Home Page
cover of kinhdaibatnha (591)
kinhdaibatnha (591)

kinhdaibatnha (591)

00:00-35:43

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech
0
Plays
0
Downloads
0
Shares

Transcription

Kinh Đại Bác Nhã Ba La Mật Đa Tập 24 Quyển 591 Hội thứ 15 Phân Tỉnh Lựu B.A.L.A.M.T.D.A.01 Tôi nghe như vậy. Một thuở Đức Bạc Gia Phạm cùng với 1.250 vị Đại Bí Sô Trú trong núi Thứ Phong, tại Thành Vương Xá. Bây giờ, xá lợi tử Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ-Tát muốn chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đệ, làm cách nào để an trụ vào tỉnh lựu Ba La Mật Đa? Phật dạy Xá lợi tử Đại Bồ-Tát nào muốn chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đệ, trước nên vào sơ tỉnh lựu? Ả vào sơ tỉnh lựu như vậy rồi, nên nghĩ như vậy, ta từ sanh tử vô thỷ đến nay luôn luôn nhập tỉnh lựu như thế, làm việc nên làm, thân tâm vắng lặng, nên ta có ơn đối với tỉnh lựu này. Nay lại làm việc nên làm, đây là chỗ nâng tự tất cả công đức. Kế đến nên nhập tỉnh lựu thứ hai. Ả vào tỉnh lựu thứ ba như vậy rồi, nên nghĩ như vậy, ta từ sanh tử vô thỷ đến nay luôn luôn nhập tỉnh lựu như thế, làm việc nên làm, thân tâm vắng lặng, nên ta có ơn đối với tỉnh lựu này. Nay lại làm việc nên làm, đây là chỗ nâng tự tất cả công đức. Kế đến nên nhập tỉnh lựu thứ ba. Ả vào tỉnh lựu thứ ba như vậy rồi, nên nghĩ như vậy, ta từ sanh tử vô thỷ đến nay luôn luôn nhập tỉnh lựu như thế, làm việc nên làm, thân tâm vắng lặng, nên ta có ơn đối với tỉnh lựu này. Nay lại làm việc nên làm, đây là chỗ nâng tự tất cả công đức. Kế đến nên nhập tỉnh lựu thứ tư. Ả vào tỉnh lựu thứ tư như vậy rồi, nên nghĩ như vậy, ta từ sanh tử vô thỷ đến nay luôn luôn nhập tỉnh lựu như thế, làm việc nên làm, thân tâm vắng lặng, nên ta có ơn đối với tỉnh lựu này. Nay lại làm việc nên làm, đây là chỗ nâng tự tất cả công đức. Đã nhập bốn tỉnh lựu như thế rồi, Đại Bồ-Tát lại nên suy nghĩ, bốn tỉnh lựu này đối với chúng Đại Bồ-Tát có ơn đức lớn, và cũng là nơi nâng tự cho chúng Đại Bồ-Tát. Nghĩa là khi sắp đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đệ, chúng Đại Bồ-Tát đều lần lượt nhập bốn tỉnh lựu này. Ả nhập bốn tỉnh lựu như vậy rồi, nương vào tỉnh lựu thứ tư phát ra năm thần thông, chiến thắng ma quân, thành vô thường giác. Đại Bồ-Tát này nghĩ như vậy, xưa kia, chúng Đại Bồ-Tát đều tu tập tỉnh lựu Ba-la-mật-đa, ta cũng nên tu. Xưa kia, chúng Đại Bồ-Tát đều học tỉnh lựu Ba-la-mật-đa, ta cũng nên học. Xưa kia, chúng Đại Bồ-Tát đều nương tỉnh lựu Ba-la-mật-đa, theo ý thích phát ra bác nhã Ba-la-mật-đa, ta cũng nên nương tỉnh lựu Ba-la-mật-đa như thế, theo ý thích phát ra bác nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, này xá lợi tử! Tất cả chúng Đại Bồ-Tát đều nương tỉnh lựu thứ tư, phương tiện hướng đến chánh tánh ly xanh, chiếm ngộ chân như, xả tánh phàm phu. Tất cả chúng Đại Bồ-Tát đều nương vào tỉnh lựu thứ tư, phương tiện phát ra định kim cương dụ, trừ sạch các lậu hoặc, chứng trí như lai. Thế nên phải biết tỉnh lựu thứ tư có ân đức lớn đối với chúng Đại Bồ-Tát, hay làm cho chúng Đại Bồ-Tát ban đầu nhập vào chánh tánh ly xanh, chứng nhập chân như, xả tánh phàm phu, cuối cùng chứng đắc sự mong cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đệ. Do đó, chúng Đại Bồ-Tát luôn nhập vào tỉnh lựu thứ tư. Như vậy, tuy đang nhập bốn tỉnh lựu này nhưng chúng Đại Bồ-Tát không đắm trước vào sự an vui của bốn tỉnh lựu, cho đến những nơi tốt đẹp thù thắng của quả đẳng lương. Lại nữa, này xá lợi tử! Tất cả chúng Đại Bồ-Tát an trụ vào bốn thứ tỉnh lựu như thế, làm phương tiện thù thắng dẫn dắt đến các công đức. Như vậy, chúng Đại Bồ-Tát nương vào tỉnh lựu thứ tư sanh tưởng không vô biên xứ, dẫn đến định không vô biên xứ. Như vậy, chúng Đại Bồ-Tát nương vào định không vô biên xứ, sanh tưởng thức vô biên xứ, dẫn đến định thức vô biên xứ. Như vậy, chúng Đại Bồ-Tát nương vào định thức vô biên xứ, sanh tưởng vô sở hữu xứ, dẫn đến định vô sở hữu xứ. Như vậy, chúng Đại Bồ-Tát nương vào định vô sở hữu xứ, sanh tưởng phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, dẫn đến định phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ. Vì đang nhập bốn định vô sắc nhưng chúng Đại Bồ-Tát không đắm nhiễm vào bốn định vô sắc, cho đến sanh nơi tốt đẹp thù thắng của định này. Xá lợi tử bạch Phật Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ-Tát vì quá nghĩa nào mà hiện nhập định diệt thọ tưởng nhưng lại không nhập? Phật dậy Xá lợi tử Vì các Đại Bồ-Tát sợ rơi vào địa vị thanh văn, độc giác nên