Home Page
cover of kinhdaibatnha (142)
kinhdaibatnha (142)

kinhdaibatnha (142)

00:00-41:41

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologueconversation
0
Plays
0
Downloads
0
Shares

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 6, Quyển 142, ít ít ít phẩm so sánh công đức 40. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Lại nói thế này, người tu hành an nhẫn nên cầu tám giải thoát hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến xứ hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu tám giải thoát hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến xứ hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến xứ hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến xứ hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến xứ ho c lạc, hoặc khổ, nên cầu tám giải thoát hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu tám giải thoát hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tu hành an nhẫn là tu hành an nhẫn ba la mật đa. Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v. v. vì người phát tâm vô thường vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, v vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạ vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạc, vô lạ hoặc khổ, nên cầu 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu 4 niệm trụ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu 4 niệm trụ hoặc tình, hoặc bất tình, nên cầu 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo hoặc tình, hoặc bất tình, và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tu hành an nhẫn là tu hành an nhẫn Palamarda. Nếu thiện 5 tử, thiện nữ nhân V, V, cầu 4 niệm trụ hoặc thường, hoặc vô thường, cầu 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo hoặc thường, hoặc vô thường, cầu 4 niệm trụ hoặc lạc, hoặc khổ, cầu 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo hoặc lạc, hoặc khổ, cầu 4 niệm trụ hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu 4 niệm trụ hoặc tình, hoặc bất tình, cầu 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo hoặc tình, hoặc bất tình, hoặc bất tình như thế, để nương. Vào các pháp này mà tu hành an nhẫn thì ta gọi là tu hành an nhẫn Palamarda hữu sở đắc tương tự. Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về an nhẫn Palamarda hữu sở đắc tương tự. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói pháp môn giải thoát không hoặc thường, hoặc vô thường, nói pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc thường, hoặc vô thường, nói pháp môn giải thoát không hoặc lạc, hoặc khổ, nói pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc lạc, hoặc khổ, nói pháp môn giải thoát không hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói pháp môn giải thoát không hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương các pháp như thế mà tu hành an nhẫn là tu hành an nhẫn Palamarda. Lại nói thế này, người tu hành an nhẫn nên cậu pháp môn giải thoát không hoặc thường, hoặc vô thường, nên cậu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc thường, hoặc vô thường, nên cậu pháp môn giải thoát không hoặc lạc, hoặc khổ, nên cậu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc lạc, hoặc khổ, nên cậu pháp môn giải thoát không hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cậu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cậu pháp môn giải thoát không hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cậu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, và nếu người có khả năng cậu các pháp như vậy mà tu hành an nhẫn là tu hành an nhẫn Palamarda. Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện 5 tử, thiện nữ nhân V, V vì người phát tâm vô thượng bồ đề mà nói 5 loại mắc khổ, V, V vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói 5 loại mắc khổ, V, V vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói 5 loại mắc khổ, V, V vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói 5 loại mắc khổ, V, V vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói 5 loại mắc khổ, V, V vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói 5 loại mắc khổ, V, V vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói 5 loại mắc khổ, V, V vì người phát tâm vô thường bồ đ đề mà nói 5 loại mắc khổ, V, V vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói 5 loại mắc khổ, V, V vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói 5 loại mắc khổ, V, V vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói 5 loại mắc khổ, V, V vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói 5 loại mắc khổ, V, V vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói 5 loại mắc khổ, V, V vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói 5 loại mắc khổ, V, V vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói 5 loại mắc khổ, V, V vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói Lại nói thế này, người tu hành an nhẫn nên cầu 5 loại mắc hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu 6 phép thần thông hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu 5 loại mắc hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu 6 phép thần thông hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu 5 loại mắc hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu 6 phép thần thông hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu 5 loại mắc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu 6 phép thần thông hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tu hành an nhẫn là Tu hành an nhẫn ba la mật đa Đại chiều thi ca Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, cầu 5 loại mắc hoặc thường, hoặc vô thường, cầu 6 phép thần thông hoặc thường, hoặc vô thường, cầu 5 loại mắc hoặc lạc, hoặc khổ, cầu 6 phép thần thông hoặc lạc, hoặc khổ, cầu 5 loại mắc hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu 6 phép thần thông hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu 5 loại mắc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu 6 phép thần thông hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế Để nương vào các pháp này mà tu hành an nhẫn thì ta gọi là tu hành an nhẫn ba la mật đa hữu sở Đắc tương tợ Đại chiều thi ca Nhiều trước đã nói, nên biết, đều là nói về an nhẫn ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ Lại nữa, chiều thi ca Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V vì người phát tâm vô thường bồ đệ mà nói 10 lực của Phật hoặc thường, hoặc vô thường, nói 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp Phật bất trọng hoặc thường, hoặc vô thường, nói 10 lực của Phật hoặc lạc, hoặc khổ, nói 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp Phật bất trọng hoặc lạc, hoặc khổ, nói 10 lực của Phật hoặc ngã, hoặc vô thường, nói 10 lực của Phật hoặc lạc, hoặc khổ, hoặc vô ngã, nói 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp Phật bất trọng hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói 10 lực của Phật hoặc tình, hoặc bất tình, nói 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp Phật bất trọng hoặc tình, hoặc bất tình, và nếu người có khả năng nương các pháp như thế mà tu hành an nhẫn là tu hành an nhẫn Bala Mata. Lại nói thế này, người tu hành an nhẫn nên cầu 10 lực của Phật hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu 4 điều không sợ cho đến 18 pháp Phật bất trọng hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu 10 lực của Phật hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu 4 điều không sợ cho đến 18 pháp Phật bất trọng hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu 10 lực của Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu 4 điều không sợ cho đến 18 pháp Phật bất trọng hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu 10 lực của Phật hoặc tình, hoặc bất tình. Nên cầu 4 điều không sợ cho đến 18 pháp Phật bất trọng hoặc tình, hoặc bất tình và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tu hành an nhẫn là tu hành an nhẫn Bala Mata. Này Kiều Thi Ca! Lại nữa, Kiều Thi Ca! 18 pháp Phật bất trọng hoặc tình, hoặc bất tình như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành an nhẫn thì ta gọi là tu hành an nhẫn Bala Mata hữu sở đắc tương tự. Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về an nhẫn Bala Mata hữu sở đắc tương tự. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện đữ nhân V, V vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói pháp không quên mất hoặc thường, hoặc vô thường, nói tánh luôn luôn xả hoặc thường, hoặc vô thường, nói pháp không quên mất hoặc lạc, hoặc khổ, nói tánh luôn luôn xả hoặc lạc, hoặc khổ, nói pháp không quên mất hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói tánh luôn luôn xả hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói pháp không quên mất hoặc tình, hoặc bất tình, nói tánh luôn luôn xả hoặc tình, hoặc bất tình và nếu người có khả năng nương các pháp như thế mà tu hành an nhẫn là tu hành an nhẫn Bala Mata. Đại Kiều Thi Ca Này Kiều Thi Ca! Nhiều trước đã nói nên biết đều là nói về an nhẫn Bala Mata hữu sở đắc tương tự. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V vì người phát tâm vô thường bồ đệ mà nói trí nhất thiết hoặc thường, hoặc vô thường, nói trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường, hoặc vô thường, nói trí nhất thiết hoặc lạc, hoặc khổ, nói trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc lạc, hoặc khổ, nói trí nhất thiết hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói trí nhất thiết hoặc tình, hoặc bất tình, nói trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc tình, hoặc vô ngã, nói trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc tình, hoặc bất tình, và nếu người có khả năng nương các pháp như thế mà tu hành an nhẫn là tu hành an nhẫn bala mật đa. Lại nói thế này, người tu hành an nhẫn nên cầu trí nhất thiết hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu trí nhất thiết hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu trí nhất thiết hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu trí nhất thiết hoặc tình, hoặc bất tình, nên cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc tình, hoặc bất tình, và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tu hành an nhẫn là tu hành an nhẫn bala mật đa. Này Chiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, cầu trí nhất thiết hoặc thường, hoặc vô thường, cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường, hoặc vô thường, cầu trí nhất thiết hoặc lạc, hoặc khổ, cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc lạc, hoặc khổ, cầu trí nhất thiết hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu trí nhất