Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
In this transcription, it is mentioned that the Great Bodhisattvas should cultivate a pure and tranquil Buddhist realm. They should not have any negative thoughts or desires, and should not be attached to worldly matters. They should only listen to the sound of the Dharma and strive for enlightenment. The transcription also discusses how the Great Bodhisattvas teach and benefit sentient beings, and emphasizes the importance of practicing virtuous actions. Overall, the transcription highlights the dedication and commitment of the Great Bodhisattvas to the Buddhist path. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 22, Quyển 536, ít ít ít Phẩm Phật Quốc 02. Lại nữa, này thiện hiện! Chúng Đại Bồ Tát nên tu trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật như thế, nghĩa là trong quốc độ ấy thường không nghe có ba đường ác, cũng không nghe có các xu hướng ác kiến, không nghe có ba độc tham, sân, si, không nghe có hình tướng nam nữ, không nghe có thanh văn, độc giác, không nghe có vô thường, khổ v.v., các việc không được như ý, không nghe có giữ định đồ vật, không nghe chấp có ngã và ngã sở, không nghe có sự tùy miên, đàn buộc, không nghe có sự chấp trước điên đảo và cũng không nghe có quả vị, và sự hoạt động khác nhau của loài hữu tình. Chỉ nghe tiếng nói không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tánh v.v. Nghĩa là tùy theo ý muốn khác nhau của hữu tình, cũng như cây trong trường khi có gió nhẹ thì các vật trong ngoài đều khu động với nhau, phát sanh các thứ âm thanh vi diệu. Trong âm thanh phát ra tất cả pháp âm đều vô tự tánh. Vì vô tự tánh cho nên không. Vì không nên vô tướng. Vì vô tướng nên vô nguyện. Vì vô nguyện nên vô sanh. Vì vô sanh nên vô diệt. Do vậy các pháp bản tánh vắng lặng, tự tánh niết bàn. Dù như lại có tra đời hay không tra đời thì pháp tánh, pháp nghĩ, các pháp vẫn thường trụ, nghĩa là tất cả pháp vô tánh đều không. Các loài hữu tình trong cõi Phật kia, dù là ngày hay đêm, lúc đi đứng, lúc nằm ngồi vẫn thường nghe âm thanh vi diệu như vậy. Thiện hiện nên biết. Chúng đại Bồ Tát này đều trụ vào cõi Phật nghiêm tình đang ở khi chính đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, chứ như lại ứng chánh đẳng giác khắp mười phương đều đồng khen nợ danh hiệu của tình vị Phật kia. Các hữu tình nào được nghe danh hiệu của các vị Phật ấy thì đối với quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ không hề thối chuyển. Chúng đại Bồ Tát này đều trụ vào cõi Phật nghiêm tình đang ở khi chính đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ vì các hữu tình mà giảng thuyết chánh pháp. Các hữu tình nghe rồi nhất định không còn sanh nghi ngờ là pháp hay phi pháp. Vì sao? Vì các loài hữu tình kia đạt được tất cả pháp, đều tức là chân như pháp giới, pháp tánh, tất cả là pháp, không phải phi pháp. Như vậy, này thiện hiện! Chúng đại Bồ Tát này đều có thể nghiêm tình được cõi Phật như vậy. Lại nữa, này thiện hiện! Chúng đại Bồ Tát này giáo hóa hữu tình chưa đủ các thiện căng, chưa trồng nhiều thiện căng đối với chư Phật, Bồ Tát, độc giác và thanh văn, nên bị ác tri thức khuyến dụ. Vì xa lì bạn là nên không nghe chánh pháp, thường bị các kiến chấp về ngã, hữu tình và bị thu nhiếp trong các kiến thú, rơi vào nhị biên là đoạn và thương. Các loài hữu tình ấy tự mình phát sanh tạ chấp, cũng thường dạy người khác phát sanh tạ chấp. Đối với chẳng phải tam bảo mà tưởng là tam bảo, đối với tam bảo cho là không tam bảo. Phỉ bán chánh pháp, khen ngợi tạ pháp. Do nhân duyên này, sau khi qua đời đọa vào ba đường ác, chịu nhiều sự khổ. Chúng đại Bồ Tát này an trụ vào thế giới của mình, chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, thấy các hữu tình luôn hồi trong vòng sanh tử, chịu vô lượng sự khổ, nên dùng sức thần thông phương tiện giáo hóa làm cho chúng xả bỏ tà kiến, trụ trong chánh kiến, ra khỏi ác thú, sanh vào nhân đạo. Lại dùng các thứ thần thông phương tiện giáo hóa làm cho chúng an trụ trong chánh định, hoàn toàn không bị đọa vào các đường ác, tu tập căng lành thù thắng, sau khi qua đời được sanh vào cõi Phật nghiêm tịnh, hưởng thọ Pháp lạc đại thừa nơi cõi tình. Như vậy, này thiện hiện! Chúng đại Bồ Tát này đều có thể nghiêm tịnh được cõi Phật như vậy. Nhờ chỗ ở được nghiêm tịnh nên các loài hữu tình kia đối với tất cả Pháp không sanh hư vọng phân biệt, nghi ngờ, nói đây là Pháp thiện, đây là Pháp phi thiện, đây là Pháp hữu ký, đây là Pháp vô ký, đây là Pháp thế gian, đây là Pháp xuất thế gian, đây là Pháp hữu lậu, đây là Pháp vô lậu, đây là Pháp hữu vi, đây là Pháp vô vi v.v. Các sự phân biệt, nghi ngờ như vậy hoàn toàn không sanh. Do nhân duyên này, loài hữu tình kia nhất định chứng được quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, chuyển Pháp luôn vi dịu, đổ thoát các hữu tình. Thiện hiện nên biết! Đây là tướng công đức nghiêm tịnh cõi Phật, đại Bồ Tát làm lợi ít an vui cho tất cả hữu tình. xxxy phẩm tuyên hóa 01 Bây giờ, cụ thọ thiện hiện bạch Phật. Bạch Thế Tôn Đại Bồ Tát này an trụ trong nhóm định hay bất định. Phật dạy Này thiện hiện! Đại Bồ Tát này đều trụ vào nhóm định. Cụ thọ thiện hiện bạch Phật. Bạch Thế Tôn Đại Bồ Tát này trụ vào nhóm định nào. Thanh văn thừa, độc giác thừa hay vô thường thừa. Phật dạy Này thiện hiện! Đại Bồ Tát này trụ vào vô thường thừa. Cụ thọ thiện hiện bạch Phật. Bạch Thế Tôn Lúc nào Đại Bồ Tát này mới gọi là trụ vào nhóm định, trụ sơ phát tâm, môi vị bất thối hay thân cuối cùng? Phật dạy Này thiện hiện! Đại Bồ Tát này lúc mới phát tâm, hoặc là ở môi vị bất thối hay thân cuối cùng đều trụ vào nhóm định. Cụ thọ thiện hiện bạch Phật. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát trụ vào nhóm định này có bị đòa vào đường ác không? Phật dạy Này thiện hiện! Nếu Đại Bồ Tát trụ vào nhóm định này thì nhất định không đòa vào đường ác. Lại bảo thiện hiện! Ý ông thế nào? Người nhập Đệ Bác, Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàng, A-La-Hán, Độc Giác có bị đòa vào đường ác không? Thiện hiện bạch Phật. Bạch Thế Tôn Không đòa. Phật dạy Này thiện hiện! Các Đại Bồ Tát cũng lại như vậy. Từ lúc mới phát tâm tu hành bố thí cho đến bác nhã ba-la-mật-đa và vô lượng, vô biên các Phật Pháp khác, đoạn tận tất cả Pháp ác bất thiện. Do nhân duyên này không thể đòa vào các đường ác, không thể sanh vào cõi trời trường thọ, vì các chỗ ấy các thiện Pháp thù thắng không hiện hành. Nếu Đại Bồ Tát này sanh vào nơi biên địa hạ tiện, không có tính căng thì không có sự việc ấy. Vì ở nơi ấy không thể tu hành thiện Pháp thù thắng, phần nhiều phát sanh ác kiến, không tin nhân quả, ưa tạo các nghiệp nhơ xấu, không nghe tam bảo, không có bốn chúng. Đại Bồ Tát này cũng không sanh vào nhà tạ kiến, vì sanh vào nơi ấy thường bị chấp trước các xu hướng ác kiến, hành ác hành, bác bỏ dự hành và quả báo, chẳng tu điều thiện, ưa làm các điều ác, nên các Đại Bồ Tát không sanh vào nhà ấy. Lại nữa, này thiện hiện! Các Đại Bồ Tát lúc mới phát tâm quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, đềm ý là thù thắng thọ hành mười điều nghiệp đạo bất thiện, cũng không có sự việc ấy. Cụ thọ thiện hiện bạch Phật. Bạch Thế Tôn Đại Bồ Tát này từ lúc mới phát tâm, thành tựu công đức thiện căng như vậy, không sanh vào chỗ ác thì tại sao Thế Tôn mỗi khi vì chúng thuyết về bổn sanh của mình, có rất nhiều cả trăm ngàn thứ, trong ấy cũng có sanh vào chỗ ác, lúc đó thiện căng trụ vào chỗ nào? Phật dạy! Này thiện hiện! Các Đại Bồ Tát không vì nghiệp xấu mà thọ thân chỗ ác, chỉ vì lợi ích an vui các loài hữu tình, do bổn nguyện mà thọ thân này. Vì vậy không nên cho đó là nạn. Lại bảo thiện hiện! Ý ông thế nào? Các độc giác, hoặc A-la-hán dùng phương tiện thiện xảo thù thắng như các chúng Đại Bồ Tát thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, thọ thân bằng sanh, khi ấy có thợ sanh muốn đến làm hại, Bồ Tát liền sanh tâm từ bi an nhẫn vô thường, muốn làm cho người kia được lợi ích an vui nên tự xả thân mạng và không làm hại người khác, phải không? Thiện hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Các độc giác không làm như vậy. Phật dạy! Này thiện hiện! Do nhân duyên này, nên biết Bồ Tát vì muốn lợi ích an vui các hữu tình, vì lòng đại từ bi mau viên mãng, vì muốn chính đắc Đại Bồ Đề, nên tuy chịu thọ thân bằng sanh nhưng không do tội lỗi bằng sanh làm ô nhiễm. Cụ thọ thiện hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát trụ vào thiện căn nào, vì muốn làm lợi ích an vui cho hữu tình nên thọ thân nơi cảnh giới ác. Phật dạy! Này thiện hiện! Không có thiện căn nào của chúng Đại Bồ Tát là không viên mãng. Nhưng vì chúng Đại Bồ Tát chính đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề nên phải viên mãng tất cả thiện căn. Nghĩa là chúng Đại Bồ Tát từ khi mới phát tâm cho đến khi an tọa nơi tòa dự Bồ Đề, không có thiện căn nào là không viên mãng, do viên mãng hoàn toàn tất cả thiện pháp mới chính quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Nếu còn một thiện pháp nào chưa viên mãng mà chính được quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề thì không có việc ấy. Vì vậy, này thiện hiện! Các Đại Bồ Tát từ khi mới phát tâm cho đến khi an tọa nơi tòa dự Bồ Đề. Trong thời gian ấy thường tu học đầy đủ tất cả thiện pháp. Học rồi, phải đầy đủ trí nhất thiết tướng, đoạn trừ vĩnh viễn sự tương tục của tập khí mới có thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Bây giờ, thiện hiện Bạch Phật! Bạch Thế Tôn! Tại sao các Đại