The Argentinian President Xavier Milley recently gave a strong speech criticizing socialism and collectivism as threats to happiness and Western society. He emphasized the failures of government intervention and praised entrepreneurs. Milley warned that the West is being drawn towards socialism and poverty. He believes that free-market capitalism is the only solution to poverty. The speech received mixed reactions, with some applauding it and others dismissing Milley as a fanatic of free-market economics. Surprisingly, the speech also gained attention in China. Milley's ideas are influenced by Austrian economics and he sees himself as a proponent of freedom. However, it remains to be seen whether Argentina will experience success or failure under his leadership. The history of Western capitalism has taught valuable lessons, and the situation in Latin America reflects the realities of the West. The rise and fall of free-market capitalism have shaped the modern Western economy. The found
Gần đây, tân Tổng thống Argentina Xavier Milley đã có bài phát biểu mạnh mẽ trước giới tinh hoa chính trị và kinh doanh toàn cầu ở Davos, chỉ trích chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tập thể là mối đe dọa đối với hạnh phúc của con người và xã hội phương Tây. Trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên trên cương vị Tổng thống, nhà lãnh đạo Argentina tự nhận mình là nhà tư bản vô chính phủ đã chỉ trích công bằng xã hội và chủ nghĩa nước quyền cấp tiến tại cuộc họp Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Géas của Thụy Sĩ.
Trong bài phát biểu của mình, ông đặc biệt tập trung vào những chỉ trích của thế giới bên ngoài đối với chủ nghĩa tư bản trong những thập kỷ gần đây, đặc biệt là cách nói rằng chủ nghĩa tư bản sẽ dẫn đến thị trường thất bại, chỉ rõ không có thị trường thất bại, mà chỉ có sự thất bại của chính phủ, tức là sự thất bại của sự can thiệp của nhà nước. Ông cũng ca ngợi các doanh nhân như những anh hùng.
Millet cảnh báo rằng phương Tây đang gặp nguy hiểm bởi vì những người được cho là bảo vệ các giá trị phương, Tây đang bị lôi kéo vào một thế giới quan dẫn đến sự phát triển của chủ nghĩa xã hội và dẫn đến nghèo đói. Ông cũng tuyên bố rằng chủ nghĩa tư bản thị trường tự do là giải pháp khả thi duy nhất giải quyết tình trạng nghèo đói. Câu hỏi đặt ra là, Chile đã trở thành bi kịch của chủ nghĩa tân tự do, liệu Argentina của Millet có trở thành một bi kịch khác không? Bài phát biểu đầy nhiệt huyết của Millet giống như một quả bom, gây ra những phản ứng khác nhau nhưng không kém phần quyết liệt từ mọi phía.
Dưới tư bản đương nhiên là vỗ tay hoan nghênh khen ngợi. Tỷ phú người Mỹ Elon Musk cũng bày tỏ quan điểm cá nhân trên tài khoản nền tảng X của mình, mô tả bài phát biểu của Millet là quá kích thích. Còn các chính phủ phương Tây không hoàn toàn nghĩ như vậy, cho rằng Millet chỉ là một người âm mộ cuồng nhiệt của chủ nghĩa kinh tế học tân tự do. Đúng như dự đoán nhưng lại bất ngờ chính là, bài phát biểu của Millet cũng gây tiếng vang rất lớn ở Trung Quốc.
Trên mạng lan truyền rộng rãi những phát ngôn và tư tưởng của ông. Có người coi Millet là người phát ngôn của trường phái áo và chủ nghĩa tân tự do. Nhiều người cho rằng tốt nhất nên hiểu Millet ông là một người theo chủ nghĩa tự do có nguyên tắc. Hơn nữa, quan điểm của họ cũng có căn cứ. Suy cho cùng, ông là một nhà kinh tế học được đào tạo bài bản và chiến lược của ông bắt nguồn từ phương pháp luận của trường phái áo được giảng dạy bởi Mises và Hayek.
Tuy nhiên, câu hỏi chúng ta cần đặt ra là, liệu Millet có phải là sự khởi đầu của một kỳ tích ở châu Mỹ Latin? Hay đó là sự khởi đầu của một thất bại khác? Millet cho rằng sẽ không phù hợp nếu người ta đổ lỗi cho thị trường khiến Mỹ Latin rơi vào bẫy thu nhập trung bình hay trở thành một quốc gia thất bại. Ông tin chắc rằng thất bại thị trường không tồn tại và thất bại đó là do sự can thiệp của nhà nước gây ra.