không nhập vào định diệt thọ tưởng. Rồi đắm nhiễm vào sự an vui vắng lặng của định này, liền vui mừng chứng nhập quả A-La-Hán hay quả độc giác vào bác Nguyết Bang. Các Đại Bồ-Tát quán sự việc như vậy nên tuy hiện nhập định diệt thọ tưởng nhưng lại không hiện nhập. Xá lợi tử bạch Phật Bạch Thế Tôn Thật hiếm có thay Các Đại Bồ-Tát hay làm việc khó làm, nghĩa là dù đang nhập các định như vậy nhưng không đắm trước vào các định. Dù đang nhập các định hay sanh công dụng thù thắng nhưng lại không li nhiễm. Phật dạy Này xá lợi tử Đúng vậy, đúng như lời Thầy nói. Thật hiếm có Các Đại Bồ-Tát hay làm việc khó làm Lại nữa, này xá lợi tử Thật hiếm có thay Các Đại Bồ-Tát, nghĩa là dù đang nhập vào bốn tỉnh lựu, bốn định vô sắc vắng lặng an vui nhưng lại không đắm trước, cũng không li nhiễm. Này ta nói tóm lượt bằng ví dụ cho Thầy được hiểu trọn vẹn nghĩa này. Như có người sanh ở châu Thiện Bộ này, tuy đối với cõi dục chưa được li nhiễm, nhưng được qua châu Bắc Câu Lô, nhìn thấy người nữ châu kia không bị ràn thuộc, dung mạo đoan chính, dạo chơi tự tại. Lại thấy châu kia y phục và vật trang sức xinh đẹp trang nghiêm đều từ cây sanh ra. Lại thấy châu kia có gạo thơm mùi vị ngon ngọt, không phải trồng trọc mà tự mọc lên. Lại còn thấy châu kia chạm vào chỗ nào cũng có các loại ngọt báu rất xinh đẹp và người ở châu đó tùy ý thọ dụng các vật dụng như thế một cách tự do, khi đang thọ dụng không chút đắm nhiễm, đã thọ dụng rồi liền vứt bỏ mà không luyến tiếc. Người ở châu Thiện Bộ ấy tuy chưa li nhiễm, nhưng khi thấy đầy đủ các sự việc tốt đẹp kia vẫn không tham đắm, mà vứt bỏ quay về. Nên biết người này rất hiếm có. Như vậy, dù đang nhập bốn tỉnh lự, bốn định vô sắc vắng lặng an vui, đã thấy trong ấy phát sanh các công đức thù thắng vắng lặng, vi diệu nhưng các đại Bồ Tát không đắm trước mà còn trở lại cõi dục, dùng phương tiện thiện xảo nương thân cõi dục, xiên năng tinh tấn tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lự, bác nhã ba la mật đa. Xiên năng tinh tấn tu học quán Pháp nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, táng không, vô biến dị không, bản tính không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết Pháp không, bất xạ đắc không, vô tính không, tự tính không, vô tính tự tính không. Xiên năng tinh tấn tu học quán các Pháp chân như Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, Pháp định, Pháp trụ, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nhi. Xiên năng tinh tấn tu học quán vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sách, danh sách duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử. Xiên năng tinh tấn tu học quán thánh đế khổ, hoặc khổ, hoặc vô thường, hoặc không, hoặc vô ngã. Xiên năng tinh tấn tu học quán thánh đế tập, hoặc nhân, hoặc tập, hoặc sanh, hoặc duyên. Xiên năng tinh tấn tu học quán thánh đế diệt, hoặc diệt, hoặc tịnh, hoặc diệu, hoặc ly. Xiên năng tinh tấn tu học quán thánh đế đạo, hoặc đạo, hoặc như, hoặc hành, hoặc xuất. Xiên năng tinh tấn tu học quán bốn vô lượng, từ, vi, thỉ, xã. Xiên năng tinh tấn tu học bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Xiên năng tinh tấn tu học tám giải thoát, tám thắng xứ, chính định thứ lớp, mười biến xứ. Xiên năng tinh tấn tu học pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Xiên năng tinh tấn tu học trí tịnh quán địa, trũng tánh địa, tệ bác địa, cụ kiến địa, bạc địa, ly dục địa, dĩ điện địa, độc giác địa, bồ tác địa, như lai địa. Xiên năng tinh tấn tu học cực khỉ địa, ly cấu địa, pháp quan địa, diện tuệ địa, cực ngang thắng địa, hiện tiên địa, viễn hành địa, bất động địa, thiện tuệ địa, pháp vân địa. Xiên năng tinh tấn tu học pháp môn Đà-La-Ni, pháp môn Tam-Ma địa. Xiên năng tinh tấn tu học năm loại mắt, sáu phép thần thông. Xiên năng tinh tấn tu học mười lực như lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt. Xiên năng tinh tấn tu học đại tử, đại vi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp vật bất cộng. Xiên năng tinh tấn tu học ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp. Xiên năng tinh tấn tu học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã. Xiên năng tinh tấn tu học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Xiên năng tinh tấn tu học các trí thiện xảo phân biệt quả dự lưu, nhất lai, bất hoàng, à-la-háng, độc giác bồ đề. Xiên năng tinh tấn tu học tất cả hành đại bồ tát. Xiên năng tinh tấn tu học quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật, cũng khuyên hữu tình tu các pháp lành. Những