thiết hoặc tình, hoặc bất tình, cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc tình, hoặc vô ngã, cầu trí nhất thiết tướng hoặc bất tình như thế để nương vào các pháp. Này mà tu hành an nhẫn thì ta gọi là tu hành an nhẫn ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ. Này Chiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về an nhẫn ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ. Lại nữa, Chiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người pháp tâm vô thường bồ đệ mà nói tất cả pháp môn đa la ni hoặc thường, hoặc vô thường, nói tất cả pháp môn đa la ni hoặc lạc, hoặc khổ, nói tất cả pháp môn đa la ni hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói tất cả pháp môn đa la ni hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói tất cả pháp môn đa la ni hoặc tình, hoặc bất tình, nói tất cả pháp môn đa la ni hoặc tình, hoặc bất tình và nếu người có khả năng nương các pháp như thế mà tu hành an nhẫn là tu hành an nhẫn ba la mật đa. Lại nói thế này, người tu hành an nhẫn nên câu tất cả pháp môn đa la ni hoặc thường, hoặc vô thường, nên câu tất cả pháp môn đa la ni hoặc thường, hoặc vô thường, nên câu tất cả pháp môn đa la ni hoặc lạc, hoặc khổ, nên câu tất cả pháp môn đa la ni hoặc lạc, hoặc khổ, nên câu tất cả pháp môn đa la ni hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên câu tất cả pháp môn đa la ni hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên câu tất cả pháp môn đa la ni hoặc tình, hoặc bất tình, nên câu tất cả pháp môn đa la ni hoặc tình, hoặc bất tình và nếu người có khả năng nương các pháp như thế mà tu hành an nhẫn là tu hành an nhẫn ba la mật đa. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, câu tất cả pháp môn đa la ni hoặc thường, hoặc vô thường, câu tất cả pháp môn đa la ni hoặc thường, hoặc vô thường, câu tất cả pháp môn đa la ni hoặc lạc, hoặc khổ, câu tất cả pháp môn đa la ni hoặc ngã, hoặc vô ngã, câu tất cả pháp môn đa la ni hoặc ngã, hoặc vô ngã, câu tất cả pháp môn đa la ni hoặc tình, hoặc bất tình, câu tất cả pháp môn đa la ni hoặc tình, hoặc bất tình như thế để nương vào các pháp này mà tu hành an nhẫn thì ta gọi là tu hành an nhẫn ba la mật đa hữu sở đắc tương tự. Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về an nhẫn ba la mật đa hữu sở đắc tương tự. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện năm tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc thường, hoặc vô thường, nói nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàn hướng, bất hoàn quả, à la hán hướng, à la hán quả hoặc thường, hoặc vô thường, nói dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc lạc, hoặc khổ, nói nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàn hướng, bất hoàn quả, à la hán hướng, à la hán quả hoặc lạc, hoặc khổ, nói dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc lạc hoặc lạc, nói dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc lạc, nói dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc lạc, nói dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc lạc, nói dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc lạc, nói dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc lạc, nói dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc lạc, nói dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc lạc, nói dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc lạc, nói dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc lạc, nói dự lưu h Lại nói thế này, người tô hành an nhẫn nên cầu dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc t nên cầu nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả hoặc tình, hoặc bất tình và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tô hành an nhẫn là tô hành an nhẫn ba-la-mật-đa. Này Kiều Thí Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, cầu dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc thường, hoặc vô thường, cầu nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả hoặc thường, hoặc vô thường, cầu dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc lạc, hoặc khổ, cầu nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả hoặc lạc, hoặc khổ, cầu dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu dự lưu hướng, dự lưu qu hoặc bất tỉnh, cầu nhất lai hướng cho đến A-la-hán quả hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành an nhẫn thì ta gọi là tu hành an nhẫn ba-la-mật-đa-hữu-sở-đắc-tương-tợ. Này Kiều Thí Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về an nhẫn ba-la-mật-đa-hữu-sở-đắc-tương-tợ. Lại nữa, Kiều Thí Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ mà nói tất cả quả vị độc giác hoặc thường, hoặc vô thường, nói tất cả quả vị độc giác hoặc lạc, hoặc khổ, nói tất cả quả vị độc giác hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói tất cả quả vị độc giác hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh và nếu người có khả năng nương các pháp như thế mà tu hành an nhẫn là tu hành an nhẫn ba-la-mật-đa. Lại nói thế này, người tu hành an nhẫn nên cầu tất cả quả vị độc giác hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu tất cả quả vị độc giác hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu tất cả quả vị độc giác hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu tất cả quả vị độc giác hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tu hành an nhẫn là tu hành an nhẫn ba-la-mật-đa. Đây Kiều Thí Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V cầu tất cả quả vị độc giác hoặc thường, hoặc vô thường, cầu tất cả quả vị độc giác hoặc lạc, hoặc khổ, cầu tất cả quả vị độc giác hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu tất cả quả vị độc giác hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành an nhẫn thì ta gọi là tu hành an nhẫn ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tự. Này Kiều Thí Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về an nhẫn ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tự. Lại nữa, Kiều Thí Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V vì người phát tâm vô thường bồ đệ mà nói tất cả hành đại bồ tát hoặc thường, hoặc vô thường, nói tất cả hành đại bồ tát hoặc lạc, hoặc khổ, nói tất cả hành đại bồ tát hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói tất cả hành đại bồ tát hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh và nếu người có khả năng nương các pháp như thế mà tu hành an nhẫn là tu hành an nhẫn ba-la-mật-đa. Lại nói thế này, người tu hành an nhẫn nên cầu tất cả hành đại bồ tát hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu tất cả hành đại bồ tát hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu tất cả hành đại bồ tát hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu tất cả hành đại bồ tát hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tu hành an nhẫn là tu hành an nhẫn ba-la-mật-đa. Đại tiểu Thi Ca Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, cầu tất cả hành đại bồ tát hoặc thường, hoặc vô thường, cầu tất cả hành đại bồ tát hoặc lạc, hoặc khổ, cầu tất cả hành đại bồ tát hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu tất cả hành đại bồ tát hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành an nhẫn thì ta gọi là tu hành an nhẫn ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tự. Đại tiểu Thi Ca Nhiều trước đã nói, nên biết, đều là nói về an nhẫn ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tự. Lại nữa, tiểu Thi Ca Nếu, nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ mà nói quả vị giác ngộ cao tập, Nếu, nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ mà nói quả vị giác ngộ cao tập, Đều là nói về an nhẫn ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tự. Lại nữa, tiểu Thi Ca Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ mà nói quả vị giác ngộ cao tập của chư Phật hoặc thường, hoặc vô thường, nói quả vị giác ngộ cao tập của chư Phật hoặc lạc, hoặc khổ, nói quả vị giác ngộ cao tập của chư Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói quả vị giác ngộ cao tập của chư Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương các pháp như thế mà tu hành an nhẫn là tu hành an nhẫn ba-la-mật-đa. Lại nói thế này, người tu hành an nhẫn nên cầu quả vị giác ngộ cao tập của chư Phật hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu quả vị giác ngộ cao tập của chư Phật hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu quả vị giác ngộ cao tập của chư Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu quả vị giác ngộ cao tập của chư Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tu hành an nhẫn là tu hành an nhẫn ba-la-mật-đa. Này Kiều Thí Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, cầu quả vị giác ngộ cao tập của chư Phật hoặc thường, hoặc vô thường, cầu quả vị giác ngộ cao tập của chư Phật hoặc lạc, hoặc khổ, cầu quả vị giác ngộ cao tập của chư Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu quả vị giác ngộ cao tập của chư Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành an nhẫn thì ta gọi là tu hành an nhẫn ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tự. Này Kiều Thí Ca! Nhiều trước đã nói, nên biết, đều là nói về an nhẫn ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tự. Khi ấy, Trời đế thích lại bạch Phật, bạch Thế Tôn. Các thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, nói tịnh giới ba-la-mật-đa hữu sở đắc như thế nào mà gọi là nói tịnh giới ba-la-mật-đa tương tự. Phật dạy, này Kiều Thí Ca! Thức hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới ba-la-mật-đa. Lại nói thế này, người tu hành tịnh giới nên cầu sắc hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu thọ, tưởng, hành. Thức hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu sắc hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu thọ, tưởng, hành. Thức hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu sắc hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu thọ, tưởng, hành. Thức hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu sắc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu thọ, tưởng, hành. Thức hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới ba-la-mật-đa. Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân về, về cầu sắc hoặc thường, hoặc vô thường, cầu thọ, tưởng, hành. Thức hoặc thường, hoặc vô thường, cầu sắc hoặc lạc, hoặc khổ, cầu thọ, tưởng, hành. Thức hoặc lạc, hoặc khổ, cầu sắc hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu thọ, tưởng, hành. Thức hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu sắc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu thọ, tưởng, hành. Thức hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tịnh giới thì ta gọi là tu hành tịnh giới ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tự. Này Kiều Thi Ca! Nhiều trước đã nói, nên biết, đều là nói về tịnh giới ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tự. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nói nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương các pháp như thế mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới ba-la-mật-đa. Lại nói thế này, người tu hành tịnh giới nên cầu nhãn xứ hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu nhãn xứ hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu nhãn xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu nhãn xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu nhã y xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tu hành, tịnh giới là tu hành tịnh giới Palamarda. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V cầu nhãn xứ hoặc thường, hoặc vô thường, cầu nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ hoặc thường, hoặc vô thường, cầu nhãn xứ hoặc lạc, hoặc khổ, cầu nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ hoặc lạc, hoặc khổ, cầu nhãn xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu nhãn xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ hoặc lạc, hoặc khổ, cầu nhãn xứ hoặc ngã, ho y xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tịnh giới thì ta gọi là tu hành tịnh giới ba la. Mật đa hữu sở đắc tương tợ. Này Chiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tịnh giới ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ. Lại nữa, Chiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v, v, vì người phát tâm vô thường bộ đề mà nói xác xứ hoặc thường, hoặc vô thường, nói thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc thường, hoặc vô thường, nói xác xứ hoặc lạc, hoặc khổ, nói thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc lạc, hoặc khổ, nói xác xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói xác xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói thanh, hương, vị nói xác xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, và nếu người có khả năng nương các pháp như thế mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới ba la mật đa Lại nói thế này, người tu hành tịnh giới nên cầu xác xứ hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu xác xứ hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu xác xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu xác xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc lạc, hoặc vô ngã, nên cầu thanh, hương hoặc bất tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy, mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới ba la mật đa. Này Kiều Thi Ca Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, cầu xác xứ hoặc thường, hoặc vô thường, cầu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc thường, hoặc vô thường, cầu xác xứ hoặc lạc, hoặc khổ, cầu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc lạc, hoặc khổ, cầu xác xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu xác xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế. Để nương vào các pháp này mà tu hành tịnh giới thì ta gọi là tu hành tịnh giới ba la mật đa hữu sở đắc tương tự. Này Kiều Thi Ca Nhiều trước đã nói, nên biết, đều là nói về tịnh giới ba la mật đa hữu sở đắc tương tự. Lại nữa, Kiều Thi Ca Nếu thiện năm tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói nhãn giới hoặc thường, hoặc vô thường, nói sách giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường, nói nhãn giới hoặc lạc, hoặc khổ, nói sách giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ, nói nhãn giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói sách giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã. Hoặc vô ngã, nói nhãn giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói sách giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương các pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới Palamarda. Lại nói thế này, người tu hành tịnh giới nên cầu nhãn giới hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu sách giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu nhãn giới hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu sách giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu nhãn giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu sách giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu nhãn giới hoặc tịnh. Cầu nhãn giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu sách giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới Palamarda. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, cầu nhãn giới hoặc thường, hoặc vô thường, cầu sách giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường, cầu nhãn giới hoặc lạc, hoặc khổ, cầu sách giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ, cầu nhãn giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu sách giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu nhãn giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu sách giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tịnh giới thì ta gọi là tu hành tịnh giới ba la mật đa hữu sở đắc tương tự. Này Kiều Thi Ca, như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tịnh giới ba la mật đa hữu sở đắc tương tự. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Tịnh giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói nhãn giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói thanh giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương các pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới ba la mật đa. Lại nói thế này, người tu hành tịnh giới nên cầu nhãn giới hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu thanh giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu nhãn giới hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu thanh giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu nhãn giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu thanh giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu nhãn giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu thanh giới cho đến. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới ba la mật đa. Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đề mà nói tị giới hoặc thường tị giới là tị giới ba la mật đa. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đề mà nói tị giới hoặc thường tị giới là tị giới ba la mật đa. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đề mà nói tị giới hoặc thường, hoặc vô thường, nói hương giới, tị thức giới và tị xúc cùng các thọ do tị xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường, nói tị giới hoặc lạc, hoặc khổ, nói hương giới, tị thức giới và tị xúc cùng các thọ do tị xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc lạc, hoặc khổ, nói tị giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói hương giới, tị thức giới và tị xúc cùng các thọ do tị xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói tị giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói hương giới, tị thức giới và tị xúc cùng các thọ do tị xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương các pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới ba la mật đa. Lại nói thế này, người tu hành tịnh giới nên cầu tị giới hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu hương giới cho đến các thọ do tị xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu tị giới hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu hương giới cho đến các thọ do tị xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu tị giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu hương giới cho đến các thọ do tị xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu tị giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu hương giới cho đến các thọ do tị xúc làm duyên sanh ra ho hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới bala mật đa. Đại Kiều Thi Ca Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, cầu tị giới hoặc thường, hoặc vô thường, cầu hương giới cho đến các thọ do tị xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường, cầu tị giới hoặc lạc, hoặc khổ, cầu hương giới cho đến các thọ do tị xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ, cầu tị giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu hương giới cho đến các thọ do tị xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu tị giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu hương giới cho đến các thọ do tị xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, ho ạc, cầu tị giới cho đến các thọ do tị xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tịnh giới thì ta gọi là tu hành tịnh giới ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ. Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tịnh giới ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói thiệt giới hoặc thường, hoặc vô thường, nói vị giới, thì thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường, nói thiệt giới hoặc lạc, hoặc khổ, nói vị giới, thì thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ, nói thiệt giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói vị giới, thì thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói thiệt giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói vị giới, thì thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương các pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới Palamudda. Lại nói thế này, người tu hành tịnh giới nên cầu thiệt giới hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu thiệt giới hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu thiệt giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu thiệt giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu vị giới cho đến. Các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như vậy mà tu hành tịnh giới là tu hành tịnh giới Palamudda. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. cầu thiệt giới hoặc thường, hoặc vô thường, cầu vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường, cầu thiệt giới hoặc lạc, hoặc khổ, cầu vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ, cầu thiệt giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu thiệt giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc vô ng ngã, cầu vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tịnh giới thì ta gọi là tu hành tịnh giới ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ. Này kiều thi ca, như trước đã nói, nên viết, đều là nói về tịnh giới ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.

Listen Next

Other Creators