Điều này gợi nhớ đến bài phát biểu hùng hồn của Thatcher khi bà tranh cử thủ tướng ở Anh, chính phủ không phải là giải pháp cho vấn đề, mà là gốc dễ của vấn đề. Thatcher cũng được ca ngợi như là anh hùng ở phương Tây nhưng cuối cùng vẫn không thể cứu được ước Anh. Trên khắp thế giới, một số người ghét chủ nghĩa tân tự do, trong khi những người khác lại thần thánh hóa chủ nghĩa này.
Nó tạo thành hai phe không đội trời chung. Điều này liên quan đến cách chúng ta nhìn nhận chủ nghĩa tân tự do ở phương Tây. Lịch sử kinh tế thị trường phương Tây từng có những bài học kinh nghiệm sâu sắc, và việc các nước Mỹ Latin một lần nữa đi đến hai thái cực chỉ là sự phản ánh thực tiễn của phương Tây. Chúng ta chỉ có nhìn từ góc độ lịch sử rộng lớn mới có thể hiểu được thị trường phương Tây đã phát triển như thế nào cho đến ngày nay và nó sẽ phát triển như thế nào trong tương lai.
Sự trỗi dậy và sụp đổ của lý luận chủ nghĩa kinh tế tự do phương Tây. Nên kinh tế thị trường phương Tây thực chất là sản phẩm của thời hiện đại. Về mặt lý thuyết, mặc dù lý thuyết kinh tế thị trường phương Tây được coi là phát triển từ các nhà kinh tế học như Adam Smith, David Ricardo, nhưng nó thực sự có thể được bắt nguồn từ nhà chết học chính trị Thomas Hobbes tra đẻ của chủ nghĩa tự do chính trị phương Tây.
Lễ Via Thàn của Hobbes mô tả một hình thái xã hội tự nhiên, cho rằng trong trạng thái tự nhiên, những gì xảy ra là một cuộc chiến giữa người với người, chỉ có bạo lực và không có hòa bình. Theo lý thuyết trạng thái tự nhiên này, nếu chỉ nhấn mạnh vai trò của thị trường mà không có vai trò của chính phủ, thì bên trong thị trường sẽ có sự phân chia lớn nhỏ và mạnh yếu, từ đó dẫn đến tranh chấp không dứt trong trật tự.
Do đó, Hobbes nhấn mạnh rằng bất cứ ai cũng phải nhường quyền lực để thành lập chính phủ, hoa giải bất đồng. Đối với Hobbes, trật tự và ổn định là ưu tiên hàng đầu. Điều này cũng cung cấp một nguồn lý luận cho nền kinh tế thị trường tự do sau này. Người theo chủ nghĩa tự do vĩ đại sau Hobbes phải kể đến là chiếc da người Anh John Locke. Vào thời của Locke, tư bản phương Tây tích lũy và phát triển nhanh chóng lên Locke để sướng hạn chế chính phủ.
Trong luận thuyết về chính phủ, ông lập luận rằng chính phủ không phải là nguồn duy nhất của quyền sở hữu, cũng như không thể tùy ý chưng dụng tài sản cá nhân. Nếu mục đích tồn tại của chính phủ là bảo vệ quyền sở hữu, thì tài sản phải có chức chính phủ và hoàn toàn độc lập. Cùng với sức mạnh của tư bản không ngừng tăng lên, tư bản muốn hạn chế sự can thiệp của chính phủ vào vốn.
Từ đó nhấn mạnh đến quyền sở hữu tư nhân, như vậy mới có sự phát triển tiếp theo của chủ nghĩa tự do. Tiếp nối tư tưởng của Locke, phản ánh về mặt kinh tế, lý thuyết bàn tay vô hình của Adam Smith ra đời. Từ Hobbes đến Locke đến Adam Smith, và sau đó là chủ nghĩa kinh tế tự do cổ điển, những tư tưởng và lý thuyết đầy đi đôi với nhau và không hoàn toàn phủ nhận hoặc chống lại vai trò của chính phủ, chỉ nhấn mạnh đến danh giới giữa chính phủ và tư bản.
Mãi cho đến sau thập viên 80 của thế kỷ 20, chủ nghĩa tân tự do tập trung thể hiện trong đồng thuận Washington mới bắt đầu phủ nhận vai trò của chính phủ. Nếu như nói nền tảng của chủ nghĩa kinh tế học tự do là chế độ tư hữu về quyền sở hữu tài sản và sự thiêng liêng bất khả xâm phạm của tài sản tư hữu là tín điều của nó, thì phương Tây cũng đã phát triển một đền kinh tế học ở một thái cực khác.
Trong phong trào khai sáng Pháp, chiết gia Rousseau quy tất cả tội ác trên thế giới đều là do chế độ tư hữu. Tư tưởng này sau đó được bắt kế thừa. Các bác sống trong thế kỷ 19 là thời đại mà tư bản thống trị và đàn áp mạnh mẽ lao động, chỉ có tự do của tư bản chứ không có tự do của lao động. Điều này được phản ánh trong các tác phẩm văn học, trở thành bàn cáo trạng về hiện thực, như thời gian khó khăn của Shirley Dickens, những người khốn khổ của Victor Hugo.
Sự trỗi dậy của phong trào xã hội chủ nghĩa là một phản ứng chống lại tự do tư bản. Để đối phó với những nguy cơ này, thế giới phương Tây đã chủ yếu áp dụng hai đường lối. Một là cách mạng, chủ trương xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân, thông qua bạo lực lật đổ thế giới cũ, xây dựng một xã hội đại đồng theo chủ nghĩa cộng sản, hay là thông qua cải cách, xây dựng xã hội phúc lợi.
Đường lối đầu tiên được biểu hiện qua cách mạng Nga Soviet, còn xã hội Tây Âu thì lựa chọn đường sau. Xã hội phúc lợi là kết quả của sự thỏa hiệp của tư bản đối với xã hội và được gọi là mô hình xã hội chủ nghĩa dân chủ. Mô hình xã hội chủ nghĩa dân chủ là con đường thứ ba của thời bấy giờ, không phải là mô hình ban đầu của chủ nghĩa tư bản, cũng không phải là mô hình của Liên Xô.
Mô hình Liên Xô diễn ra ở các nước có nền kinh tế lạc hậu hơn, trong khi mô hình xã hội phúc lợi diễn ra ở các nước có nền kinh tế phát triển hơn. Chúng ta có thể xem xã hội phúc lợi là sự lựa chọn trung gian giữa chế độ chủ nghĩa tư bản nguyên thủy và chế độ công hữu. Tức là con đường thứ ba. Đây là thuật gữ chung cho khái niệm kinh tế chính trị giữa chủ nghĩa tư bản tự do và chủ nghĩa xã hội truyền thống.
Tư tưởng cốt lói của nó là không ủng hộ thị trường tự do thuần túy cũng như chủ nghĩa xã hội thuần túy, mà là sự thỏa hiệp giữa hai bên. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể hiểu đơn giản con đường thứ ba thành con đường trung gian. Bởi vì nó không chỉ là đi ở giữa, hoặc chỉ là một sự thỏa hiệp hoặc hỗn hợp. Những người đề xướng cho rằng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đều có những khuyết điểm, cho nên nghiêng về bên nào cũng không tốt.
Phải nỗ lực kết hợp những ưu điểm của chủ nghĩa hai bên để bù đắp những khuyết điểm của nhau. Chủ nghĩa Keynes nổi lên từ cuộc đại suy thoái kinh tế của thế giới phương Tây vào những năm 1930. Sau thế chiến II, chủ nghĩa Keynes bắt đầu được áp dụng ở hầu hết các đất phương Tây lớn, bao gồm cả Mỹ, chính phủ can thiệp vào nền kinh tế. Sự đóng góp của Keynes cho xã hội phương Tây là rất lớn, chủ yếu là sự mở rộng của xã hội phúc lợi.
Khi mức độ phúc lợi được nâng lên, tầng lớp trung lưu trong xã hội phương Tây được mở rộng nhanh chóng và tầng lớp trung lưu trở thành nền tảng xã hội ổn định của nền dân chủ phương Tây. Đồng thời, chủ nghĩa Keynes đã dẫn đến sự mở rộng lớn hơn của khu vực công cộng phương Tây, các doanh nghiệp nhà nước, và bộ máy quan lưu gắn liền với nó. Vào đầu những năm 1970 của thế kỷ 20, khi phương Tây gặp khủng hoảng dâu mỏ và xã hội phương Tây nói chung rơi vào tình trạng kinh tế đình trệ, chủ nghĩa Keynes không thể làm gì được.
