳng thấy Phật, chẳng thấy pháp Phật, chẳng thấy quả vị giác ngộ. Cao Tột Thiện Hiện Như vậy, Đại Bồ Tát ấy đối với tất cả pháp đều không có cái thấy, khi đối với tất cả pháp không có cái thấy, thì tâm chẳng kinh hoàng, chẳng hải hùng, chẳng sợ sệt, đối với tất cả pháp, tâm chẳng chiền đắm, cũng chẳng lo âu, hối hận. Cụ Thọ Thiện Hiện Bạch Phật, Bạch Thế Tôn Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ Tát ấy đối với tất cả pháp, tâm chẳng chiền đắm, cũng chẳng lo âu, hối hận. Phật Dạy Thiện Hiện Đại Bồ Tát ấy đối với tất cả tâm, tâm sở, pháp chẳng đắt, chẳng thấy. Do nhân duyên này nên Đại Bồ Tát ấy đối với tất cả pháp, tâm chẳng chiền đắm, cũng chẳng lo âu, hối hận. Cụ Thọ Thiện Hiện lại Bạch Phật, Bạch Thế Tôn Vì sao Đại Bồ Tát ấy đối với tất cả pháp, tâm chẳng kinh hoàng, hải hùng, sợ sệt. Phật Dạy Thiện Hiện Đại Bồ Tát ấy đối với tất cả ý giới, ý thức giới chẳng đắt, chẳng thấy. Vì vậy, Đại Bồ Tát đối với tất cả pháp, tâm chẳng kinh hoàng, chẳng hải hùng, chẳng sợ sệt. Thiện Hiện Các Đại Bồ Tát đối với tất cả pháp đều không có cái được, nên hành Bát Nhã Ba La Mật Đa. Thiện Hiện Các Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa đối với tất cả sứ, chẳng đắt Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng đắt cái danh Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng đắt Bồ Tát, chẳng đắt cái danh Bồ Tát, chẳng đắt tâm Bồ Tát. Thiện Hiện Nên Dạy Bảo trao truyền như vậy cho các Đại Bồ Tát, khiến họ tu hành rốt tráo Bát Nhã Ba La Mật Đa. Tám Phẩm Khuyên Học Lúc bấy giờ, Cụ Thọ Thiện Hiện Bạch Phật, Bạch Thế Tôn Đại Bồ Tát muốn hoàn thành bố thí Ba La Mật Đa, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn hoàn thành tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, Bát Nhã Ba La Mật Đa, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn biết khắp sắc, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn biết khắp thọ, tưởng, hành, thức, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn biết khắp nhãn xứ, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn biết khắp nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn biết trỏ sắc xứ, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn biết trỏ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn biết trỏ nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn biết trỏ nhị giới, thanh giới, nhị thức giới và nhị xúc cùng các thọ do nhị xúc làm duyên sanh ra, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn biết trỏ tỉ giới, hương giới, tỉ thức giới và tỉ xúc cùng các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn biết trỏ thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn biết trỏ thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn biết trỏ ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn biết trỏ địa giới, nên học Bát Nhã Ba La Mật. Đại Bồ Tát muốn biết trỏ thủy, hỏa, phong, không, thức giới, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn biết trỏ thánh đế khổ, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn biết trỏ thánh đế tập, diệt, đạo, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn biết trỏ vô minh, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn biết trỏ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, tư, não, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn đoạn trừ vĩnh viễn tham, sân, si, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn đoạn trừ vĩnh viễn thân kiến, giới cấm thủ, nhi, dục, tham, sân nhuế, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn đoạn trừ vĩnh viễn tham sắc, tham vô sắc, vô minh, mạng, trạo cử, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn đoạn trừ vĩnh viễn tất cả triền kiết, tùy miên, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn đoạn trừ vĩnh viễn tứ thực, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn đoạn trừ vĩnh viễn bốn dòng thác phiền não, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn đoạn trừ vĩnh viễn bốn sự ràng buộc thân, bốn điên đảo, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn đoạn trừ vĩnh viễn ba lậu, ba bất thiện căng, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn xa lia mười nghiệp đạo bất thiện, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn tu hành mười nghiệp đạo thiện, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn tu bốn tình lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn tu bốn niệm trụ, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn chứng gắt mười lực của Phật, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn chứng gắt bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại phả, mười tám Pháp Phật bất trọng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn chứng gắt sáu phép thần thông tự tại, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn chứng gắt bốn tình lự, bốn định vô sắc, định diệt tầng, siêu việt thứ lớp, thuận nghịch tự tại, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn đối với tất cả các pháp môn Đà La Ni, pháp môn thiền định đều được tự tại, nên học Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Bồ Tát muốn chứng đắt đầy đủ định giác chi, định sư tử du hí, định sư tử phấn tấn, định sư tử tần thân, định sư tử khiếm khư, định kiện hành, định bảo ấn, định diệu nguyệt, định nguyệt tràng tướng, định nhất thiết pháp ấn, định quán định ấn, định pháp giới quyết định, định quyết định tràng tướng, định kim cương dù, định nhập nhất thiết pháp ấn, định an trụ định vương, định vương ấn, định tinh tấn lực, định đảng dũng, định nhập nhất thiết ngôn từ quyết định, định nhập nhất thiết danh t quyết định, định quán phương, định đà la nì ấn, định vô vong thất, định chiêu pháp đẳng thú hại ấn, định biến phú hư không, định tam luận thanh tịnh, định thú hướng bất thối chuyển thần thông, định khí trung dũng xuất, định tối thắng tràng tướng, định thiêu chiêu phiền não, định hàn phục bốn ma, định đại ký tuệ cự, định xuất sanh thập lực. Đại Bồ Tát muốn chứng đắt vô lượng trăm ngàn pháp môn thiền định như vậy, nên học bát nhã Balamudda. Đại Bồ Tát muốn đáp ứng đầy đủ tâm nguyện của tất cả hữu tình, nên học bát nhã Balamudda. Đại Bồ Tát muốn hoàn thành thiện căng thù thắng như vậy, do thiện căng này, vĩnh viễn chẳng đọa vào đường ác, chẳng sanh vào nhà bần tiện, chẳng rơi vào bậc thanh văn và độc giác, ở bậc cao nhất của Bồ Tát, vĩnh viễn chẳng thối đọa, nên học bát nhã Balamudda. Lúc ấy, xá lợi tử hỏi thiền hiện, thế nào gọi là Bồ Tát đỉnh đọa? Thiền hiện đáp, nếu các Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo mà hành sáu phép Balamud, không có phương tiện thiện xảo mà trụ ba pháp môn giải thoát, thì rơi vào bậc thanh văn hoặc độc giác, chẳng nhập chánh tánh, ly sanh của Bồ Tát. Như vậy, gọi là Bồ Tát đỉnh đọa. Chính sự đỉnh đọa này cũng gọi là sanh. Khi ấy xá lợi tử liền hỏi tiếp, vì duyên gì Bồ Tát đỉnh đọa gọi là sanh? Thiền hiện đáp, sanh có nghĩa là pháp ái. Nếu các Bồ Tát thuận theo đường pháp ái thì gọi là sanh. Xá lợi tử hỏi, vì sao gọi là Bồ Tát thuận theo đường pháp ái? Thiền hiện đáp, nếu Đại Bồ Tát, khi tu hành bác nhã Balamudda, đối với sách an trú không mà khởi tưởng đắm trước, đối với thọ, tưởng, hành, thức an trú không mà khởi tưởng đắm trước, đối với sách an trú vô tướng, mà khởi tưởng đắm trước, đối với thọ, tưởng, hành, thức an trú vô tướng, mà khởi tưởng đắm trước, đối với sách an trú vô nguyện mà khởi tưởng đắm trước, đối với thọ, tưởng, hành, thức an trú vô nguyện, mà khởi tưởng đắm trước, đối với sách an trú vô thường, mà khởi tưởng đắm trước, đối với thọ, tưởng, hành, thức an trú vô thường mà