việc như thế rất là hiếm có. Bây giờ, xá lợi tử bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Vì lý do gì như lai ứng chánh đẳng giác hứa cho các đại bồ tát bỏ bật thắng định vắng lặng an vui, trở lại thọ thân hèn kén cỏ dục. Phật bảo xá lợi tử. Này xá lợi tử! Pháp của chư Phật là vậy, không cho chúng đại bồ tát sanh trời trường thọ. Vì sao? Này xá lợi tử! Không cho chúng đại bồ tát sanh trời trường thọ, vì ở đó họ xa liệt việc tu hành bố thí, tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lự, bác nhã ba la mật đa và vô biên các pháp phần bồ đề khác. Do đây, chậm chính quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề đã mong cầu. Cho nên, như lai ứng chánh đẳng giác hứa cho chúng đại bồ tát bỏ bật thắng định vắng lặng an vui, trở lại thọ thân hèn kén cỏ dục mà không cho chúng đại bồ tát sanh trời trường thọ bỏ mất bản nguyện. Xá lợi tử bạch Phật Bạch Thế Tôn Các đại bồ tát rất là hiếm có hay làm được việc khó làm, nghĩa là bỏ thắng định vắng lặng an vui, trở lại thọ thân hèn kén ô quế. Vĩ như có người chưa lì dục nhịn, trông thấy người nữ quý phái ở trong trường vắng, có hình dáng đoan trăng xinh đẹp rất đáng yêu, mặc dù xem thấy đầy đủ các dáng dấp trên thân thể nhưng điều phục được tâm nên chẳng hành động buông lung. Về sau ở nơi khác trông thấy người nữ, hình dáng xấu xí, dơ giấy hèn hạ, lại sanh tham ái, liền hành động buông lung. Như vậy, chúng đại bồ tát tuy thường an trụ bốn thứ tĩnh lự và bốn định vô sắc vắng lặng màu nhìm, nhưng có thể vứt bỏ tất cả để trở lại thọ thân hèn kén đủ thứ tạp quế cỏ dục, nên nói rất hiếm có, làm được việc khó làm. Phật dạy Này xá lợi tử Đúng vậy, chúng đại bồ tát bỏ thắng địa, thọ thân cỏ dục, nên biết đó là phương tiện thiện xảo. Vì sao? Này xá lợi tử Vì chúng đại bồ tát này cần cầu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, xã thân thắng địa trở lại sanh cỏ dục, phát sanh ý tốt, phương tiện thiện xảo, dù quán tánh xác quẩn thường, vô thường đều bất khả đắc và quán tánh thọ, tưởng, hành, thức quẩn thường, vô thường cũng đều bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh xác quẩn vui, không vui đều bất khả đắc và quán tánh thọ, tưởng, hành, thức quẩn vui, không vui cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh xác quẩn ngã, vô ngã đều bất khả đắc và quán tánh thọ, tưởng, hành, thức quẩn ngã, vô ngã cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh xác quẩn tỉnh, bất tỉnh đều bất khả đắc và quán tánh thọ, tưởng, hành, thức quẩn tỉnh, bất tỉnh cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh xác quẩn không, bất không đều bất khả đắc và quán tánh thọ, tưởng, hành, thức quẩn không, bất không cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh xác quẩn tướng, vô tướng đều bất khả đắc và quán tánh thọ, tưởng, hành, thức quẩn tướng, vô tướng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh xác quẩn nguyện, vô nguyện đều bất khả đắc và quán tánh thọ, tưởng, hành, thức quẩn nguyện, vô nguyện cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh xác quẩn viễn ly, không viễn ly đều bất khả đắc và quán tánh thọ, tưởng, hành, thức quẩn viễn ly, không viễn ly cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh xác quẩn vắng lặn, không vắng lặn đều bất khả đắc và quán tánh thọ, tưởng, hành, thức quẩn vắng lặn, không vắng lặn cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn xứ thường, vô thường đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ thường, vô thường cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn xứ vui, không vui đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ vui, không vui cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn xứ ngã, vô ngã đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ ngã, vô ngã cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn xứ tịnh, bất tịnh đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ tịnh, bất tịnh cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn xứ không, bất không đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ không, bất không cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn xứ tướng, vô tướng đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ tướng, vô tướng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn xứ nguyện, vô nguyện đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ nguyện, vô nguyện cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn xứ vắng lặng, không vắng lặng đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ vắng lặng, không vắng lặng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh xác xứ thường, vô thường đều bất khả đắc và quán tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thường, vô thường cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh xác xứ vui, không vui đều bất khả đắc và quán tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vui, không vui cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh xác xứ ngã, vô ngã đều bất khả đắc và quán tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ ngã, vô ngã cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh xác xứ tỉnh, bất tỉnh đều bất khả đắc và quán tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tỉnh, bất tỉnh cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh xác xứ không, bất không đều bất khả đắc và quán tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không, bất không cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh xác xứ tướng, vô tướng đều bất khả đắc và quán tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tướng, vô tướng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh xác xứ nguyện, vô nguyện đều bất khả đắc và quán tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ nguyện, vô nguyện cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh xác xứ viện ly, không viện ly đều bất khả đắc và quán tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ viện ly, không viện ly cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh xác xứ vắng lặng, không vắng lặng đều bất khả đắc và quán tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vắng lặng, không vắng lặng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn giới thường, vô thường đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý giới thường, vô thường cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn giới vui, không vui đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý giới vui, không vui cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn giới ngã, vô ngã đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý giới ngã, vô ngã cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn giới tịnh, bất tịnh đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý giới tịnh, bất tịnh cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn giới không, bất không đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý giới không, bất không cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn giới tướng, vô tướng đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý giới tướng, vô tướng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn giới nguyện, vô nguyện đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý giới nguyện, vô nguyện cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn giới viện ly, không viện ly đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý giới viện ly, không viện ly cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn giới vắng lặng, không vắng lặng đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý giới vắng lặng, không vắng lặng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh sát giới thường, vô thường đều bất khả đắc và quán tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thường, vô thường cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh sát giới vui, không vui đều bất khả đắc và quán tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vui, không vui cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh sát giới ngã, vô ngã đều bất khả đắc và quán tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp giới ngã, vô ngã cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh sát giới tỉnh, bất tỉnh đều bất khả đắc và quán tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp giới tỉnh, bất tỉnh cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh sát giới không, bất không đều bất khả đắc và quán tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không, bất không cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh sát giới tướng, vô tướng đều bất khả đắc và quán tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp giới tướng, vô tướng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh sát giới nguyện, vô nguyện đều bất khả đắc và quán tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp giới nguyện, vô nguyện cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh sát giới viện ly, không viện ly đều bất khả đắc và quán tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp giới viện ly, không viện ly cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh sát giới vắng lặng, không vắng lặng đều bất khả đắc và quán tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vắng lặng, không vắng lặng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn thức giới thường, vô thường đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới thường, vô thường cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn thức giới vui, không vui đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới vui, không vui cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn thức giới ngã, vô ngã đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới ngã, vô ngã cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn thức giới tình, bất tình đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới tình, bất tình cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn thức giới không, bất không đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới không, bất không cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn thức giới tướng, vô tướng đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới tướng, vô tướng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn thức giới nguyện, vô nguyện đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới nguyện, vô nguyện cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn thức giới viễn ly, không viễn ly đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới viễn ly, không viễn ly cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn thức giới vắng lặng, không vắng lặng đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới vắng lặng, không vắng lặng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn xuất thường, vô thường đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất thường, vô thường cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn xuất vui, không vui đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất vui, không vui cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn xuất ngã, vô ngã đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất ngã, vô ngã cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn xuất tịnh, bất tịnh đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất tịnh, bất tịnh cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn xuất không, bất không đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất không, bất không cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn xuất tướng, vô tướng đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất tướng, vô tướng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn xuất nguyện, vô nguyện đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất nguyện, vô nguyện cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn xuất viễn ly, không viễn ly đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất viễn ly, không viễn ly cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhãn xuất vắng lặng, không vắng lặng đều bất khả đắc và quán tánh nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất vắng lặng, không vắng lặng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra thường, vô thường đều bất khả đắc và quán tánh các thọ do nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất làm duyên sanh ra thường, vô thường cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra vui, không vui đều bất khả đắc và quán tánh các thọ do nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất làm duyên sanh ra vui, không vui cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra ngã, vô ngã đều bất khả đắc và quán tánh các thọ do nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất làm duyên sanh ra ngã, vô ngã cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra tịnh, bất tịnh đều bất khả đắc và quán tánh các thọ do nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất làm duyên sanh ra cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra không, bất không đều bất khả đắc và quán tánh các thọ do nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất làm duyên sanh ra không, bất không cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra tướng, vô tướng đều bất khả đắc và quán tánh các thọ do nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất làm duyên sanh ra tướng, vô tướng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra nguyện, vô nguyện đều bất khả đắc và quán tánh các thọ do nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất làm duyên sanh ra