Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 7, Quyển 162, xxx Phẩm so sánh công đức 60. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bồ đề, tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử, người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa chẳng nên quán tất cả hành đại Bồ Tát hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tất cả hành đại Bồ Tát và tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát là không. Tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, tất cả hành đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả hành đại Bồ Tát có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử, người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa chẳng nên quán tất cả hành đại Bồ Tát hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tất cả hành đại Bồ Tát và tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát là không. Tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, tất cả hành đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả hành đại Bồ Tát có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử, người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa chẳng nên quán tất cả hành đại Bồ Tát hoặc lạc, hoặc vô lạc. Vì sao? Vì tất cả hành đại Bồ Tát và tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát là không. Tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, tất cả hành đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được thì cái lạc, vô lạc kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả hành đại Bồ Tát có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và vô lạc kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, Thiện Nam Tử! Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tất cả hành đại Bồ Tát hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tất cả hành đại Bồ Tát và tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát là không. Tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, tất cả hành đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả hành đại Bồ Tát có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. vì người phát tâm vô thường Bồ Đệ tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa thì nói thế này, Thiện Nam Tử! Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật là không? Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử! Ngươi nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật là không? Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật chẳng thể nắm bắt được thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử! Ngươi nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật hoặc lạc, hoặc vô lạc. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật là không. Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật chẳng thể nắm bắt được thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử! Ngươi nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật là không. Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Đại Kiều Thi Ca Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Khi ấy, Trời đế thích lại Bạch Phật, Bạch Thế Tôn. Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. nói bố thí Ba La Mật Đa vô sở đắc như thế nào mà gọi là nói bố thí Ba La Mật Đa một cách chân chánh? Phật dạy, này Kiều Thi Ca. Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. vì người phát tâm vô thường bồ đệ tuyên thuyết bố thí Ba La Mật Đa thì nói thế này, Thiện Nam Tử. Người nên tu bố thí Ba La Mật Đa chẳng nên quán sắt hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì sắt và tự tánh của sắt là không, thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sắt ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, sắt chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có sắt V.V. có thể nắm bắt được, húng là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu bố thí như thế là tu bố thí Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu bố thí Ba La Mật Đa, chẳng nên quán sắt hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì sắt và tự tánh của sắt là không, thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sắt ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, sắt chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có sắt V, V có thể nắm bắt được, húng là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tù bố thí như thế là tù bố thí Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tù bố thí Ba La Mật Đa, chẳng nên quán sắt hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì sắt và tự tánh của sắt là không, thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sắt ấy chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, sắt chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có sắt v, v, có thể nắm bắt được, húng là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tù bố thí như thế là tù bố thí Ba La Mật Đa. Người nên tù bố thí Ba La Mật Đa chẳng nên quán sắt hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh. Vì sao? Vì sắt và tự tánh của sắt là không, thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sắt ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, sắt chẳng thể nắm bắt được, thì cái tỉnh, bất tỉnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái tỉnh, bất tỉnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có sắt V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái tỉnh và bất tỉnh kia. Nếu người có khả năng tu bố thí như thế là tu bố thí Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết bố thí Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết bố thí Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu bố thí Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhãn sứ hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì nhãn sứ và tự tánh của nhãn sứ là không, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ và tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ là không. Tự tánh của nhãn sứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, nhãn sứ chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn sứ V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tù bố thí như thế là tù bố thí Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tù bố thí Ba La Mật Đa chẳng nên quán nhãn sứ hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì nhãn sứ và tự tánh của nhãn sứ là không, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ và tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ là không. Tự tánh của nhãn sứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, nhãn sứ chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn sứ V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tù bố thí như thế là tù bố thí Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tù bố thí Ba La Mật Đa chẳng nên quán nhãn sứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì nhãn sứ và tự tánh của nhãn sứ là không, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ và tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ là không. Tự tánh của nhãn sứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, nhãn sứ chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn sứ v, v, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu bố thí như thế là tu bố thí Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu bố thí Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhãn sứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì nhãn sứ và tự tánh của nhãn sứ là không, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ và tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ là không. Tự tánh của nhãn sứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, nhãn sứ chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn sứ V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tù bố thí như thế là tù bố thí Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết bố thí Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết bố thí Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tù bố thí Ba La Mật Đa, chẳng nên quán sát sứ hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán thanh, hương, vị, súc, pháp sứ hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì sát sứ và tự tánh của sát sứ là không, thanh, hương, vị, súc, pháp sứ và tự tánh của thanh, hương, vị, súc, pháp sứ là không. Tự tánh của sát sứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thanh, hương, vị, súc, pháp sứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, sát sứ chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh, hương, vị, súc, pháp sứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có sát sứ V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu bố thí như thế là tu bố thí Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu bố thí Ba La Mật Đa, chẳng nên quán sát sứ hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán thanh, hương, vị, súc, pháp sứ hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì sát sứ và tử tánh của sát sứ là không, thanh, hương, vị, súc, pháp sứ và tử tánh của thanh, hương, vị, súc, pháp sứ là không. Tử tánh của sát sứ ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của thanh, hương, vị, súc, pháp sứ ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, sát sứ chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh, hương, vị, súc, pháp sứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có sát sứ V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu bố thí như thế là tu bố thí Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu bố thí Ba La Mật Đa chẳng nên quán sát sứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán thanh, hương, vị, súc, pháp sứ hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì sát sứ và tử tánh của sát sứ là không, thanh, hương, vị, súc, pháp sứ và tử tánh của thanh, hương, vị, súc, pháp sứ là không. Tử tánh của sát sứ ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của thanh, hương, vị, súc, pháp sứ ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, sát sứ chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh, hương, vị, súc, pháp sứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có sát sứ v, v, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tù bố thí như thế là tù bố thí Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện Nam tử. Ngươi nên tù bố thí Ba La Mật Đa, chẳng nên quán sát sứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán thanh, hương, vị, súc, pháp sứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì sát sứ và tự tánh của sát sứ là không, thanh, hương, vị, súc, pháp sứ và tự tánh của thanh, hương, vị, súc, pháp sứ là không. Tự tánh của sát sứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thanh, hương, vị, súc, pháp sứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, sát sứ chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh, hương, vị, súc, pháp sứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có sát sứ V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tù bố thí như thế là tù bố thí Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết bố thí Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết bố thí Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tù bố thí Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhãn giới hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán sát giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì nhãn giới và tự tánh của nhãn giới là không, sát giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra và tự tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, nhãn giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn giới v.v. có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tù bố thí như thế là tù bố thí Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tù bố thí Ba La Mật Đa chẳng nên quán nhãn giới hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán sát giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì nhãn giới và tự tánh của nhãn giới là không, sát giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra và tự tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, nhãn giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn giới V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tù bố thí như thế là tù bố thí Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tù bố thí Ba La Mật Đa chẳng nên quán nhãn giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán sát giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì nhãn giới và tự tánh của nhãn giới là không, sát giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra và tự tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, nhãn giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn giới V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu bố thí như thế là tu bố thí Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu bố thí Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhãn giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán sát giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì nhãn giới và tự tánh của nhãn giới là không, sát giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra và tự tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, nhãn giới chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sát giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn giới V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tù bố thí như thế là tù bố thí Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V. V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết bố thí Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V. V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết bố thí Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tù bố thí Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhĩ giới hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì nhĩ giới và tự tánh của nhĩ giới là không, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của nhĩ giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, nhĩ giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhĩ giới V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tù bố thí như thế là tù bố thí Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, Thiện Nam Tử! Người nên tù bố thí Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhĩ giới hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì nhĩ giới và tự thanh của nhĩ giới là không, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra và tự thanh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không. Tự thanh của nhĩ giới ấy tức chẳng phải là tự thanh, tự thanh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự thanh. Nếu chẳng phải là tự thanh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, nhĩ giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhĩ giới V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tù bố thí như thế là tù bố thí Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, Thiện Nam Tử. Người nên tù bố thí Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhĩ giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì nhĩ giới và tự thanh của nhĩ giới là không, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra và tự thanh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không. Tự thanh của nhĩ giới ấy tức chẳng phải là tự thanh, tự thanh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự thanh. Nếu chẳng phải là tự thanh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, nhĩ giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhĩ giới V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu bố thí như thế là tu bố thí Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu bố thí Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhĩ giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì nhĩ giới và tự tánh của nhĩ giới là không, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của nhĩ giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, nhĩ giới chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhĩ giới V. V, có thể nắm bắt được, húng là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tù bố thí như thế là tù bố thí Ba La Mật Đa. Này Triều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V. V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết bố thí Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Triều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V. V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết bố thí Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tù bố thí Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tỷ giới hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ súc cùng các thọ do tỷ súc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tỷ giới và tự tánh của tỷ giới là không, hương giới, tỷ thức giới và tỷ súc cùng các thọ do tỷ súc làm duyên sanh ra và tỷ tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ súc làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của tỷ giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ súc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, tỷ giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, hương giới cho đến các thọ do tỷ súc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tỷ giới về, về, có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu bố thí như thế là tu bố thí Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu bố thí Ba La Mật Đa chẳng nên quán tỷ giới hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ súc cùng các thọ do tỷ súc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tỷ giới và tự tánh của tỷ giới là không, hương giới, tỷ thức giới và tỷ súc cùng các thọ do tỷ súc làm duyên sanh ra và tự tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ súc làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của tỷ giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ súc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, tỷ giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, hương giới cho đến các thọ do tỷ súc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tỷ giới V. V có thể nắm bắt được, cũng là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tù bố thí như thế là tù bố thí Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tù bố thí Ba La Mật Đa chẳng nên quán tỷ giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ súc cùng các thọ do tỷ súc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tỷ giới và tự tánh của tỷ giới là không, hương giới, tỷ thức giới và tỷ súc cùng các thọ do tỷ súc làm duyên sanh ra và tự tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ súc làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của tỷ giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ súc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, tỷ giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, hương giới cho đến các thọ do tỷ súc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tỷ giới V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu bố thí như thế là tu bố thí Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu bố thí Ba La Mật Đa chẳng nên quán tỷ giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ súc cùng các thọ do tỷ súc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tỷ giới và tự tánh của tỷ giới là không, hương giới, tỷ thức giới và tỷ súc cùng các thọ do tỷ súc làm duyên sanh ra và tự tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ súc làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của tỷ giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ súc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, tỷ giới chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, hương giới cho đến các thọ do tỷ súc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tỷ giới V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tù bố thí như thế là tù bố thí Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V. V ấy nói những điều đó là tuyên thuyết bố thí Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V. V vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết bố thí Ba La Mật Đa thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu bố thí Ba La Mật Đa chẳng nên quán thiệt giới hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt súc cùng các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì thiệt giới và tự tánh của thiệt giới là không, vị giới, thiệt thức giới và thiệt súc cùng các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra và tự tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của thiệt giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, thiệt giới chẳng thể nắm bắt được thì trái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì trái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có thiệt giới V, V, có thể nắm bắt được, huống là có trái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tù bố thí như thế là tù bố thí Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tù bố thí Ba La Mật Đa chẳng nên quán thiệt giới hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt súc cùng các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì thiệt giới và tự tánh của thiệt giới là không, vị giới, thiệt thức giới và thiệt súc cùng các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra và tự tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của thiệt giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, thiệt giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có thiệt giới về. Về có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu bố thí như thế là tu bố thí Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu bố thí Ba La Mật Đa chẳng nên quán thiệt giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt súc cùng các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì thiệt giới và tự tánh của thiệt giới là không, vị giới, thiệt thức giới và thiệt súc cùng các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra và tự tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của thiệt giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, thiệt giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có thiệt giới V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tù bố thí như thế là tù bố thí Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tù bố thí Ba La Mật Đa, chẳng nên quán thiệt giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt súc cùng các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì thiệt giới và tự tánh của thiệt giới là không, vị giới, thiệt thức giới và thiệt súc cùng các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra và tự tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của thiệt giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là bố thí Ba La Mật Đa. Đối với bố thí Ba La Mật Đa này, thiệt giới chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có thiệt giới V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tù bố thí như thế là tù bố thí Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V ấy nói những điều đó là tuyên thuyết bố thí Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Các bạn hãy đăng kí cho kênh lalaschool Để không bỏ lỡ những video hấp dẫn