khởi tưởng đắm trước, đối với sách an trú khổ, mà khởi tưởng đắm trước, đối với thọ, tưởng, hành, thức an trú khổ, mà khởi tưởng đắm trước, đối với sách an trú vô ngã, mà khởi tưởng đắm trước, đối với thọ, tưởng, hành, thức an trú vô ngã, mà khởi tưởng đắm trước, đối với sách an trú bất tỉnh, mà khởi tưởng đắm trước, đối với thọ, tưởng, hành, thức an trú bất tỉnh, mà khởi tưởng đắm trước, đối với sách an trú bất tỉnh, mà khởi tưởng đắm trước, đối với thọ, tưởng, hành, thức an trú bất tỉnh, mà khởi tưởng đắm trước, đối với sách an trú viễn ly, mà khởi tưởng đắm trước, đối với thọ, tưởng, hành, thức an trú viễn ly, mà khởi tưởng đắm trước, thì đó là Bồ Tát thuận theo đường Pháp ấy. Lại nữa, xá lợi tử. Nếu Đại Bồ Tát khởi lên ý nghĩ, đây là sách nên đoạn, đây là thọ, tưởng, hành, thức nên đoạn. Do đó cho nên phải đoạn sách, do đó cho nên phải đoạn thọ, tưởng, hành, thức. Đây là khổ nên biết rõ, do đó cho nên phải biết rõ khổ. Đây là tập nên đoạn vĩnh viễn, do đó cho nên phải đoạn trừ vĩnh viễn tập. Đây là việc nên tác chứng, do đó cho nên phải tác chứng việc. Đây là đạo nên tu tập, do đó cho nên phải tu tập đạo. Đây là tập nhiễm, đây là thanh tịnh, đây nên gần gũi, đây chẳng nên gần gũi, đây nên làm, đây chẳng nên làm, đây là đạo, đây chẳng phải là đạo, đây nên học, đây chẳng nên học, đây là bố thí Ba-la-mật-đa, đây chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa, đây là tịnh giới Ba-la-mật-đa, đây chẳng phải là tịnh giới Ba-la-mật-đa, đây là an nhẫn Ba-la-mật-đa, đây chẳng phải là an nhẫn Ba-la-mật-đa, đây là tinh tấn Ba-la-mật-đa, đây chẳng phải là tịnh lự Ba-la-mật-đa, đây là bát nhã Ba-la-mật-đa, đây chẳng phải là bát nhã Ba-la-mật-đa, đây là phương tiện thiện xảo, đây chẳng phải là phương tiện thiện xảo, đây là Bồ-Tát sanh, đây là Bồ-Tát ly sanh. Xá lợi tử Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa, an trụ các Pháp như vậy mà sanh tưởng đắm, thì đó là Bồ-Tát thuận theo đường Pháp ái. Pháp ái như vậy gọi là sanh, như ăn đêm thường sanh bệnh hoạn. Khi ấy, xá lợi tử hỏi thiện hiện, Đại Bồ-Tát nhập tránh tánh ly sanh như thế nào? Thiện hiện đáp Nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa, chẳng thấy cái phong nội, chẳng đợi cái phong nội mà quán cái phong ngoại, chẳng thấy cái phong ngoại, chẳng đợi cái phong ngoại mà quán cái phong nội, chẳng đợi cái phong ngoại mà quán cái phong nội, chẳng thấy cái phong nội ngoại, chẳng đợi cái phong nội ngoại mà quán cái phong ngoại, chẳng đợi cái phong nội ngoại mà quán cái phong không, chẳng thấy cái phong không, chẳng đợi cái phong không mà quán cái phong nội ngoại, chẳng đợi cái phong không mà quán cái phong lớn, chẳng thấy cái phong lớn, chẳng đợi cái phong lớn mà quán cái phong không, chẳng đợi cái phong lớn mà quán cái phong thắng nhĩa, chẳng thấy cái phong thắng nhĩa, chẳng đợi cái phong thắng nhĩa mà quán cái phong lớn, chẳng đợi cái phong thắng nhĩa mà quán cái phong hữu vi, chẳng thấy cái phong hữu vi, chẳng đợi cái phong hữu vi mà quán cái phong thắng nhĩa, chẳng đợi cái phong hữu vi mà quán cái phong vô vi, chẳng thấy cái phong vô vi, chẳng đợi cái phong vô vi mà quán cái phong hữu vi, chẳng đợi cái phong vô vi mà quán cái phong rốt ráo, chẳng thấy cái phong rốt ráo, chẳng đợi cái phong rốt ráo mà quán cái phong vô vi, chẳng đợi cái phong rốt ráo mà quán cái phong không biên giới, chẳng thấy cái phong không biên giới, chẳng đợi cái phong không biên giới mà quán cái phong rốt ráo, chẳng đợi cái phong không biên giới mà quán cái phong tảng mạng, chẳng thấy cái phong tảng mạng, chẳng đợi cái phong tảng mạng mà quán cái phong không biên giới, chẳng đợi cái phong tảng mạng mà quán cái phong không đổi xác, chẳng thấy cái phong không đổi xác, chẳng đợi cái phong không đổi xác mà quán cái phong tảng mạng, chẳng