Home Page
cover of kinhdaibatnha (158)
kinhdaibatnha (158)

kinhdaibatnha (158)

00:00-39:38

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech
0
Plays
0
Downloads
0
Shares

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 7, Quyển 158, xxx Phẩm So Sánh Công Đức 56 Lại nữa, Kiều Thi Ca Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân về, về, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán năm loại mắt hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán sáu phép thần thông hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì năm loại mắt và tử tánh của năm loại mắt là không, sáu phép thần thông và tử tánh của sáu phép thần thông là không. Tử tánh của năm loại mắt ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của sáu phép thần thông ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có năm loại mắt v. V, có thể nắm bắt được, húng là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán năm loại mắt hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán sáu phép thần thông hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì năm loại mắt và tử tánh của năm loại mắt là không, sáu phép thần thông và tử tánh của sáu phép thần thông là không. Tử tánh của năm loại mắt ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của sáu phép thần thông ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có năm loại mắt V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán năm loại mắt hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán sáu phép thần thông hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì năm loại mắt và tử tánh của năm loại mắt là không, sáu phép thần thông và tử tánh của sáu phép thần thông là không. Tử tánh của năm loại mắt ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của sáu phép thần thông ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có năm loại mắt về, về, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán năm loại mắt hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán sáu phép thần thông hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì năm loại mắt và tử tánh của năm loại mắt là không, sáu phép thần thông và tử tánh của sáu phép thần thông là không. Tử tánh của năm loại mắt ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của sáu phép thần thông ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có năm loại mắt V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Ngươi nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán mười lực của Phật hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất động hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì mười lực của Phật và tử tánh của mười lực của Phật là không, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất động và tử tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất động là không. Tử tánh của mười lực của Phật ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất động ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, mười lực của Phật chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất động đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có mười lực của Phật V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán mười lực của Phật hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất động hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì mười lực của Phật và tử tánh của mười lực của Phật là không, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất động và tử tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất động là không. Tử tánh của mười lực của Phật ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất động ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, mười lực của Phật chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất động đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có mười lực của Phật V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán mười lực của Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất động hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì mười lực của Phật và tử tánh của mười lực của Phật là không, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất động và tử tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất động là không. Tử tánh của mười lực của Phật ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất động ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, mười lực của Phật chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất động đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có mười lực của Phật V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán mười lực của Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất động hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì mười lực của Phật và tử tánh của mười lực của Phật là không, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất động và tử tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất động là không. Tử tánh của mười lực của Phật ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất động ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, mười lực của Phật chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất động đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có mười lực của Phật V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V vì người pháp tâm vô thường bồ đệ tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa chẳng nên quán pháp không quên mất hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán tánh luôn luôn xả hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì pháp không quên mất và tự tánh của pháp không quên mất là không, tánh luôn luôn xả và tự tánh của tánh luôn luôn xả là không. Tự tánh của pháp không quên mất ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tánh luôn luôn xả ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tánh luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có pháp không quên mất V. V, có thể nắm bắt được, cũng là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán pháp không quên mất hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán tánh luôn luôn xả hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì pháp không quên mất và tự tánh của pháp không quên mất là không, tánh luôn luôn xả và tự tánh của tánh luôn luôn xả là không. Tự tánh của pháp không quên mất ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tánh luôn luôn xả ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tánh luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có pháp không quên mất về, về có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán pháp không quên mất hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán tánh luôn luôn xả hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì pháp không quên mất và tử tánh của pháp không quên mất là không, tánh luôn luôn xả và tử tánh của tánh luôn luôn xả là không. Tử tánh của pháp không quên mất ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của tánh luôn luôn xả ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tánh luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có pháp không quên mất