Điều này trực tiếp dẫn đến sự trỗi dậy của chủ nghĩa kinh tế tân tự do. Chủ nghĩa tư bản thị trường tự do mà Hayek ủng hộ đã bắt đầu trở nên phổ biến rộng rãi. Trên phương diện thực tiễn, vào thập niên 80 của thế kỷ 20, chính phủ Thatcher ở Anh và chính phủ Reagan ở Mỹ đề xưởng kinh tế tư nhân hóa, nới lòng quy định tài chính, chủ nghĩa cá nhân, khái niệm toàn cầu hóa, hình thành kinh tế học chủ nghĩa tân tự do, hay còn gọi là cách mạng phía cung cấp.
Cuộc cách mạng Thatcher và Reagan chính là sự thể hiện thực tế của quan niệm kinh tế này, đã truyền động lực phát triển rất bạnh cho nền kinh tế phương Tây. Chủ nghĩa tân tự do đã mang lại sự thịnh vượng cho phương Tây trong nhiều thập kỷ, nhưng cũng gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu từ năm 2007 đến 2008. Để cứu vãn khủng hoảng kinh tế, các nước phương Tây, đặc biệt là chính phủ Mỹ bắt đầu ra sức can thiệp vào nền kinh tế.
Chủ nghĩa phúc lợi của phương Tây và chủ nghĩa tư bản nhà đất kiểu Mỹ đang nổi lên ở Mỹ ngày nay đã bị Millet tấn công dữ rồi. Bài phát biểu của Millet chắc chắn là một tuyên ngôn chính trị, cũng giống như tuyên ngôn chính trị của Hayek trong con đường dẫn tới chế độ nông đồ. Hiện tượng Millet không quá lạ lắm, Argentina đang đi theo con đường cũ của Chile. Kể từ khi chủ nghĩa tư bản cận đại trỗi dậy, phương Tây luôn tìm kiếm sự sắp chấp thể chế kinh tế giữa chính phủ và thị trường để phù hợp với thời đại.
Trong đó trái phải ra động lặp đi lặp lại, các giải pháp mới liên tục xuất hiện. Ở cấp độ tư tưởng, nếu quyền sở hữu tư nhân được tôn dùng bởi chủ nghĩa tân tự do, thì ngược lại, Rousseau coi quyền sở hữu tư nhân là nguồn gốc của tội lỗi. Trên thực tế, hầu hết các đất phương Tây đều thừa nhận vai trò can thiệp của chính phủ, tập trung vào vấn đề cân bằng gi dụng nền kinh tế phát triển của phương Tây luôn theo đuổi một sự sắp chấp thể chế kinh tế hợp lý hơn.
Sau sự sụp đổ của mô hình Rousseau xóa bỏ sở hữu tư nhân, ngày nay không ai có thể tưởng tượng ra một hình thái kinh tế hoàn toàn thuộc sở hữu công. Tất cả những gì mọi người tranh luận chỉ là vấn đề chính phủ can thiệp được bao nhiêu. Đề án cứu vớt kinh tế của Argentina do ông Millay đề xuất đại diện cho một hình thái cực đoan khác. Một hình thái cực đoan của sự can thiệp vô chính phủ, cực hữu được tiếp tục mở rộng và phát triển hơn nữa.
Điều này không khó hiểu trong bối cảnh Mỹ-La Tinh. Từ lâu, bi kịch của các nước Mỹ-La Tinh là bị kéo qua lại giữa hai mô hình cực tả và cực hữu. Trước Millay, cách làm của cựu Tổng thống Chile Pinochet đã là một thất bại nổi tiếng thế giới. Vào thời điểm đó, những chàng trai Chicago, Chicago Boys, hay trường phái Chicago, Chicago School, với nồng cốt là các nhà kinh tế như Hayek và Milton Friedman, đã hướng dẫn triển khai thực nghiệm chủ nghĩa tân tự do ở Chile.
Chile đã tiến hành những cải cách tân tự do triệt để tập trung vào quyền sở hữu tư nhân. Nhưng chủ nghĩa tân tự do không phải là tự do. Ngược lại, sự tự do mà tư bản có được lại dựa trên việc chính quyền quân sự đàn áp phong trào lao động và hy sinh quyền tự do lao động. Thực nghiệm của Chile về chủ nghĩa kinh tế học tân tự do có thể tóm tắt trong một câu, chính phủ đã sử dụng bạo lực để chuyển quyền tự do lao động, điều mặc cánh tả đấu tranh, thành tự do tư bản, điều mặc cánh hữu đấu tranh.
Sự đàn áp lao động của Pinochet đã khiến thực nghiệm tân tự do này thất bại theo một nghĩa khác. Theo nghĩa này, sự xuất hiện của hiện tượng Millet có thể nói là bước giải ngoặt thực hữu thứ hai trong lịch sử vĩ La Tinh, có thể nói là dẫm vào vết xe đổ. Millet cho rằng, quốc gia không cần chính phủ, ngay cả sự can thiệp truyền thống, thị trường lớn, chính phủ nhỏ do các nền kinh tế phát triển phương Tây đề xướng ông cũng không thể chấp nhận.
Xét từ góc độ lịch sử, điều này có thể là sự khởi đầu của một bi kịch khác. Ngoài ra, Millet đã bỏ qua một câu hỏi quan trọng, đó là tư bản của ai. Giới học thuật và giới chính sách thường thảo luận về thuyết phụ thuộc khi phân tích bấy Mỹ-La Tinh. Mặc dù Mỹ-La Tinh luôn có mức độ phụ thuộc cao đối với nguồn vốn của Mỹ, Mỹ-La Tinh cũng trao quyền tự do cho tư bản của Mỹ, nhưng tư bản Mỹ vẫn chưa báo đáp lại các nước Mỹ-La Tinh.
Cho dù như Millet nói, cho phép tư bản tự do hoạt động, nhưng cho tư bản trong nước tự do hay cho tư bản nước ngoài tự do. Đó cũng là một vấn đề bởi vì tư bản có các thuộc tính quốc gia. Các chính trị gia Mỹ-La Tinh, bao gồm Pinochet, không thể thay đổi thực tế Mỹ-La Tinh phụ thuộc vào Mỹ. Mặc dù các nước Mỹ-La Tinh trong một thời gian dài đã thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu, nhằm thoát khỏi sự phụ thuộc vào phương Tây, nhưng cuối cùng tất cả đều thất bại.
Hiện tượng Millet không phải là không có căn cứ. Ở phương diện tư tưởng kinh tế, ngoài chủ nghĩa tân tự do đang thịnh hành ở Argentina, bắt đầu từ cuộc cách mạng Reagan-Thatcher, thuyết quốc gia thất bại cũng là một họp thuyết cổ biến trong những năm gần đây. Tư tưởng này đi xa hơn trên cơ sở thuyết thị trường vạn năng và coi hệ thống quốc gia là nguyên nhân sâu xa của sự thất bại trong phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, thuyết quốc gia thất bại không thể có chỗ đứng vững chắc ở cấp độ thực tiễn. Hiện tại, các nền kinh tế như Mỹ và Liên minh châu Âu đang quay trở lại chính sách công nghiệp truyền thống, chính là rút củi dưới đáy nồi cho thuyết quốc gia thất bại, dựa trên thuyết quyết định thể chế từ góc độ chính sách. Tiếng vang của liệu pháp Millet đang tạo ra không ít rắc rối ở Trung Quốc.
Đơn thuốc do Millet đề xuất đã gây sôn sao dư luận phương Tây, nhưng tại sao dư luận Trung Quốc cũng gây ra nhiều tiếng vang như vậy? Chủ trương đề xuất của Millet đã thất bại ở phương Tây, tại sao một số người ở Trung Quốc lại thấy rắc rối? Cần phải chỉ ra rằng, như đã đề cập trước đó, có hai dòng chảy trong phổ tư tưởng kinh tế phương Tây. Con đường đầu tiên là phát triển các tư tưởng kinh tế chính trị từ Hobbes, Adam Smith đến Hayek.
Con đường thứ hai là tư tưởng kinh tế từ Rousseau, chủ nghĩa Mark đến cánh tảng ngày nay. Điều thứ hai là sự phản đối chống lại điều thứ nhất, điều mà nhà kinh tế học chính trị các Polanyi gọi là chuyển động ngược trong cuốn The Great Transformation, The Political and Economic Origin of Our Time. Sau năm 1945, trong thời đại chủ nghĩa Keynes thống trị phương Tây, Hayek đã bắt đi tiếng nói. Chỉ sau cuộc cách mạng Reagan-Thatcher, tư tưởng của Hayek mới có tiếng vang.