nguyện, vô nguyện cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra viễn ly, không viễn ly đều bất khả đắc và quán tánh các thọ do nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất làm duyên sanh ra viễn ly, không viễn ly cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra vắng lặng, không vắng lặng đều bất khả đắc và quán tánh các thọ do nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất làm duyên sanh ra vắng lặng, không vắng lặng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh địa giới thường, vô thường đều bất khả đắc và quán tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới thường, vô thường cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh địa giới vui, không vui đều bất khả đắc và quán tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới vui, không vui cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh địa giới ngã, vô ngã đều bất khả đắc và quán tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới ngã, vô ngã cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh địa giới tỉnh, bất tỉnh đều bất khả đắc và quán tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới tỉnh, bất tỉnh cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh địa giới không, bất không đều bất khả đắc và quán tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới không, bất không cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh địa giới tướng, vô tướng đều bất khả đắc và quán tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới tướng, vô tướng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh địa giới nguyện, vô nguyện đều bất khả đắc và quán tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới nguyện, vô nguyện cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh địa giới viễn ly, không viễn ly đều bất khả đắc và quán tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới viễn ly, không viễn ly cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh địa giới vắng lặng, không vắng lặng đều bất khả đắc và quán tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới vắng lặng, không vắng lặng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhân duyên thường, vô thường đều bất khả đắc và quán tánh đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và pháp từ duyên sanh ra thường, vô thường cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhân duyên vui, không vui đều bất khả đắc và quán tánh đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và pháp từ duyên sanh ra vui, không vui cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhân duyên ngã, vô ngã đều bất khả đắc và quán tánh đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và pháp từ duyên sanh ra ngã, vô ngã cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhân duyên tịnh, bất tịnh đều bất khả đắc và quán tánh đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và pháp từ duyên sanh ra tịnh, bất tịnh cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhân duyên không, bất không đều bất khả đắc và quán tánh đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và pháp từ duyên sanh ra không, bất không cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhân duyên tướng, vô tướng đều bất khả đắc và quán tánh đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và pháp từ duyên sanh ra tướng, vô tướng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhân duyên nguyện, vô nguyện đều bất khả đắc và quán tánh đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và pháp từ duyên sanh ra nguyện, vô nguyện cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhân duyên viễn ly, không viễn ly đều bất khả đắc và quán tánh đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và pháp từ duyên sanh ra viễn ly, không viễn ly cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Dù quán tánh nhân duyên vắng lặng, không vắng lặng đều bất khả đắc và quán tánh đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và pháp từ duyên sanh ra vắng lặng, không vắng lặng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ trí nhất thiết trí. Bây giờ, mãnh từ tử hỏi xá lợi tử. Thưa Tôn Giả, vì lý do gì như Lai ứng chánh đẳng giác cho chúng Đại Bồ-Tát nhập bốn tỉnh lựu, bốn định vô sắc mà không cho chúng Đại Bồ-Tát ở lâu trong ấy tâm sanh nhiễm trước? Xá lợi tử đáp. Thưa Tôn Giả, không cho chúng Đại Bồ-Tát sanh tâm nhiễm trước đối với bốn tỉnh lựu, bốn định vô sắc và sanh trời trường thọ, cho đến như Lai ứng chánh đẳng giác không cho chúng