về, về, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán pháp không quên mất hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán tánh luôn luôn xả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì pháp không quên mất và tử tánh của pháp không quên mất là không, tánh luôn luôn xả và tử tánh của tánh luôn luôn xả là không. Tử tánh của pháp không quên mất ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của tánh luôn luôn xả ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tánh luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có pháp không quên mất về, về, có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán trí nhất thiết hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì trí nhất thiết và tự tánh của trí nhất thiết là không, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Tự tánh của trí nhất thiết ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có trí nhất thiết V. V, có thể nắm bắt được, cũng là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán trí nhất thiết hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì trí nhất thiết và tử tánh của trí nhất thiết là không, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tử tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Tử tánh của trí nhất thiết ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có trí nhất thiết V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa chẳng nên quán trí nhất thiết hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì trí nhất thiết và tử tánh của trí nhất thiết là không, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tử tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Tử tánh của trí nhất thiết ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có trí nhất thiết V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán trí nhất thiết hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, chẳng nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh. Vì sao? Vì trí nhất thiết và tử tánh của trí nhất thiết là không, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tử tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Tử tánh của trí nhất thiết ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được thì cái tỉnh, bất tỉnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tỉnh, bất tỉnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có trí nhất thiết V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái tỉnh và bất tỉnh kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Này Chiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa một cách chân chắn. Lại nữa, Chiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa chẳng nên quán tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà La Ni và tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni là không, tất cả pháp môn Tam Ma Địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không. Tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tất cả pháp môn Tam Ma Địa đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả pháp môn Đà La Ni v.v. có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử! Ngươi nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà La Ni và tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni là không, tất cả pháp môn Tam Ma Địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không. Tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tất cả pháp môn Tam Ma Địa đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả pháp môn Đà La Ni v.v. có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa chẳng nên quán tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà La Ni và tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni là không, tất cả pháp môn Tam Ma Địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không. Tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tất cả pháp môn Tam Ma Địa đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả pháp môn Đà La Ni v.v. có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà La Ni và tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni là không, tất cả pháp môn Tam Ma Địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không. Tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tất cả pháp môn Tam Ma Địa đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả pháp môn Đà La Ni v.v. có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa một cách chân tránh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bồ đề, tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa chẳng nên quán dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à la hán hướng, à la hán quả hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì dự lưu hướng, dự lưu quả và tử tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả là không, nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à la hán hướng, à la hán quả và tử tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả là không. Tử tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Palamuddha. Đối với an nhẫn Palamuddha này, dự lưu hướng, dự lưu quả chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhất lai hướng cho đến à la hán quả đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có dự lưu hướng, dự lưu quả v.v. có thể nắm bắt được, hũn là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Palamuddha. Lại nói thế này, thiện 5 tử. Người nên tu an nhẫn Palamuddha chẳng nên quán dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à la hán hướng, à la hán quả hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì dự lưu hướng, dự lưu quả và tử tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả là không, nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à la hán hướng, à la hán quả và tử tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả là không. Tử tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Palamuddha. Đối với an nhẫn Palamuddha này, dự lưu hướng, dự lưu quả chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhất lai hướng cho đến à la hán quả đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có dự lưu hướng, dự lưu quả v.v. có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Palamuddha. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Palamuddha chẳng nên quán dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à la hán hướng, à la hán quả hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì dự lưu hướng, dự lưu quả và tử tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả là không, nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à la hán hướng, à la hán quả và tử tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả là không. Tử tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Palamuddha. Đối với an nhẫn Palamuddha này, dự lưu hướng, dự lưu quả chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhất lai hướng cho đến à la hán quả đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có dự lưu hướng, dự lưu quả v, v, có thể nắm bắt được, hữu là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Palamuddha. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu an nhẫn Palamuddha, chẳng nên quán dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàn hướng, bất hoàn quả, à la hán hướng, à la hán quả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì dự lưu hướng, dự lưu quả và tự tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả là không, nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàn hướng, bất hoàn quả, à la hán hướng, à la hán quả và tự tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả là không. Tự tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Palamuddha. Đối với an nhẫn Palamuddha này, dự lưu hướng, dự lưu quả chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhất lai hướng cho đến à la hán quả đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có dự lưu hướng, dự lưu quả V, V, có thể nắm bắt được, hướng là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Palamuddha. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Palamuddha một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết an nhẫn Palamuddha, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu an nhẫn Palamuddha, chẳng nên quán tất cả quả vị độc giác hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tất cả quả vị độc giác và tự tánh của tất cả quả vị độc giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị độc giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Palamuddha. Đối với an nhẫn Palamuddha này, tất cả quả vị độc giác chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có tất cả quả vị độc giác có thể nắm bắt được, cũng là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Palamuddha. Lại nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu an nhẫn Palamuddha chẳng nên quán tất cả quả vị độc giác hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tất cả quả vị độc giác và tự tánh của tất cả quả vị độc giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị độc giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Palamuddha. Đối với an nhẫn Palamuddha này, tất cả quả vị độc giác chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có tất cả quả vị độc giác có thể nắm bắt được, cũng là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Palamuddha. Lại nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu an nhẫn Palamuddha chẳng nên quán tất cả quả vị độc giác hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tất cả quả vị độc giác và tự tánh của tất cả quả vị độc giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị độc giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Palamuddha. Đối với an nhẫn Palamuddha này, tất cả quả vị độc giác chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả quả vị độc giác có thể nắm bắt được, cũng là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Palamuddha. Lại nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu an nhẫn Palamuddha chẳng nên quán tất cả quả vị độc giác hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tất cả quả vị độc giác và tự tánh của tất cả quả vị độc giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị độc giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Palamuddha. Đối với an nhẫn Palamuddha này, tất cả quả vị độc giác chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả quả vị độc giác có thể nắm bắt được, cũng là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Palamuddha. Đây Kiều Thi Ca. Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Palamuddha một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. vì người phát tâm vô thường Bồ Đệ, tuyên thuyết an nhẫn Palamuddha thì nói thế này, Thiện Nam Tử. Người nên tu an nhẫn Palamuddha chẳng nên quán tất cả hành đại Bồ Tát hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tất cả hành đại Bồ Tát và tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát là không. Tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Palamuddha. Đối với an nhẫn Palamuddha này, tất cả hành đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả hành đại Bồ Tát có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Palamuddha. Lại nói thế này, Thiện Nam Tử. Người nên tu an nhẫn Palamuddha chẳng nên quán tất cả hành đại Bồ Tát hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tất cả hành đại Bồ Tát và tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát là không. Tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Palamuddha. Đối với an nhẫn Palamuddha này, tất cả hành đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả hành đại Bồ Tát có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Palamuddha. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Palamuddha chẳng nên quán tất cả hành đại Bồ Tát hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tất cả hành đại Bồ Tát và tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát là không. Tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Palamuddha. Đối với an nhẫn Palamuddha này, tất cả hành đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả hành đại Bồ Tát có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Palamuddha. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Palamuddha chẳng nên quán tất cả hành đại Bồ Tát hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tất cả hành đại Bồ Tát và tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát là không. Tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Palamuddha. Đối với an nhẫn Palamuddha này, tất cả hành đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được, thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả hành đại Bồ Tát có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Palamuddha. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V.V. ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Palamuddha một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V.V. vì người phát tâm vô thường Bồ Đề, tuyên thuyết an nhẫn Palamuddha, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu an nhẫn Palamuddha chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không. Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Palamuddha. Đối với an nhẫn Palamuddha này, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Palamuddha. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Palamuddha chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không. Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Palamuddha. Đối với an nhẫn Palamuddha này, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Palamuddha. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Palamuddha chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không. Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Palamuddha. Đối với an nhẫn Palamuddha này, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Palamuddha. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Palamuddha chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không. Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Palamuddha. Đối với an nhẫn Palamuddha này, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Palamuddha. Này Triều Thi Ca! Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Palamuddha một cách chân chánh.

Listen Next

Other Creators