Năm 2007-2008, khủng hoảng tài chính bùng nổ, trường phái Chicago không còn thịnh hành nữa, phong trào chiếm lĩnh phố quân cũng diễn ra ở Mỹ. Sau cuộc khủng hoảng tài chính, quan điểm của Hayek không còn phổ biến ở Mỹ và thậm chí trên thế giới ngày nay. Phương Tây ngày nay không còn sùng bái Hayek như trước đây nữa, nhưng sự ca ngợi đối với tư tưởng của Hayek vẫn thịnh hành ở Trung Quốc.
Tại sao cho đến nay vẫn vậy? Kiểu ca ngợi này chủ yếu xuất phát từ phản ứng của khán giả đối với thực tế mà họ nhận định. Khán giả Trung Quốc ca ngợi Hayek cho rằng chính phủ đang can thiệp quá nhiều vào nền kinh tế. Thế nhưng, loại sùng bái châm biếm trông phải nhìn trái này cũng không hợp lý. Trung Quốc không thực hiện đường lối kinh tế cực tả của chủ nghĩa chính thống cũng như đường lối kinh tế cực hữu của chủ nghĩa Hayek.
Cái họ thúc đẩy là Trung Quốc hóa chủ nghĩa Marx. Một mặt theo đuổi sự giàu có thông qua cơ chế thị trường, mặt khác theo đuổi công bằng xã hội thông qua can thiệp của chính phủ. Nói cách khác, phương tiện mà họ đang sử dụng không giống như cả hai con đường đã nói ở trên. Cũng giống như sự tôn dùng nền kinh tế theo chủ nghĩa Marx chính thống đã trở thành một bi kịch đối với Liên Xô, sự ca ngợi đối với Hayek cũng là một bi kịch đối với cộng đồng kinh tế Trung Quốc.
Ở cấp độ lý thuyết, cho dù công cụ lý thuyết này là tư tưởng kinh tế cánh tả của chủ nghĩa chính thống hay tư tưởng cánh hữu của chủ nghĩa Hayek, họ chỉ đang sử dụng các công cụ lý thuyết của phương Tây để lồng gác thực tiễn của Trung Quốc. Nói tóm lại, biện pháp chép đi chép lại này cũng không trực tiếp đối mặt với vấn đề, không thể trả lời câu hỏi của Trung Quốc.
Các nhà kinh tế học Trung Quốc đến nay vẫn chưa thể rút ra được kinh nghiệm thực tiễn của chính Trung Quốc, lấy đó làm căn cứ lý luận để định hướng đến kinh tế Trung Quốc. Mà muốn phát triển tư tưởng kinh tế có thể giải quyết vấn đề thực tế của Trung Quốc, thì phải loại bỏ sự sùng bái đối với bất cứ ai, trở về kinh nghiệm thực tiễn của Trung Quốc. Như vậy, mới có thể xác định vận đề của Trung Quốc.
Việc phản đối liệu pháp Millet không chỉ có cơ sở tư tưởng mà còn có sự hỗ trợ thực tiễn. Phương thuốc của Millet là trao quyền tự do cho tư bản, nhưng không thể cho tư bản tự do mà không cho lao động tự do. Ở thời đại Mark, Mark tin rằng nhà nước chỉ là đại diện của tư bản. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội phúc lợi, chính phủ bắt đầu trung lập hóa và phối hợp giữa tư bản và lao động.
Chức năng điều phối này của chính phủ luôn là chìa khóa cho sự ổn định của xã hội phương Tây. Những vấn đề nảy sinh ở phương Tây ngày nay chính là do chức năng này của các chính phủ phương Tây đã bị suy yếu rất nhiều. Đặc biệt thể hiện ở việc các nước phương Tây không thể đạt được công bằng xã hội cơ bản thông qua sự can thiệp của chính phủ. Trinh lịch thu nhập và giàu nghèo quá lớn, xã hội phân hóa quá mức.
Millet đi theo hướng ngược lại, coi sự can thiệp của chính phủ là gốc rẽ các vấn đề của phương Tây. Đây là việc xây dựng một điều không tưởng trong tưởng tượng. Ông đã cố gắng xây dựng một vị thần kinh tế và thuyết phục khán giả của mình rằng thị trường là vạn năng. Phản ứng của dư luận Trung Quốc cho thấy một bộ phận biểu hiện thiếu tư duy độc lập dựa trên thực tiến địa phương và giới học thuật của nước này cần phải có những đánh giá thận trọng.