Home Page
cover of kinhdaibatnha (85)
kinhdaibatnha (85)

kinhdaibatnha (85)

Phuc Tien

0 followers

00:00-42:05

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech
0
Plays
0
Downloads
0
Shares

Audio hosting, extended storage and many more

AI Mastering

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 4, Quyển 85, XXVI Phẩm Học BATNH HẢ 01 Khi ấy, Trời Đế Thích Nghĩ, Tôn Giả Thiện Hiện, Trí Tuệ Thâm Sâu, Chẳng Hoại Giả Danh Mà Nói Pháp Tánh. Phật biết ý nghĩ ông ta liền ấn chứng, như điều mà Kiều Thi Ca đã nghĩ, Cụ Thọ Thiện Hiện Trí Tuệ Thâm Sâu Chẳng Hoại Giả Danh Mà Nói Pháp Tánh. Khi ấy, Trời Đế Thích Liền Bạch Phật, Tôn Giả Thiện Hiện đối với những pháp nào, Chẳng Hoại Giả Danh Mà Nói Pháp Tánh. Phật bảo, Kiều Thi Ca. Sắc chỉ là giả danh, thọ, tưởng, hành, thức chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh, Cụ Thọ Thiện Hiện Chẳng Hoại Giả Danh Sắc V, V, ấy mà nói pháp tánh của Sắc V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của Sắc V, V, là không hoại, không phải không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Nhãn Xứ chỉ là giả danh, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ Thọ Thiện Hiện Chẳng Hoại Giả Danh Nhãn Xứ V, V, ấy mà nói pháp tánh của Nhãn Xứ V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của Nhãn Xứ V, V, là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Sắc Xứ chỉ là giả danh, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ Thọ Thiện Hiện Chẳng Hoại Giả Danh Nhãn Xứ V, V, ấy mà nói pháp tánh của Nhãn Xứ V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của Nhãn Xứ V, V, là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Nhãn giới chỉ là giả danh, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ Thọ Thiện Hiện Chẳng Hoại Giả Danh Nhãn Xứ V, V, ấy mà nói pháp tánh của Nhãn Xứ V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của Nhãn Xứ V, V, là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Nhãn giới chỉ là giả danh, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ Thọ Thiện Hiện Chẳng Hoại Giả Danh Nhãn Xứ V, V, ấy mà nói pháp tánh của Nhãn Xứ V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của Nhãn Xứ V, V, là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Tị giới chỉ là giả danh, hương giới, tị thức giới và tị xúc cùng các thọ do tị xúc làm duyên sanh ra chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ Thọ Thiện Hiện Chẳng Hoại Giả Danh Nhãn Xứ V, V, ấy mà nói pháp tánh của Nhãn Xứ V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của Nhãn Xứ V, V, là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Thiệt giới chỉ là giả danh, hương giới, tị thức giới và tị xúc cùng các thọ do tị xúc làm duyên sanh ra chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ Thọ Thiện Hiện Chẳng Hoại Giả Danh Nhãn Xứ V, V, ấy mà nói pháp tánh của Nhãn Xứ V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của Nhãn Xứ V, V, là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Thân giới chỉ là giả danh, xúc giới, tị thức giới và tị xúc cùng các thọ do tị xúc làm duyên sanh ra chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ Thọ Thiện Hiện Chẳng Hoại Giả Danh Nhãn Xứ V, V, ấy mà nói pháp tánh của Nhãn Xứ V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của Nhãn Xứ V, V, là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Ý giới chỉ là giả danh, pháp giới, tị thức giới và tị xúc cùng các thọ do tị xúc làm duyên sanh ra chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ Thọ Thiện Hiện Chẳng Hoại Giả Danh Nhãn Xứ V, V, ấy mà nói pháp tánh của Nhãn Xứ V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của Nhãn Xứ V, V, là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Ý giới chỉ là giả danh, thủy, hỏa, phong, không, tức giới chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ Thọ Thiện Hiện Chẳng Hoại Giả Danh Nhãn Xứ V, V, ấy mà nói pháp tánh của Nhãn Xứ V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của Nhãn Xứ V, V, là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Thánh đế khổ chỉ là giả danh, thánh đế tập, diệt, đạo chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ Thọ Thiện Hiện Chẳng Hoại Giả Danh Thánh đế khổ V, V, ấy mà nói pháp tánh của Thánh đế khổ V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của Thánh đế khổ V, V, là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Vô minh chỉ là giả danh, hành, thức, danh sắc, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ Thọ Thiện Hiện Chẳng Hoại Giả Danh Vô minh V, V, ấy mà nói pháp tánh của Vô minh V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của Vô minh V, V, là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Cái không nội chỉ là giả danh, cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt tráo, cái không không viên giới, cái không tản mạng, cái không không đổi xác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ thò Thiện Hiện chẳng hoại giả danh cái không nội V, V, ấy mà nói pháp tánh của cái không nội V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của cái không nội V, V là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Cụ thò Thiện Hiện chẳng hoại giả danh cái không nội V, V, ấy mà nói pháp tánh của cái không nội V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của chân như V, V là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Bố thí Ba-la-mật-đa chỉ là giả danh, tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã Ba-la-mật-đa chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ thò Thiện Hiện chẳng hoại giả danh bố thí Ba-la-mật-đa V, V, ấy mà nói pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa V, V là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Bốn tình lự chỉ là giả danh, bốn vô lượng, bốn định vô sắc chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ thò Thiện Hiện chẳng hoại giả danh bốn tình lự V, V, ấy mà nói pháp tánh của bốn tình lự V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của bốn tình lự V, V là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Tám giải thoát chỉ là giả danh, tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ thò Thiện Hiện chẳng hoại giả danh tám giải thoát V, V, ấy mà nói pháp tánh của tám giải thoát V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của tám giải thoát V, V là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Bốn niệm trụ chỉ là giả danh, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ thò Thiện Hiện chẳng hoại giả danh bốn niệm trụ V, V, ấy mà nói pháp tánh của bốn niệm trụ V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của bốn niệm trụ V, V là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Pháp môn giải thoát không chỉ là giả danh, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ thò Thiện Hiện chẳng hoại giả danh của pháp môn giải thoát không V, V, ấy mà nói pháp tánh của pháp môn giải thoát không V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của pháp môn giải thoát không V, V là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Năm loại mắt chỉ là giả danh, sáu phép thần thông chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ thò Thiện Hiện chẳng hoại giả danh của năm loại mắt V, V, ấy mà nói pháp tánh của năm loại mắt V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của năm loại mắt V, V là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Mười lực của Phật chỉ là giả danh, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ thò Thiện Hiện chẳng hoại giả danh của mười lực Phật V, V, ấy mà nói pháp tánh của mười lực Phật V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của mười lực của Phật V, V là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Pháp không quên mất chỉ là giả danh, tánh luôn luôn sả chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ thò Thiện Hiện chẳng hoại giả danh của Pháp không quên mất V, V, ấy mà nói pháp tánh của Pháp không quên mất V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của Pháp không quên mất V, V là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Trí nhất thiết chỉ là giả danh, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ thò Thiện Hiện chẳng hoại giả danh của Trí nhất thiết V, V, ấy mà nói pháp tánh của Trí nhất thiết V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của Trí nhất thiết V, V là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Tất cả pháp môn Đà-la-Ni chỉ là giả danh, tất cả pháp môn Tam-ma-địa chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ thò Thiện Hiện chẳng hoại giả danh của tất cả pháp môn Đà-la-Ni V, V, ấy mà nói pháp tánh của tất cả pháp môn Đà-la-Ni V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của tất cả pháp môn Đà-la-Ni V, V là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Dự lưu chỉ là giả danh, nhất lai, bất hoàng, à-la-hán chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ thò Thiện Hiện chẳng hoại giả danh của dự lưu V, V, ấy mà nói pháp tánh của dự lưu V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của dự lưu V, V là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Dự lưu hướng, dự lưu quả chỉ là giả danh, nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à-la-hán hướng, à-la-hán quả chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ thò Thiện Hiện chẳng hoại giả danh của dự lưu hướng, dự lưu quả V, V, ấy mà nói pháp tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả V, V là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Độc giác chỉ là giả danh, độc giác hướng, độc giác quả chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ thò Thiện Hiện chẳng hoại giả danh của độc giác V, V, ấy mà nói pháp tánh của độc giác V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của độc giác V, V là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Đại Bồ Tát chỉ là giả danh, Tam Miệu Tam Phật Đạ chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ thò Thiện Hiện chẳng hoại giả danh của đại Bồ Tát V, V, ấy mà nói pháp tánh của đại Bồ Tát V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của đại Bồ Tát V, V là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Pháp của đại Bồ Tát chỉ là giả danh, quả vị giác ngộ trao tộc chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ thò Thiện Hiện chẳng hoại giả danh của đại Bồ Tát V, V, ấy mà nói pháp tánh của đại Bồ Tát V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của đại Bồ Tát V, V là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Thanh Văn Thừa chỉ là giả danh, độc giác thừa, vô thượng thừa chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng liệt pháp tánh. Cụ thò Thiện Hiện chẳng hoại giả danh của Thanh Văn Thừa V, V, ấy mà nói pháp tánh của Thanh Văn Thừa V, V. Vì sao? Vì pháp tánh của Thanh Văn Thừa V, V là không hoại, không không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không không hoại. Kiều Thi Ca. Cụ thò Thiện Hiện đối với những pháp ấy chẳng hoại giả danh mà nói pháp tánh. Cụ thò Thiện Hiện nói với đế thích, Kiều Thi Ca. Đúng vậy. Đúng vậy. Như lời Phật dạy, các pháp sở hữu đều là giả danh. Kiều Thi Ca. Đại Bồ Tát biết tất cả pháp là giả danh rồi, nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi sắt, chẳng học nơi thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong sắt có cái để học, chẳng thấy trong thọ, tưởng, hành, thức có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi nhãn sướng, chẳng học nơi nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý sướng. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong nhãn sướng có cái để học, chẳng thấy trong nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý sướng có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi sắt sướng, chẳng học nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp sướng. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong sắt sứ có cái để học, chẳng thấy trong thanh, hương, vị, xúc, pháp sứ có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi nhãn giới, chẳng học nơi sắt giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong nhãn giới có cái để học, chẳng thấy trong sắt giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi nhãn giới, chẳng học nơi thanh giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong nhãn giới có cái để học, chẳng thấy trong thanh giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi tỉ giới, chẳng học nơi hương giới, tỉ thức giới và tỉ xúc cùng các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong tỉ giới có cái để học, chẳng thấy trong hương giới cho đến các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi tiệt giới, chẳng học nơi vị giới, tiệt thức giới và tiệt xúc cùng các thọ do tiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong tiệt giới có cái để học, chẳng thấy trong vị giới cho đến các thọ do tiệt xúc làm duyên sanh ra có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi thân giới, chẳng học nơi xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong thân giới có cái để học, chẳng thấy trong xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi ý giới, chẳng học nơi pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong ý giới có cái để học, chẳng thấy trong pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi địa giới, chẳng học nơi thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong địa giới có cái để học, chẳng thấy trong thủy, hỏa, phong, không, thức giới có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi thánh đế khổ, chẳng học nơi thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong thánh đế khổ có cái để học, chẳng thấy trong thánh đế tập, diệt, đạo có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi vô minh, chẳng học nơi hành, thức, danh sách, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, thủ, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong vô minh có cái để học, chẳng thấy trong hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi cái không nội, chẳng học nơi cái không ngoại, cái không đội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không trốt tráo, cái không không biên giới, cái không tảng mạng, cái không không đội sát, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không tổng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong cái không nội có cái để học, chẳng thấy trong cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi chân như, chẳng học nơi pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghị chỉ là giả. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong chân như có cái để học, chẳng thấy trong pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nghị có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng học nơi tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong bố thí Ba-la-mật-đa có cái để học, chẳng thấy trong tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã Ba-la-mật-đa có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi bốn tịnh lự, chẳng học nơi bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong bốn tịnh lự có cái để học, chẳng thấy trong bốn vô lượng, bốn định vô sắc có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi tám giải thoát, chẳng học nơi tám tháng sướng, chính định thứ đệ, mười điến sướng. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong tám giải thoát có cái để học, chẳng thấy trong tám tháng sướng, chính định thứ đệ, mười điến sứ có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi bốn niệm trụ, chẳng học nơi bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong bốn niệm trụ có cái để học, chẳng thấy trong bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi pháp môn giải thoát không, chẳng học nơi pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong pháp môn giải thoát không có cái để học, chẳng thấy trong pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi năm loại mắt, chẳng học nơi sáu phép thần thông. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong năm loại mắt có cái để học, chẳng thấy trong sáu phép thần thông có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi mười lực của Phật, chẳng học nơi bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại vĩ, đại phả, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong mười lực của Phật có cái để học, chẳng thấy trong bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại vĩ, đại phả, mười tám pháp Phật bất cộng có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi Pháp không quên mất, chẳng học nơi tánh luôn luôn xã. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong Pháp không quên mất có cái để học, chẳng thấy trong tánh luôn luôn xã có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi trí nhất thiết, chẳng học nơi trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong trí nhất thiết có cái để học, chẳng thấy trong trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi tất cả Pháp môn Đà La Nị, chẳng học nơi tất cả Pháp môn Tam Ma Địa. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong tất cả Pháp môn Đà La Nị có cái để học, chẳng thấy trong tất cả Pháp môn Tam Ma Địa có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi dự lưu, chẳng học nơi nhất lai, vất hoàng, à la hẳn. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong dự lưu có cái để học, chẳng thấy trong nhất lai, vất hoàng, à la hẳn có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi dự lưu hướng, dự lưu quả, chẳng học nơi nhất lai hướng, nhất lai quả, vất hoàng hướng, vất hoàng quả, à la hẳn hướng, à la hẳn quả. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong dự lưu hướng, dự lưu quả có cái để học, chẳng thấy trong nhất lai hướng, nhất lai quả, vất hoàng hướng, vất hoàng quả, à la hẳn hướng, à la hẳn quả có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi độc giác, chẳng học nơi độc giác hướng, độc giác quả. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong độc giác có cái để học, chẳng thấy trong độc giác hướng, độc giác quả có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi Đại Bồ Tát, chẳng học nơi Tam Miệu Tam Phật Đà. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong Đại Bồ Tát có cái để học, chẳng thấy trong Tam Miệu Tam Phật Đà có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi Pháp của Đại Bồ Tát, chẳng học nơi quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong Pháp của Đại Bồ Tát có cái để học, chẳng thấy trong quả vị giác ngộ cao tột có cái để học. Kiều Thi Ca. Khi Đại Bồ Tát học như vậy, chẳng học nơi thanh văn thừa, chẳng học nơi độc giác thừa, vô thường thừa. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong thanh văn thừa có cái để học, chẳng thấy trong độc giác thừa, vô thường thừa có cái để học. Khi ấy, trời đế thích hỏi thiền hiện, Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy sắc, chẳng thấy thọ, tưởng, thành, thức. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy nhãn xứ, chẳng thấy nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy sắc xứ, chẳng thấy thanh, hương, vị, xuất, pháp xứ. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy nhãn giới, chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các họ do nhãn xuất làm duyên sanh ra. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy nhĩ giới, chẳng thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xuất cùng các họ do nhĩ xuất làm duyên sanh ra. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy tỉ giới, chẳng thấy hương giới, tỉ thức giới và tỉ xuất cùng các họ do tỉ xuất làm duyên sanh ra. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy thiệt giới, chẳng thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xuất cùng các họ do thiệt xuất làm duyên sanh ra. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy thân giới, chẳng thấy xuất giới, thân thức giới và thân xuất cùng các họ do thân xuất làm duyên sanh ra. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy ý giới, chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và ý xuất cùng các họ do ý xuất làm duyên sanh ra. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy địa giới, chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy thánh đế khổ, chẳng thấy thánh đế tập, diệt, đạo. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy vô minh, chẳng thấy hành, thức, danh sách, luật sứ, xuất, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sâu, thang, khổ, ưu, não. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy cái xong nội, chẳng thấy cái xong ngoại, cái xong nội ngoại, cái xong không, cái xong lớn, cái xong thắng nghĩa, cái xong hữu vi, cái xong vô vi, cái xong trốt tráo, cái xong không biên giới, cái xong tản mạng, cái xong không đội khác, cái xong bản tánh, cái xong tự tướng, cái xong tổng tướng, cái xong tất cả pháp, cái xong chẳng thể nắm bắt được, cái xong không tánh, cái xong tự tánh, cái xong không tánh tự tánh. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy chân như, chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghị. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy bố thí Balamudda, chẳng thấy tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã Balamudda. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy bốn tình lự, chẳng thấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy tám giải thoát, chẳng thấy tám tháng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy bốn niệm trụ, chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy pháp môn giải thoát không, chẳng thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy năm loại mắt, chẳng thấy sáu phép thần thông. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy mười lực của Phật, chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy pháp không quên mất, chẳng thấy tánh luôn luôn xả. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy trí nhất thiết, chẳng thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy dự lưu, chẳng thấy nhất lai, bất hoàng, à-la-hán. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy dự lưu hướng, dự lưu quả, chẳng thấy nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à-la-hán hướng, à-la-hán quả. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy độc giác, chẳng thấy độc giác hướng, độc giác quả. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy tam miều tam phật đa. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy pháp của Đại Bồ Tát, chẳng thấy quả vị giác ngộ cao tột. Bạch Đại Đức. Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát chẳng thấy thanh văn thừa, chẳng thấy độc giác thừa, vô thượng thừa. Thiện Hiện Đáp, Kiều Thi Ca. Vì sắc và tánh của sắc là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy sắc, vì thọ, tưởng, hành, thức và tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức. Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy sắc nên chẳng học nơi sắc, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức nên chẳng học nơi thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì chẳng lẽ cái không của sắc thấy cái không của sắc, chẳng lẽ cái không của thọ, tưởng, hành, thức thấy cái không của thọ, tưởng, hành, thức. Kiều Thi Ca. Vì chẳng lẽ cái không của sắc học ở cái không của sắc, chẳng lẽ cái không của thọ, tưởng, hành, thức học ở cái không của thọ, tưởng, hành, thức. Kiều Thi Ca. Vì nhãn sứ và tánh của nhãn sứ là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy nhãn sứ, vì nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ và tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ. Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy nhãn sứ nên chẳng học ở nhãn sứ, chẳng thấy nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ nên chẳng học ở nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì chẳng lẽ cái không của nhãn sứ thấy cái không của nhãn sứ, chẳng lẽ cái không của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ thấy cái không của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ. Kiều Thi Ca. Vì chẳng lẽ cái không của nhãn sứ học ở cái không của nhãn sứ, chẳng lẽ cái không của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ học cái không của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ. Kiều Thi Ca. Vì sắc sứ và tánh của sắc sứ là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy sắc sứ, vì thanh, hương, vị, súc, pháp sứ và tánh của thanh, hương, vị, súc, pháp sứ là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy thanh, hương, vị, súc, pháp sứ. Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy sắc sứ nên chẳng học ở sắc sứ, chẳng thấy thanh, hương, vị, súc, pháp sứ nên chẳng học ở thanh, hương, vị, súc, pháp sứ. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì chẳng lẽ cái không của sắc sứ thấy cái không của sắc sứ, chẳng lẽ cái không của thanh, hương, vị, súc, pháp sứ thấy cái không của thanh, hương, vị, súc, pháp sứ. Kiều Thi Ca. Vì chẳng lẽ cái không của sắc sứ học ở cái không của sắc sứ, chẳng lẽ cái không của thanh, hương, vị, súc, pháp sứ học cái không của thanh, hương, vị, súc, pháp sứ. Kiều Thi Ca. Vì nhãn giới và tánh của nhãn giới là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy nhãn giới, vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn súc cùng các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra và tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy sắc giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra. Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy nhãn giới nên chẳng học ở nhãn giới, chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn súc cùng các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra nên chẳng học ở sắc giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì chẳng lẽ cái không của nhãn giới thấy cái không của nhãn giới, chẳng lẽ cái không của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn súc cùng các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra thấy cái không của sắc giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra. Kiều Thi Ca. Vì chẳng lẽ cái không của nhãn giới học ở cái không của nhãn giới, vì chẳng lẽ cái không của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn súc cùng các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra học cái không của sắc giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra. Kiều Thi Ca. Vì nhãn giới và tánh của nhãn giới là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy nhãn giới, vì thanh giới, nhãn thức giới và nhãn súc cùng các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra và tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy thanh giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra. Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy nhãn giới nên chẳng học nơi nhãn giới, vì chẳng thấy thanh giới, nhãn thức giới và nhãn súc cùng các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra nên chẳng học nơi thanh giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì chẳng lẽ cái không của nhãn giới thấy cái không của nhãn giới, vì chẳng lẽ cái không của thanh giới, nhãn thức giới và nhãn súc cùng các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra thấy cái không của thanh giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra. Kiều Thi Ca. Vì chẳng lẽ cái không của nhãn giới học ở cái không của nhãn giới, vì chẳng lẽ cái không của thanh giới, nhãn thức giới và nhãn súc cùng các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra học ở cái không của thanh giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra. Kiều Thi Ca. Vì tỉ giới và tánh của tỉ giới là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy tỉ giới, vì hương giới, tỉ thức giới và tỉ súc cùng các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra và tánh của hương giới cho đến các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy hương giới cho đến các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra. Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy tỉ giới nên chẳng học ở tỉ giới, vì chẳng thấy hương giới, tỉ thức giới và tỉ súc cùng các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra nên chẳng học ở hương giới cho đến các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì chẳng lẽ cái không của tỉ giới thấy cái không của tỉ giới, vì chẳng lẽ cái không của hương giới, tỉ thức giới và tỉ súc cùng các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra thấy cái không của hương giới cho đến các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra. Kiều Thi Ca. Vì chẳng lẽ cái không của tỉ giới học ở cái không của tỉ giới, vì chẳng lẽ cái không của hương giới, tỉ thức giới và tỉ súc cùng các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra học ở cái không của hương giới cho đến các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra. Kiều Thi Ca. Vì thiệt giới và tánh của thiệt giới là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy thiệt giới, vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt súc cùng các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra và tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra. Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy thiệt giới nên chẳng học ở thiệt giới, vì chẳng thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt súc cùng các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra nên chẳng học ở vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì chẳng lẽ cái không của thiệt giới thấy cái không của thiệt giới, vì chẳng lẽ cái không của vị giới, thiệt thức giới và thiệt súc cùng các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra thấy cái không của vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra. Kiều Thi Ca. Vì chẳng lẽ cái không của thiệt giới học ở cái không của thiệt giới, vì chẳng lẽ cái không của vị giới, thiệt thức giới và thiệt súc cùng các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra học ở cái không của vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra. Kiều Thi Ca. Vì thân giới và tánh của thân giới là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy thân giới, vì súc giới, thân thức giới và thân súc cùng các thọ do thân súc làm duyên sanh ra và tánh của súc giới cho đến các thọ do thân súc làm duyên sanh ra là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy súc giới cho đến các thọ do thân súc làm duyên sanh ra. Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy thân giới nên chẳng học ở thân giới, vì chẳng thấy súc giới, thân thức giới và thân súc cùng các thọ do thân súc làm duyên sanh ra nên chẳng học ở súc giới cho đến các thọ do thân súc làm duyên sanh ra. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì chẳng lẽ cái không của thân giới thấy cái không của thân giới, vì chẳng lẽ cái không của súc giới, thân thức giới và thân súc cùng các thọ do thân súc làm duyên sanh ra thấy cái không của súc giới cho đến các thọ do thân súc làm duyên sanh ra. Kiều Thi Ca. Vì chẳng lẽ cái không của thân giới học ở cái không của thân giới, vì chẳng lẽ cái không của súc giới, thân thức giới và thân súc cùng các thọ do thân súc làm duyên sanh ra học ở cái không của súc giới cho đến các thọ do thân súc làm duyên sanh ra. Kiều Thi Ca. Vì ý giới và tánh của ý giới là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy ý giới, vì Pháp giới, ý thức giới và ý súc cùng các thọ do ý súc làm duyên sanh ra và tánh của Pháp giới cho đến các thọ do ý súc làm duyên sanh ra là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy Pháp giới cho đến các thọ do ý súc làm duyên sanh ra. Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy ý giới nên chẳng học ở ý giới, vì chẳng thấy Pháp giới, ý thức giới và ý súc cùng các thọ do ý súc làm duyên sanh ra nên chẳng học ở Pháp giới cho đến các thọ do ý súc làm duyên sanh ra. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì chẳng lẽ cái không của ý giới thấy cái không của ý giới, vì chẳng lẽ cái không của Pháp giới, ý thức giới và ý súc cùng các thọ do ý súc làm duyên sanh ra thấy cái không của Pháp giới cho đến các thọ do ý súc làm duyên sanh ra. Kiều Thi Ca. Vì chẳng lẽ cái không của ý giới học ở cái không của ý giới, vì chẳng lẽ cái không của Pháp giới, ý thức giới và ý súc cùng các thọ do ý súc làm duyên sanh ra học ở cái không của Pháp giới cho đến các thọ do ý súc làm duyên sanh ra. Kiều Thi Ca. Vì thức giới và tánh của địa giới là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy địa giới, vì thủy, hỏa, phòng, không, thức giới và tánh của thủy, hỏa, phòng, không, thức giới là không, nên Đại Bồ Tát chẳng thấy thủy, hỏa, phòng, không, thức giới. Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát chẳng thấy địa giới nên chẳng học ở địa giới, vì chẳng thấy thủy, hỏa, phòng, không, thức giới nên chẳng học ở thủy, hỏa, phòng, không, thức giới. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì chẳng lẽ cái không của địa giới thấy cái không của địa giới, vì chẳng lẽ cái không của thủy, hỏa, phòng, không, thức giới thấy cái không của thủy, hỏa, phòng, không, thức giới. Kiều Thi Ca. Vì chẳng lẽ cái không của địa giới học ở cái không của địa giới, vì chẳng lẽ cái không của thủy, hỏa, phòng, không, thức giới học cái không của thủy, hỏa, phòng, không, thức giới. Kiều Thi Ca. Kiều Thi Ca. Kiều Thi Ca. Kiều Thi Ca. Kiều Thi Ca. Kiều Thi Ca. Kiều Thi Ca. Kiều Thi Ca. Kiều Thi Ca. Kiều Thi Ca. Kiều Thi Ca. Kiều Thi Ca. Kiều Thi Ca. Kiều Thi Ca.

Listen Next

Other Creators