đợi cái phong không đổi xác mà quán cái phong bản tính, chẳng thấy cái phong bản tính, chẳng đợi cái phong bản tính mà quán cái phong không đổi xác, chẳng đợi cái phong bản tính mà quán cái phong tự tướng, chẳng thấy cái phong tự tướng, chẳng đợi cái phong tự tướng mà quán cái phong bản tính chẳng đợi cái phong tự tướng mà quán cái phong cộng tướng, chẳng thấy cái phong cộng tướng, chẳng đợi cái phong cộng tướng mà quán cái phong tự tướng, chẳng đợi cái phong cộng tướng mà quán cái phong tất cả pháp, chẳng thấy cái phong tất cả pháp, chẳng đợi cái phong tất cả pháp mà quán cái phong cộng tướng, chẳng đợi cái phong tất cả pháp mà quán cái phong chẳng thể nắm bắt được, chẳng thấy cái phong chẳng thể nắm bắt được, chẳng đợi cái phong chẳng thể nắm bắt được mà quán cái phong tất chẳng đợi cái phong không tánh, chẳng thấy cái phong không tánh, chẳng đợi cái phong không tánh mà quán cái phong chẳng thể nắm bắt được, chẳng đợi cái phong không tánh mà quán cái phong tự tánh, chẳng thấy cái phong tự tánh, chẳng đợi cái phong tự tánh mà quán cái phong không tánh, chẳng đợi cái phong tự tánh mà quán cái phong không tánh tự tánh, chẳng thấy cái phong không tánh tự tánh, chẳng đợi cái phong không tánh tự tánh mà quán cái phong tự tánh Xá lợi tử Đại Bồ-Tát, khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa, nếu quán như vậy thì gọi là Bồ-Tát nhập chánh tánh ly xanh. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát, khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa, nên học như thế này, sát nên viết, chẳng nên đắm, thọ, tưởng, hành, thức nên viết, chẳng nên đắm. Cái danh của sát nên viết, chẳng nên đắm, cái danh thọ, tưởng, hành, thức nên viết, chẳng nên đắm. Nhãn xứ nên viết, chẳng nên đắm, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ nên viết, chẳng nên đắm. Cái danh nhãn xứ nên viết, chẳng nên đắm, cái danh nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ nên viết, chẳng nên đắm. Sát xứ nên viết, chẳng nên đắm, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ nên viết, chẳng nên đắm. Nhãn giới, sát giới, nhãn thức giới nên viết, chẳng nên đắm, cái danh nhãn giới, sát giới, nhãn thức giới nên viết, chẳng nên đắm. Nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới nên viết, chẳng nên đắm, cái danh nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới nên viết, chẳng nên đắm. Tỉ giới, hương giới, tỉ thức giới nên viết, chẳng nên đắm, cái danh tỉ giới, hương giới, tỉ thức giới nên viết, chẳng nên đắm. Thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới nên viết, chẳng nên đắm, cái danh thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới nên viết, chẳng nên đắm. Thân giới, xúc giới, thân thức giới nên viết, chẳng nên đắm, cái danh thân giới, xúc giới, thân thức giới nên viết, chẳng nên đắm. Ý giới, pháp giới, ý thức giới nên viết, chẳng nên đắm, cái danh ý giới, pháp giới, ý thức giới nên viết, chẳng nên đắm. Đị giới nên viết, chẳng nên đắm, thủy, hỏa, phong, không, thức giới nên viết, chẳng nên đắm. Cái danh đị giới nên viết, chẳng nên đắm, cái danh thủy, hỏa, phong, không, thức giới nên viết, chẳng nên đắm. Thánh đế khổ nên viết, chẳng nên đắm, thánh đế tập, việt, đạo nên viết, chẳng nên đắm. Cái danh thánh đế khổ nên viết, chẳng nên đắm, cái danh thánh đế tập, việt, đạo nên viết, chẳng nên đắm. Vô minh nên viết, chẳng nên đắm, hành, thức, danh sách, lục sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não nên viết, chẳng nên đắm. Cái danh vô minh nên viết, chẳng nên đắm, cái danh hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não nên viết, chẳng nên đắm. Bốn tịnh lựa nên viết, chẳng nên đắm, bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên viết, chẳng nên đắm. Năm loại mắt nên viết, chẳng nên đắm, sáu phép thần thông