Bồ Tát thực hành các pháp thánh vô lậu bạch tịnh mà còn sanh vào đường ác, còn thọ thân bằng sanh? Phật dạy! Này thiện hiện! Ý ông thế nào? Như lai có thành tựu tất cả pháp thánh vô lậu bạch tịnh không? Thiện hiện Bạch Phật! Bạch Thế Tôn! Như lai thành tựu tất cả pháp thánh vô lậu bạch tịnh? Phật dạy! Này thiện hiện! Ý ông thế nào? Như lai hóa sanh vào cảnh giới ác, thọ thân bằng sanh vì lợi ích an vui cho hữu tình có phải là làm việc Phật sự không? Thiện hiện Bạch Phật! Bạch Thế Tôn! Như lai hóa sanh vào cảnh giới ác, thọ thân bằng sanh vì lợi ích an vui cho hữu tình là làm việc Phật sự? Phật dạy! Này thiện hiện! Ý ông thế nào? Khi như lai hóa làm thân bằng sanh là thật loài bằng sanh chịu khổ không? Thiện hiện Bạch Phật! Bạch Thế Tôn! Khi như lai hóa làm thân bằng sanh chẳng thật bằng sanh chẳng chịu khổ? Phật dạy! Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát cũng lại như vậy. Tuy thành tựu tất cả các Pháp thánh vô lậu bạch tịnh nhưng vì thành thuộc các loài hữu tình, vì lòng biên nguyện thọ thân bằng sanh nên phải thành thuộc các loài hữu tình. Lại nữa, này thiện hiện! Ý ông thế nào? Vật à la hán đoạn trừ các lậu có thể hóa làm thân người, tạo ra các sự nghiệp, đem sự nghiệp ấy làm cho người khác an vui không? Thiện hiện Bạch Phật! Bạch Thế Tôn! Vật à la hán đoạn trừ các lậu làm cho người khác an vui? Phật dạy! Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát cũng lại như vậy. Tuy đã thành tựu các Pháp thánh vô lậu bạch tịnh nhưng vì lợi ích an vui cho các loài hữu tình, đem lòng biên nguyện thọ thân bằng sanh, làm các Phật sự. Tuy thọ thân ấy nhưng không cùng với chúng chịu các khổ não, cũng không bị tội lỗi kia làm ô quế. Lại nữa, này thiện hiện! Ý ông thế nào? Có nhà ảo thuật hay học trò của ông biến hóa ra các thứ như voi, ngựa v, v, làm cho nhiều người trông thấy vui mừng phấn khởi, đối với những thứ ấy có thật là voi, ngựa v, v, không? Thiện hiện Bạch Phật! Bạch Thế Tôn! Đối với những thứ ấy không có thật? Phật dạy! Này thiện hiện! Các Đại Bồ Tát cũng lại như vậy, tuy thành tựu các pháp thánh vô lậu bạch tình, nhưng vì lợi ích an vui cho các loài hữu tình, đem lòng biên nguyện thọ thân bằng sanh. Tuy thọ thân ấy nhưng không thật có, cũng không bị tội lỗi kia làm ô nhiễm. Cụ thọ thiện hiện Bạch Phật! Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát phương tiện thiện xảo rộng lớn như vậy, tuy đủ thành tựu các pháp thánh vô lậu bạch tình, nhưng vì hữu tình dùng lòng biên nguyện phương tiện thiện xảo thọ đủ loài thân, tùy theo sự thích nghi của chúng mà thi hiện làm lợi ích. Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát an trụ vào những pháp nào để làm phương tiện thiện xảo, tuy thọ các loài thân bằng sanh như vậy, nhưng không bị tội lỗi ấy làm ô nhiễm. Phật dạy! Này thiện hiện! Các Đại Bồ Tát trụ vào bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như vậy để làm phương tiện thiện xảo. Do sức phương tiện thiện xảo này, nền tuy trải qua hàng hạ sa thế giới chư Phật khắp mười phương, hiện nhiều thứ thân, làm lợi ích an vui cho các loài hữu tình, nhưng ở trong ấy không sanh tâm đắm nhiễm. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này đối với tất cả pháp đều vô sở đắc. Do vô sở đắc nên không có người nhiễm, nơi chống nhiễm và nhân duyên nhiễm. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp đều không. Thiện hiện nên biết! Không tánh không thể nhiễm không tánh. Không cũng không thể nhiễm pháp nào khác, cũng không có pháp nào nhiễm không. Vì sao? Vì trong không, không tánh còn không thể đắc, huống là có các pháp khác được. Như vậy, gọi là không thể đắc không. Các Đại Bồ Tát an trụ trong ấy có thể chứng được quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, vận chuyển pháp luôn vi diệu, đổ thoát các hữu tình. Cụ thỏ thiện hiện bạch Phật Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát vì chỉ an trụ bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nên dùng phương tiện thiện xảo như vậy, hay là an trụ vào pháp nào khác? Phật dạy! Này thiện hiện! Không có pháp nào là không tóm thâu vào bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, sao ông còn đặt câu hỏi ấy? Cụ thỏ thiện hiện bạch Phật Bạch Thế Tôn Bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tự tánh vốn không, làm sao cho rằng bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tóm thâu tất cả pháp? Chẳng phải trong pháp không cho rằng có pháp thu nhít hay không thu nhít? Phật dạy! Này thiện hiện! Há chẳng phải các pháp tự tánh đều không? Thiện hiện bạch Phật Bạch Thế Tôn Đúng vậy! Đúng vậy! Phật dạy! Này thiện hiện! Nếu tất cả pháp tự tánh đều không, thì trong pháp không ấy có nhít thu tất cả pháp? Thiện hiện bạch Phật Bạch Thế Tôn Đúng vậy! Đúng vậy! Phật dạy! Này thiện hiện! Do nhân duyên này, bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tóm thâu tất cả pháp, nên biết chúng đại Bồ Tát trụ vào bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nên dùng phương tiện thiện xảo như vậy làm lợi ích ăn vui cho hữu tình. Bây giờ, thiện hiện bạch Phật Bạch Thế Tôn Làm thế nào đại Bồ Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, an trụ trong tất cả pháp tự tánh đều không, phát sanh thần thông Ba-la-mật-đa, an trụ vào thần thông Ba-la-mật-đa này có thể đến được hàng hạ sa số thế giới chiêu Phật khắp mười phương, cúng dường, cung chính, tôn trọng chiêu Phật Thế Tôn, lắng nghe chiêu Phật thuyết Pháp và trọng nhiều căn lạnh. Phật dạy! Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, xem hàng hạ sa số thế giới chiêu Phật khắp mười phương và lắng nghe chiêu Phật thuyết Pháp tự tánh đều không, chỉ có Thế Tục mới lập tra danh tự nói là có thế giới, có Phật, có Pháp và chúng đệ tử. Như vậy, Thế Tục lập tra danh tự, tự tánh cũng đều không? Thiện hiện nên biết! Nếu Phật, Pháp và chúng đệ tử khắp mười phương thế giới cùng nhau thuyết Pháp, lập tra danh tự, tự tánh đều chẳng không, đêm thuyết nói về không là thành phần nhỏ, đêm thuyết nói về không cũng chẳng phải thành phần nhỏ, nên tất cả Pháp tự tánh đều không, lý ấy mới hoàn toàn không hay, không riêng khác. Thiện hiện nên biết! Đại Bồ Tát này hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo quán không nên có thể phát sanh được Thần Thông Thủ Thắng Ba-la-mật-đa. An trụ vào Thần Thông Ba-la-mật-đa này, Bồ Tát có khả năng phát sanh thiên nhãn, thiên nhĩ, thần cảnh, tha tâm, túc trụ, tùy niệm và trí lậu tận vi diệu thông tuệ. Thiện hiện nên biết! Các Đại Bồ Tát không xa lìa Thần Thông Ba-la-mật-đa, có năng lực tự tại, thành thuộc hữu tình, nêm tình cõi Phật, chiến đắt quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Vì vậy, Thần Thông Ba-la-mật-đa là đạo Bồ Đề, các Đại Bồ Tát đều nương vào đạo này cầu đạt đến quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Trong lúc đạt đến, tự mình có thể viên mãn tất cả thiện pháp, cũng có thể khuyên người tu các thiện pháp. Dù làm việc này nhưng đối với việc ấy không đắm trước. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này biết các thiện pháp tự tánh đều không, chẳng phải tự tánh không mà có sự đắm trước. Nếu có đắm trước là có vị ái. Do không đắm trước, không vị ái, nên trong tự tánh không. Do không có vị ái nên người có vị ái, đối tượng có vị ái và nhân duyên có vị ái ở trong pháp không đều bất khả đắc. Thiện hiện nên biết. Các Đại Bồ Tát này hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, an trụ Thần Thông Ba-la-mật-đa, phát sanh thiên nhãn thanh tịnh hơn người. Dùng thiên nhãn này quán tất cả pháp tự tánh đều không. Vì thấy tất cả pháp tự tánh đều không, nên chẳng nương theo pháp tướng tạo ra các nghiệp. Tuy vì hữu tình thuyết pháp như vậy, nhưng cũng không đắc tướng các hữu tình và sự hoạt động kia. Đại Bồ Tát này đem vô sở đắc làm phương tiện phát sanh Thần Thông Thù Thắng của Bồ Tát, dùng Thần Thông này làm tất cả sự nghiệp đáng làm. Thiện hiện nên biết. Đại Bồ Tát này dùng thiên nhãn hoàn toàn thanh tịnh hơn người, xem khắp hàng hà sa số thế giới của chư Phật khắp mười phương, xem rồi phát sanh Thần Cảnh Trí Thông, qua thế giới khác làm lợi ích cho các loài hữu tình. Hoặc dùng bố thí cho đến bát nhã Ba-la-mật-đa để làm lợi ích. Hoặc dùng ba mươi bảy pháp phần Bồ Đề để làm lợi ích. Hoặc dùng tịnh lự, vô lượng, vô sắc để làm lợi ích. Hoặc dùng giải thoát, đẳng tri, đẳng chí để làm lợi ích. Hoặc dùng pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện để làm lợi ích. Hoặc dùng các thiện pháp thù thắng khác để làm lợi ích. Hoặc dùng thanh văn, độc giác, Bồ Tát và các Phật Pháp khác để làm lợi ích. Đại Bồ Tát này dạo khắp mười phương thế giới, nếu thấy hữu tình nào nhiều bỏng sẻn tham lam thì sanh tâm thương xót, thuyết pháp khuyên như vậy, hữu tình các ông phải tu bố thí, người nào tham lam, bỏng sẻn sẽ chịu khổ vô cùng. Vì nghèo túng nên không có ai đức, không thể làm lợi ích cho mình, cũng là làm lợi ích cho người khác. Vì vậy nên các ông phải luôn bố thí để an vui cho mình và cũng làm cho người khác được an vui. Đừng vì sự bần cùng mà sát hại lẫn nhau, đều không giải thoát khỏi khổ trong các đường. Nếu thấy hữu tình nào hủy phá tỉnh giới thì sanh lòng thương xót, thuyết pháp khuyên như vậy, hữu tình các ông phải giữ gìn tỉnh giới, người nào phá giới chịu khổ nơi đường ác. Người phá giới không có ai đức, không làm lợi ích cho mình, cũng là cho người khác. Nhân duyên phá giới đọa vào các đường ác, chịu khổ quả bảo đau đớn, không thể chịu đựng nổi, không thể tự cứu mình cũng là cứu người khác. Vì vậy nên các ông