Đại Bồ-Tát sanh tâm nhiễm trước bốn tỉnh lựu, bốn định vô sắc và ở lâu trong ấy. Vì sao? Mãnh từ tử. Vì nếu sanh cõi dục thì mau được viên mãnh trí nhất thiết trí, còn sanh cõi sắc, vô sắc không có công dụng đây. Mãnh từ tử liền thư xá lợi tử. Thưa Tôn Giả, chúng Bồ-Tát rất là hiếm có làm được việc khó làm. Nghĩa là các Bồ-Tát trụ thắng định rồi, trở lại xả bỏ để thọ pháp thấp kém. Ví như có người gặp kho tàn được trông giấu, tay nắm ngọc báo lại vứt bỏ đi. Về sau, lúc thấy vỏ sò, người kia liền lượng lấy đen vào nhà. Cũng vậy, chúng Đại Bồ-Tát nhập bốn tỉnh lựu, bốn định vô sắc vắng lặng an vui, tùy ý dạo đi hay dừng nghỉ, sau vứt bỏ đi, trở lại sanh cõi dục, tiếp nhận mọi thứ thấp kém của thân tâm, rồi nương vào đó để tu hành bố thí, tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lựu, bác nhã ba la mật đa và vô biên các pháp phần bồ đề. Thấy được sự việc này, nên Đức Phật cho chúng Đại Bồ-Tát sanh trời trường thọ, có thời gian lâu dài tu hành bố thí, tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lựu, bác nhã ba la mật đa và vô biên các pháp phần bồ đề, do đây mau được trí nhất thiết trí. Mãng từ tử bạch Phật Bạch Thế Tôn Còn thưa với Thế Tôn như thế, hãi chẳng làm sáng tỏ được Phật là Bật thật ngữ, là Bật pháp ngữ, là Bật có khả năng đang nói pháp tùy pháp sao? Phật dạy mãng từ tử Này mãng từ tử Này đối với ta, ông nói lời như vậy thì chẳng phải đã làm sáng tỏ như lai là Bật thật ngữ, là Bật pháp ngữ, là Bật có khả năng đang nói pháp tùy pháp. Vì sao? Này mãng từ tử Vì nếu các Bồ-Tát sanh cõi trời trường thọ, thì không thể tu hành công đức như thế được, không thể mau được trí nhất thiết trí. Lại nữa, mãng từ tử Nếu các Bồ-Tát nhập bốn tỉnh lựu, bốn định vô sắc vắng lặng an vui, thì các Bồ-Tát này không có ý nghĩa như vậy, do định này ta sanh cõi sắc, vô sắc. Cũng chẳng suy gẫm do tỉnh lựu và định vô sắc ta vượt khỏi sắc, vô sắc. Các Bồ-Tát nhập bốn tỉnh lựu, bốn định vô sắc vắng lặng an vui, chỉ muốn phát khởi thần thông tự tại, làm nhiều lợi ích cho các hữu tình, cũng muốn điều phục thân tâm nặng mệ, thô kệt để có thể tu đạt các công đức. Chúng đại Bồ-Tát này nhập các thắng định vắng lặng an vui, dùng phương tiện thiện xảo thọ thân cõi dục, đối với các thắng định cũng không lui mất. Vì vậy, chúng đại Bồ-Tát chẳng vượt ba cõi và cũng chẳng nhiễm trước, dùng phương tiện thiện xảo thọ thân cõi dục, làm lợi ích cho hữu tình, gần gũi chiêu Phật, màu chứng đắc trí nhất thiết trí. Khi ấy, mãng từ tử lại bạch Phật. Bạch Thế Tôn Chẳng lẽ trí nhất thiết trí của Như Lai ứng chánh đẳng giác đã vượt khỏi ba cõi? Phật dạy Này mãng từ tử Đúng vậy. Như lời ông nói, Như Lai đã được trí nhất thiết trí vượt khỏi ba cõi, không còn lệ thuộc ba cõi đó. Tất cả Như Lai ứng chánh đẳng giác không cho chúng đại Bồ-Tát an trụ tỉnh lựu Ba-la-mật-đa ra khỏi pháp ba cõi hoàn toàn. Mãng từ tử bạch Phật Bạch Thế Tôn Tất cả Như Lai ứng chánh đẳng giác quán nghĩa nào mà cho chúng đại Bồ-Tát cầu chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đệ an trụ vào tỉnh lựu Ba-la-mật-đa và chẳng cho chúng đại Bồ-Tát ra khỏi pháp ba cõi hoàn toàn. Phật dạy mãng từ tử Này mãng từ tử Nếu đại Bồ-Tát cầu chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đệ an trụ tỉnh lựu Ba-la-mật-đa, nếu Như Lai hứa cho vượt khỏi ba cõi, thì họ liền thối lui thể nguyện Bồ-Tát mà an trụ địa vị thanh văn hay độc giác. Tất cả Như Lai ứng chánh đẳng giác thấy sự việc như thế nên hứa cho chúng đại Bồ-Tát cầu chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đệ an trụ vào tỉnh lựu Ba-la-mật-đa mà không cho chúng đại Bồ-Tát ra khỏi pháp ba cõi hoàn toàn, không bỏ mất bản nguyện của Bồ-Tát để lui trụ địa vị thanh văn hay độc giác. Lại nữa, mãng từ tử Nếu khi chúng đại Bồ-Tát ngồi tòa Bồ-đệ các hành viên mãng, thì lúc bấy giờ chúng đại Bồ-Tát mới nên rốt tráo bỏ pháp ba cõi. Do đó chứng đắc trí nhất thiết trí. Vì vậy, nên ta nói trí nhất thiết trí vượt khỏi ba cõi, không còn lệ thuộc ba cõi. Này mãng từ tử Nếu đại Bồ-Tát tùy chỗ sanh mà bố thí, tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lựu, bác nhã Ba-la-mật-đa và vô biên các pháp phận Bồ-đệ khác, và quan sát lý thú sâu xa, pháp nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến gì không, bản tính không, tử tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tính không, tử tính không, vô tính không, tử tướng không, tử tướng không, vô tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính không, tử tính

Listen Next

Other Creators