nên viết, chẳng nên đắm. Vỗ thí Balamudda nên viết, chẳng nên đắm, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã Balamudda nên viết, chẳng nên đắm. Bốn niệm trụ nên viết, chẳng nên đắm, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo nên viết, chẳng nên đắm. Cái danh bốn niệm trụ nên viết, chẳng nên đắm, cái danh bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo nên viết, chẳng nên đắm. Mười lực của Phật nên viết, chẳng nên đắm, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu viết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng nên viết, chẳng nên đắm. Cái danh mười lực của Phật nên viết, chẳng nên đắm, cái danh bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng nên viết, chẳng nên đắm. Lại nữa, xá lợi tử. Các đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa nên học như thế này, tâm bồ đề nên viết, chẳng nên đắm, cái danh tâm bồ đề nên viết, chẳng nên đắm. Tâm vô thường nên viết, chẳng nên đắm, cái danh tâm vô thường nên viết, chẳng nên đắm. Tâm rộng lớn nên viết, chẳng nên đắm, cái danh tâm rộng lớn nên viết, chẳng nên đắm. Vì sao vậy? Vì tâm ấy chẳng phải là thường tâm, vì bản tánh thanh tình. Khi ấy, xá lợi tử hỏi thiện hiện, vì sao tâm ấy bản tánh thanh tình? Thiện hiện đắt, tâm ấy, bản tánh chẳng tương ưng với tham, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng tương ưng với sân, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng tương ưng với si, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng tương ưng với các triền kiết, tùy miên, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng tương ưng với các kiến, thú, lậu, bộc lưu, ách thủ, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng tương ưng các tâm thanh văn, độc giác, chẳng phải chẳng tương ưng. Xá lợi tử Tâm ấy, bản tánh thanh tình như vậy? Xá lợi tử hỏi, tâm ấy, bản tánh là tâm hay chẳng phải tâm? Thiện hiện đắt, trong tính chẳng phải tâm có cái tánh vô tánh có thể nắm bắt được chăng? Xá lợi tử đắt, không Thiện hiện Thiện hiện nói, trong tính chẳng phải tâm có cái tánh không tánh đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có thể nói là tâm ấy, bản tánh là tâm hay chẳng phải tâm? Xá lợi tử hỏi, những gì gọi là tánh của tâm chẳng phải tâm? Thiện hiện đắt, đối với tất cả các pháp không đổi khác, không phân biệt, gọi đó là cái tánh của tâm chẳng phải tâm. Xá lợi tử hỏi, nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, sắc cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Thiện hiện đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, họ, tưởng, hành, thức cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, nhãn xứ cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, sắc xứ cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, thành, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, nhĩ giới, thành giới, nhĩ thức giới cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, nhĩ giới, thành giới, nhĩ thức giới cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, thịt giới, vị giới, thịt thức giới cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, thịt giới, vị giới, thịt thức giới cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, thần giới, xúc giới, thần thức giới cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, ý giới, pháp giới, ý thức giới cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, địa giới cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, thánh đế khổ cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, thánh đế tập, diệt, đạo cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, vô minh cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, hành, thức, danh sách, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, bốn tịnh lự cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, năm