phải giữ gìn tỉnh giới, không nên chấp chứa tâm phá giới dù chỉ một niệm, cũng là lâu dài. Chở buông lung tâm ý, sau này phải ăn năng. Nếu thấy hữu tình nào sân giận với nhau, kết quán thu tổn hại nhau, Bồ Tát sanh tâm thương xót, thuyết pháp khuyên như vậy, hữu tình các ông phải tu an nhẫn, đừng sân giận với nhau, kết quán thì tổn hại nhau. Tâm thù hận như vậy chẳng thuận với thiện pháp, tăng trưởng ác pháp, hiện đời thọ lấy sự tổn hại. Qua đời sau sẽ bị đọa vào đường ác, chịu khổ vô cùng, khó mong ra khỏi. Vì vậy nên các ông chẳng nên chấp chứa tâm thù hận, dù chỉ một niệm, cũng là nối nhau lâu dài. Ngày nay các ông tuần tự duyên nhau, nên sanh lòng tự bi làm việc lợi ích. Nếu thấy hữu tình nào giải đại biến nhát, sanh lòng thương xót, thuyết pháp khuyên như vậy, hữu tình các ông nên siêng năng tinh tấn, không nên đối với thiện pháp giải đại, biến nhát. Những người biến nhát đối với các thiện pháp và các thắng sự đều không thể thành công được. Do đây các ông đọa vào đường ác, chịu khổ vô biên. Vì vậy các ông chẳng nên chấp chứa tâm biến nhát, dù chỉ một niệm, cũng là nối nhau lâu dài. Nếu thấy hữu tình nào thất niệm, tán loạn, tâm chẳng vắng lặn, sanh lòng thương xót, thuyết pháp khuyên như vậy, hữu tình các ông nên tu tình lự, không nên sanh tâm thất niệm, tán loạn. Tâm như vậy chẳng thuận với thiện pháp, tăng trưởng ác pháp, hiện đời thọ lấy sự tổn suy. Do nhân duyên này, sau khi thân hoại mạng chung, các ông phải đọa vào đường ác, chịu khổ vô biên. Vì vậy các ông chẳng nên chấp chứa tâm tương ưng với thất niệm, tán loạn dù chỉ một niệm, cũng là nối nhau lâu dài. Nếu thấy hữu tình nào ngu si ác tuệ, sanh lòng thương xót, thuyết pháp khuyên như vậy, hữu tình các ông nên tu thắng tuệ, không nên sanh ác tuệ. Người nào sanh tâm ác tuệ, đối với các cảnh giới thiện còn chẳng đến được, cũng là giải thoát. Do nhân duyên ác tuệ này mà các ông phải đọa vào đường ác, chịu khổ vô biên. Vì vậy các ông chẳng nên chấp chứa tâm tương ưng với ngu si ác tuệ dù chỉ một niệm, cũng là nối nhau lâu dài. Nếu thấy hữu tình nào nhiều tham dục, sanh lòng thương xót, dùng phương tiện làm cho họ tu quán bất tình. Nếu thấy hữu tình nào nhiều sân giận, sanh lòng thương xót, dùng phương tiện khuyên họ tu quán từ bi. Nếu thấy hữu tình nào nhiều ngu si sanh lòng thương xót, dùng phương tiện khuyên họ tu quán duyên khởi. Nếu thấy hữu tình nào nhiều kiêu mạng, sanh lòng thương xót, dùng phương tiện khuyên họ tu quán các giới. Nếu thấy hữu tình nào nhiều tẩm tứ, sanh lòng thương xót, dùng phương tiện khuyên họ tu quán hơi thở. Nếu thấy hữu tình nào mất chánh đạo, sanh lòng thương xót, dùng phương tiện khuyên họ trở về với chánh đạo, đó là đạo Thanh Văn, đạo Độc Giác, đạo Bồ Tát, đạo Như Lai. Dùng phương tiện thuyết pháp cho họ như vậy, điều mà các ông chấp lấy, tự tánh đều không. Chẳng phải trong Pháp không có chỗ chấp, dùng vô sở chấp làm không tướng. Như vậy, này thiện hiện, các Đại Bồ Tát hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, an trụ trong thần thông Ba-la-mật-đa mới có thể tự tải giảng thuyết chánh pháp, làm lợi ích an vui cho các loài hữu tình. Thiện hiện nên biết, nếu Đại Bồ Tát nào xa lìa thần thông Ba-la-mật-đa thì không thể tự tải giảng thuyết chánh pháp cùng với các hữu tình làm việc lợi ích an vui. Thiện hiện nên biết, cũng như chim không cánh, không thể tự tải bay lượm giữa hư không, hay bay đến nơi xa tầng. Các Đại Bồ Tát cũng lại như vậy, nếu không có thần thông Ba-la-mật-đa thì không thể tự tải giảng thuyết chánh pháp cùng với các hữu tình làm việc lợi ích an vui. Vì vậy, này thiện hiện, các Đại Bồ Tát hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa phát sanh thần thông Ba-la-mật-đa. Nếu vị nào phát sanh thần thông Ba-la-mật-đa thì có thể tự tải giảng thuyết chánh pháp, tùy ý làm lợi ích an vui cho các loài hữu tình. Thiện hiện nên biết, các Đại Bồ Tát dùng thiên nhãn thanh tịnh hơn người, xem hàng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương và xem các loài hữu tình sanh vào thế giới ấy. Quán rồi, phát sanh thần cảnh trí thông, trải qua trong sát na liền đến thế giới ấy, dùng tha tâm trí như thật biết rõ các tâm và tâm sở pháp của các hữu tình kia, tùy theo chỗ thích ứng mà nói pháp cho họ. Nghĩa là nói pháp bố thí cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa. Hoặc nói bốn niệm trụ cho đến tám chi khánh đạo. Hoặc nói bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Hoặc nói pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Hoặc nói tám giải thoát cho đến mười biến sướng. Hoặc nói pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Hoặc nói pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Hoặc nói chân như cho đến cảnh giới bất tư nghi. Hoặc nói thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Hoặc nói nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Hoặc nói các pháp theo duyên sanh ra. Hoặc nói vô minh cho đến lão tử. Hoặc nói các môn quẩn sứ giới. Hoặc nói đạo Thanh Văn, hoặc nói đạo Độc Giác, hoặc nói đạo Bồ-Tát, hoặc nói đạo Bồ-Đệ, hoặc nói Niết Bàn, làm cho các hữu tình kia nghe pháp này rồi đều được lợi ích an vui thù thắng. Thiện hiện nên viết. Đại Bồ-Tát này dùng thiên nhĩ thanh tịnh hơn người, có thể nghe tất cả tiếng người chẳng phải người. Do thiên nhĩ này nghe được sự thuyết pháp của tất cả như lai ứng chánh đặng giác trong hàng hạ xa số thế giới chư Phật khắp mười phương. Nghe rồi thọ trì, tư duyên nghĩa lý, tùy pháp đã nghe có thể vì hữu tình mà như thật giảng thuyết. Hoặc nói bố thí cho đến bác nhã ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến hoặc nói Bồ-Đệ, hoặc nói Niết Bàn, làm cho hữu tình kia nghe pháp này rồi đều được lợi ích an vui thù thắng. Thiện hiện nên viết. Đại Bồ-Tát này biết rõ tâm và tâm sở pháp của các loài hữu tình, tùy theo sự thích ứng mà nói pháp, hoặc là nói bố thí cho đến bác nhã ba-la-mật-đa. Nói rộng cho đến hoặc nói Bồ-Đệ, hoặc nói Niết Bàn, làm cho hữu tình kia nghe pháp này rồi đều được lợi ích an vui thù thắng. Thiện hiện nên viết. Đại Bồ-Tát này dùng tình túc trụ tùy niệm trí thông, như thật nhớ rõ đời quá khứ của chư Phật và chúng đệ tử đều sai khác. Nếu các hữu tình nào ưa nghe các việc túc trụ đời quá khứ mà được lợi ích, nên vì giảng thuyết các việc túc trụ. Nhân đó, Bồ-Tát dùng phương tiện vì họ mà nói chánh pháp, hoặc là nói bố thí cho đến bác nhã ba-la-mật-đa. Nói rộng cho đến hoặc nói Bồ-Đệ, hoặc nói Niết Bàn, làm cho hữu tình kia nghe pháp này rồi đều được lợi ích an vui thù thắng. Thiện hiện nên viết. Đại Bồ-Tát này dùng thần cảnh trí thông trong một sát nga qua đến hàng hà xa thế giới của chư Phật khắp mười phương, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, trồng các thiện căng với chư Phật, rồi trở về bổn quốc, vì các hữu tình mà nói những việc như ở cõi Phật kia. Nhân đó, Bồ-Tát dùng phương tiện vì họ thuyết chánh pháp, nghĩa là nói bố thí cho đến bác nhã ba-la-mật-đa. Nói rộng cho đến hoặc nói Bồ-Đệ, hoặc nói Niết Bàn, làm cho hữu tình kia nghe pháp này rồi đều được lợi ích an vui thù thắng. Thiện hiện nên viết. Đại Bồ-Tát này dùng lậu thần trí thông, tùy chỗ chứng đắc, như thật biết rõ các lậu của hữu tình đã đoạn hay chưa đoạn, cũng như thật biết dùng phương tiện để đoạn trừ các lậu. Vì kẻ chưa đoạn mà giảng thuyết pháp yếu, nghĩa là nói bố thí cho đến bác nhã ba-la-mật-đa. Nói rộng cho đến hoặc nói Bồ-Đệ, hoặc nói Niết Bàn, làm cho hữu tình kia nghe pháp này rồi đều được lợi ích an vui thù thắng. Như vậy, này thiện hiện. Các Đại Bồ-Tát hành bác nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên phát sanh thần thông ba-la-mật-đa. Đại Bồ-Tát này tu tập thần thông ba-la-mật-đa được viên mãn, nên tùy ý ưa thích để thọ các loại thân, nhưng không bị các khổ, vui, tội lỗi làm ô nhiễm. Như hóa thân Phật, tuy có thể kiến tạo ra những sự nghiệp nhưng không bị sự khổ, vui, tội lỗi ấy làm tạp nhiễm. Như vậy, này thiện hiện. Các Đại Bồ-Tát hành bác nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên dùng du hí thần thông ba-la-mật-đa. Nếu dùng du hí thần thông ba-la-mật-đa, thì có thể thành thuộc hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Thiện hiện nên biết. Đại Bồ-Tát nào chẳng thành thuộc hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật thì nhất định không thể chứng được trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì tư lương Bồ-đề của các Đại Bồ-Tát này chưa viên mãn, nên chắc chắn chẳng thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Bây giờ, thiện hiện bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Thế nào là tư lương Bồ-đề của các Đại Bồ-Tát? Làm thế nào các Đại Bồ-Tát viên mãn tư lương Bồ-đề để có thể chứng đắc trí nhất thiết trí? Phật dạy. Này thiện hiện! Tất cả thiện pháp đều là tư lương Bồ-đề của Bồ-Tát. Các Đại Bồ-Tát nào viên mãn tư lương Bồ-đề như vậy mới có thể chứng đắc trí nhất thiết trí? Cụ thỏ thiện hiện bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Tất cả thiện pháp là những gì? Phật dạy. Này thiện hiện! Các Đại Bồ-Tát từ lúc mới phát tâm tu hành bố thí cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa. Ở trong pháp ấy không còn phân biệt chấp trước, nhiều suy nghĩ, đây là pháp bố thí cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa, do đây, vì đây mà tu bố thí cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa. Ba sự phân biệt chấp trước đều không? Vì biết tất cả pháp tự tánh đều không? Do đây pháp tu sáu pháp Ba-la-mật-đa như bố thí V, V, có thể tự lợi, cũng