loại mắt cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, sáu phép thần thông cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, bố thí ba la mật đa cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã ba la mật đa cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, bốn niệm trụ cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, mười lực của Phật cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Đắt, đúng vậy Nhiều tầm không đổi khác, không phân biệt, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng cho đến quả vị giác ngộ cao tột cũng không đổi khác, không phân biệt sao? Đắt, đúng vậy Khi ấy, xá lợi tử khen thiện hiện, hay thay? Hay thay Thật đúng như đã nói, Ngài là chân Phật tử, từ tâm Phật sanh, từ miệng Phật sanh, từ pháp Phật sanh, từ pháp hóa sanh, nhận phần Pháp Phật, chẳng nhận phần của cải Ở trong các Pháp, thân tử tác chứng, do tuệ nhãn hiện thấy, nên mới có thể nói lên như vậy Thế tôn khen Ngài, ở trong chúng thanh văn, là người đệ nhất an trú trong định vô chánh Như lời Phật dạy, thật đúng, không sai Thiện hiện Đại Bồ Tát, đối với bác nhã Ba-la-mật-đa, nên học như vậy Nếu Đại Bồ Tát, đối với bác nhã Ba-la-mật-đa thường học như vậy, thì nên biết đã an trú bật bất thối chuyển, chẳng rời bác nhã Ba-la-mật-đa Thiện hiện Người muốn học bật thanh văn, đối với bác nhã Ba-la-mật-đa nên siêng năng lắng nghe, tu tập, đọc tụng, thọ trì, như lý tư duy, khiến được trốt tráo Người muốn học bật độc giác, đối với bác nhã Ba-la-mật-đa, nên siêng năng lắng nghe, tu tập, đọc tụng, thọ trì, như lý tư duy, khiến được trốt tráo Người muốn học bật Bồ Tát, đối với bác nhã Ba-la-mật-đa, nên siêng năng lắng nghe, tu tập, đọc tụng, thọ trì, như lý tư duy, khiến được trốt tráo Người muốn học bật như lai, đối với bác nhã Ba-la-mật-đa, nên siêng năng lắng nghe, tu tập, đọc tụng, thọ trì, như lý tư duy, khiến được trốt tráo Vì sao vậy? Vì trong bác nhã Ba-la-mật-đa như vậy, đã trọng nói, khai thị Pháp của Ba Thừa Nếu Đại Bồ Tát học bác nhã Ba-la-mật-đa, tức là đã học khắp cả Ba Thừa, và đối với Pháp của Ba Thừa đều được thấu suốt 9. Phẩm Vô Trụ 01 Lúc bấy giờ, cụ Thọ thiện hiện Bạch Phật, Bạch Thế Tôn Đối với Đại Bồ Tát và đối với bác nhã Ba-la-mật-đa, con đều chẳng đắc, chẳng thấy, thì tại sao khiến con dùng Pháp tương ưng bác nhã Ba-la-mật-đa dạy bảo trao truyền cho các Đại Bồ Tát? Bạch Thế Tôn Đối với các Pháp, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, nếu đem Pháp ấy dạy bảo, trao truyền cho các Đại Bồ Tát, thì có thể có sự hối tiếc Bạch Thế Tôn Đối với các Pháp, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là Đại Bồ Tát, đây là bác nhã Ba-la-mật-đa? Bạch Thế Tôn Cái danh Đại Bồ Tát ấy và cái danh bác nhã Ba-la-mật-đa ấy đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ Vì sao vậy? Vì cái nhĩa hai danh ấy đã không có sở hữu, nên hai danh ấy đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ Bạch Thế Tôn Đối với sắt, thọ, tưởng, hành, thức, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là sắt, cho đến đây là thức? Bạch Thế Tôn Cái danh của sắt ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ Vì sao vậy? Vì cái nhĩa của cái danh của sắt V, V, đã không có sở hữu, nên cái danh của sắt V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ Bạch Thế Tôn Đối với nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là nhãn sứ, cho đến đây là ý sứ? Bạch Thế Tôn Cái danh của nhãn sứ ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ Vì sao thế? Vì cái nhĩa của cái danh nhãn sứ V, V, đã không có sở hữu, nên cái danh của nhãn sứ V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ Bạch Thế Tôn Đối với sắt, thanh, hương, vị, súc, pháp sứ, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là sắt sứ, cho đến đây là pháp sứ? Bạch Thế Tôn Cái danh của sắt sứ ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ Vì sao thế? Vì cái nhĩa của cái danh sắt sứ V, V, đã không có sở hữu, nên cái danh sắt sứ V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ Bạch Thế Tôn Đối với nhãn giới, sắt giới, nhãn thức giới và nhãn xuất, cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên xanh ra, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là nhãn giới, cho đến đây là các thọ do nhãn xuất làm duyên xanh ra? Bạch Thế Tôn Cái danh nhãn giới ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ Vì sao thế? Vì cái nghĩa của danh nhãn giới V, V, đã không có sở hữu, nên cái danh nhãn giới V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ Bạch Thế Tôn Đối với nhãn giới, sắt giới, nhãn thức giới và nhãn xuất, cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên xanh ra, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là nhãn giới, cho đến đây là các thọ do nhãn xuất làm duyên xanh ra? Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Đối với tỉ giới, hương giới, tỉ thức giới và tỉ xuất cùng các thọ do tỉ xuất làm duyên xanh ra, còn chẳng đắt, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là tỉ giới, cho đến đây là các thọ do tỉ xuất làm duyên xanh ra? Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Thế Bạch Thế Tôn Đối với Thánh Đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo, Con Chẳng Đắc, Chẳng Thấy, hoặc Tập Hợp, hoặc Phân Tán, thì tại sao có thể nói đây là Thánh Đế Khổ, cho đến đây là Thánh Đế Đạo? Bạch Thế Tôn Cái danh Thánh Đế Khổ ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao thế? Vì cái nghĩa của Danh Thánh Đế Khổ V, V, đã không có sở hữu, nên cái Danh Thánh Đế Khổ V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Bạch Thế Tôn Đối với Vô Minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Luật Sứ, Xuất, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Xanh, Lão Tử, Sầu, Thang, Khổ, Ưu, Não, Con Chẳng Đắc, Chẳng Thấy, hoặc Tập Hợp, hoặc Phân Tán, thì tại sao có thể nói đây là Vô Minh, cho đến đây là Lão Tử, Sầu, Thang, Khổ, Ưu, Não? Bạch Thế Tôn Cái danh Vô Minh ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao thế? Vì cái nghĩa của danh Vô Minh V, V, đã không có sở hữu, nên cái danh Vô Minh V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Bạch Thế Tôn Đối với sự tận diệt của Vô Minh, cho đến sự tận diệt của Lão Tử, Sầu, Thang, Khổ, Ưu, Não, Con Chẳng Đắc, Chẳng Thấy, hoặc Tập Hợp, hoặc Phân Tán, thì tại sao có thể nói đây là sự tận diệt của Vô Minh, cho đến đây là sự tận diệt của Lão Tử, Sầu, Thang, Khổ, Ưu, Não? Bạch Thế Tôn Cái danh tận diệt Vô Minh ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao thế? Vì cái nghĩa của danh tận diệt Vô Minh V, V, đã không có sở hữu, nên cái danh tận diệt của Vô Minh V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Bạch Thế Tôn Đối với Tham, Sơn, Si, tất cả triển kiết, tùy nhiên, kiến thủ, bất thiện căng V, V, Con Chẳng Đắc, Chẳng Thấy, hoặc Tập Hợp, hoặc Phân Tán, thì tại sao có thể nói đây là Tham, cho đến đây là bất thiện căng V, V? Bạch Thế Tôn Cái danh Tham ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao thế? Vì cái nhịa của danh Tham V, V, đã không có sở hữu, nên cái danh Tham V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Bạch Thế Tôn Đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, Con Chẳng Đắc, Chẳng Thấy, hoặc Tập Hợp, hoặc Phân Tán, thì tại sao có thể nói đây là bốn tịnh lự, cho đến đây là bốn định vô sắc? Bạch Thế Tôn Cái danh bốn định vô sắc ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao thế? Vì cái nhịa của danh bốn tịnh lự V, V, đã không có sở hữu, nên cái danh bốn tịnh lự V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.