có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình ra khỏi sanh tử, được vui niết bàn, nên nói là thiện pháp, cũng gọi là tư lương bồ đề của Bồ-Tát, cũng gọi là đạo Đại Bồ-Tát. Vì chúng Đại Bồ-Tát ở đời quá khứ, vị lai, hiện tại đều hành đạo này, nên đã, đang và sẽ đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, cũng làm cho hữu tình đã, đang và sẽ được thoát ra biển lớn sanh tử, được vui niết bàn. Lại nữa, này thiện hiện! Các Đại Bồ-Tát từ lúc mới phát tâm tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, an trụ pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không, an trụ vào chân như cho đến cảnh giới bất tương nghi, an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, tu tám giải thoát cho đến mười điến sướng, tu các bậc Đại Bồ-Tát, tu pháp môn Đà-La-Ni, pháp môn Tam-Ma-Địa, tu mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tu đại tự, đại bi, đại hỷ, đại xã, tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã, tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Đối trong pháp ấy đều không phân biệt chấp trước, nhưng nghĩ đây là bốn tịnh lự, nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng. Do đây, vì đây mà tu bốn tịnh lự, nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng. Ba sự phân biệt chấp trước đều không? Vì biết tất cả pháp tự tánh đều không, nên do đây tu bốn tịnh lự V, V, có thể tự lợi ích, cũng có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình ra khỏi sanh tử, được vui nhiết bàn, nên nói là thiện pháp, cũng gọi là tư lương bồ đề của Bồ-Tát, cũng gọi là đạo Đại Bồ-Tát. Chúng Đại Bồ-Tát ở đời quá khứ, vị lai, hiện tại hành đạo này nên đã, đang và sẽ được đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, cũng làm cho hữu tình đã, đang và sẽ được thoát ra biển lớn sanh tử, được vui nhiết bàn. Thiện hiện nên biết, lại có vô lượng sự tu công đức của chúng Bồ-Tát đều gọi là thiện pháp, cũng gọi là tư lương bồ đề của Bồ-Tát, cũng gọi là đạo Đại Bồ-Tát. Các Đại Bồ-Tát nào chuyên tu các thiện pháp thù thắng cho được viên mãn hoàn toàn như thế mới có thể chính đắc trí nhất thiết trí. Chủ yếu là chính đắc trí nhất thiết trí mới có thể tùy thuận chuyển pháp lương vi diệu, đổ các hữu tình thoát khỏi khổ sanh tử, chính đắc nhiết bàn an vui rốt tráo. Bây giờ, thiện hiện Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Nếu các pháp này là pháp của Bồ-Tát thì còn pháp nào gọi là pháp của Phật không? Phật Dạy Này thiện hiện! Pháp của Bồ-Tát cũng gọi là pháp của Phật. Bởi vì các Bồ-Tát đối với tất cả pháp hiểu tất cả tướng. Do đây sẽ chính được trí nhất thiết tướng, đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí tương tục. Còn chưa như Lai ứng chánh đẳng giác đối với tất cả pháp chỉ một sát na tương ưng với bác nhã liên hiện đẳng giác rồi, chính đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, đó gọi là Bồ-Tát khác với chư Phật. Như hai bậc thánh, tuy đồng là thánh nhưng có sự khác biệt về hành, hướng, trụ, quả, pháp được thành tựu đều có khác nhau. Như vậy, này thiện hiện! Nếu hành vô gián đạo đối với tất cả pháp chưa lìa ám chướng, chưa đến bờ giác, chưa được tự tại, khi chưa đạt được quả thì gọi là Bồ-Tát. Còn nếu ở giải thoát đạo, hành tất cả pháp đã lìa ám chướng, đã đến bờ giác, đã được tự tại, khi đã được quả thì mới gọi là Phật. Đây gọi là Bồ-Tát khác với chư Phật. Do địa vị có khác, nhưng pháp không khác, nên không thể nói pháp tánh khác được. Cụ thọ thiện hiện bạch Phật. Bạch Thế Tôn Nếu tất cả pháp tự tướng đều không thì trong không của tự tướng làm sao có được các loại sai biệt, nói đây là địa ngục, cho đến đây là trời, đây là trũng tánh, nói rộng cho đến đây là như lai. Như vậy, đã nói con người bất khả đắc thì sự tạo nghiệp của họ cũng bất khả đắc. Như sự tạo nghiệp đã bất khả đắc, quả dị thục kia cũng bất khả đắc, thì làm sao có được các loại sai biệt. Phật dạy! Này thiện hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Tất cả pháp tự tướng đều không, trong tự tướng không đó loài người đã vô sở hữu thì nghiệp quả dị thục cũng vô sở hữu. Trong vô sở hữu không có tướng sai biệt. Nhưng các hữu tình đối với tất cả pháp, lý của tự tướng không chẳng thể biết hết được, nên tạo ra các nghiệp hoặc thiện, hoặc ác, hoặc là vô lậu. Do nơi nghiệp thiện tạo ra được tăng trưởng nên sanh trong cõi trời, người. Do nơi ác nghiệp tạo ra càng tăng trưởng nên đọa vào ba đường ác. Ở trong nghiệp thiện, do nơi định nghiệp tạo ra tăng trưởng nên được sanh vào cõi sắc, hoặc cõi vô sắc. Do vô lậu nghiệp gia hạnh căng bản có các trũng tánh hiền thánh sai khác. Do nhân duyên này, các Đại Bồ Tát tu hành bố thí cho đến Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa, cho đến tu hành trí nhất thiết tướng và vô lượng, vô biên các Phật Pháp khác. Đại Bồ Tát này đối với Pháp phần Bồ Đệ đã nói đây không gián đoạn, không khuyết, tu hành làm cho viên mãn. Đã viên mãn rồi liền có thể phát sanh định kim tương dụ, gần tiến đến Bồ Đệ, chiến đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ và làm lợi ích lớn cho các hữu tình thường không hoại diệt. Vì không hoại diệt nên làm cho các hữu tình giải thoát sanh tử, chiến đắc thanh tịnh niết bàn thường lạc. Cụ Thọ Thiền Hiền Bạch Phật Bạch Thế Tôn Ngài đã chứng được quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ rồi, có còn bị các Pháp sanh tử đưa đến các cảnh giới không? Phật Đát Không có. Cụ Thọ Thiền Hiền Bạch Phật Bạch Thế Tôn Ngài đã chứng được quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ rồi, có bị hắt nhịp, bạch nhịp, hắt bạch nhịp, chẳng phải hắt bạch nhịp không? Phật Đát Không có. Cụ Thọ Thiền Hiền Bạch Phật Bạch Thế Tôn Nếu Ngài chẳng bị các cảnh giới sanh tử và nhịp khác nhau thì làm sao nói đây là Điện Ngục cho đến Trời, Người, đây là Chủng Tánh cho đến Phận vị khác nhau của Như Lai? Phật Hỏi Thiền Hiền Các loài hữu tình có biết tự tướng của các Pháp là không chăng? Thiền Hiền Bạch Phật Bạch Thế Tôn Chẳng biết. Phật Dạy Này Thiền Hiền Nếu các hữu tình tự biết tự tướng của các Pháp là không thì các Đại Bồ Tát đối với quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ chẳng nên cầu chứng đắc, dùng phương tiện thiền xảo độ các hữu tình thoát khỏi đường ác sanh tử. Vì các hữu tình chẳng biết tự tướng các Pháp là không nên luân hồi trong các nẻo, chịu khổ vô cùng. Vì vậy nên Bồ Tát đã nghe chư Phật thuyết tất cả Pháp tự tướng là không rồi vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình nên cầu chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, dùng phương tiện thiền xảo độ các hữu tình thoát khỏi đường ác sanh tử. Thiền Hiền nên biết. Các Đại Bồ Tát này thường nghĩ chẳng phải tất cả Pháp thật có tự tướng như các Phạm Phu Ngu Mùi đã chấp. Nhưng vì do sức phân biệt điên đảo nên trong ấy chẳng phải thật có mà vọng tưởng là thật có. Nghĩa là trong vô ngã vọng tưởng là có ngã, nói rộng cho đến trong không có người thấy vọng tưởng là có người thấy. Lại trong không có sắc vọng tưởng có sắc, trong không có thọ, tưởng, hành, thức vọng tưởng có thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng cho đến trong không vô vi vọng tưởng vô vi. Vì sức phân biệt điên đảo như vậy nên trong chẳng phải thật có vọng tưởng thật có. Hư dối, chấp trước, đảo loạn nơi tâm, tạo nghiệp thiện hay bất thiện nơi thân, khẩu, ý, không thể giải thoát được đường ác sanh tử. Ta phải cứu độ giúp cho họ được giải thoát. Đại Bồ Tát này nghĩ như vậy rồi, hành Bát Nhã Palamuddha sâu xa, dùng các thiện Pháp tóm thâu vào trong ấy, tùy thuận tu hành các hành Bồ Tát, tuần tự viên mãn Tư Lương Bồ Đề. Tư Lương Bồ Đề đã được viên mãn, chính đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Bồ Đề viên mãn rồi, vì các hữu tình mà giảng thuyết, khai thị, phân biệt, thành lập nghĩa bốn thánh đế. Nói đây là thánh đế khổ, đây là thánh đế khổ tập, đây là thánh đế khổ diệt, đây là con đường đưa đến thánh đế khổ diệt. Là dùng tất cả Pháp phần Bồ Đề tóm thâu vào trong bốn thánh đế như vậy, rồi nương vào tất cả Pháp phần Bồ Đề, thành lập, tạo dựng Phật, Pháp, Tăng Bảo. Nhờ Tăng Bảo này có mặt ở thế gian, nên các loại hữu tình giải thoát sanh tử. Các hữu tình nào không chịu quy tính Phật, Pháp, Tăng Bảo, tạo ra các nghiệp thì phải luôn hồi các nẻo, chịu khổ vô cùng. Vì vậy, nên phải quy y Phật, Pháp, Tăng Bảo, cần cầu lợi ích an vui cho mình và người. Bây giờ, thiền hiện bạch Phật. Bạch Thế Tôn Vì nhờ thánh đế khổ, tập, diệt, tạo mà các loại hữu tình chứng nhập Niết Bàn, hay vì nhờ thánh trí khổ, tập, diệt, tạo mà các loại hữu tình chứng nhập Niết Bàn? Phật dạy Này thiền hiện Chẳng phải nhờ thánh đế khổ, tập, diệt, tạo mà các loại hữu tình chứng nhập Niết Bàn, cũng chẳng phải nhờ thánh trí khổ, tập, diệt, tạo mà các loại hữu tình chứng nhập Niết Bàn? Này thiền hiện Ta nói tánh bình đẳng của bốn thánh đế tức là Niết Bàn. Như vậy, Niết Bàn chẳng phải nhờ thánh đế khổ, tập, diệt, tạo, cũng chẳng nhờ thánh trí khổ, tập, diệt, tạo. Chỉ nhờ chứng thánh bình đẳng của bác nhã Ba-la-mật-đa nên gọi là chứng nhập Niết Bàn. Cụ thọ thiền hiện bạch Phật Bạch Thế Tôn Thánh bình đẳng của bốn thánh đế là thế nào? Phật dạy Này thiền hiện Nếu ở nơi mà không có khổ, tập, diệt, tạo đế, không có khổ, tập, diệt, tạo trí thì gọi là thánh bình đẳng của bốn thánh đế. Thánh bình đẳng này tức là bốn thánh đế, là cảnh giới chân như, nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì. Như lai dù ra đời hoặc chẳng ra đời thì tánh tướng vẫn thường trụ không hoài diệt, không biến đổi. Như vậy, gọi là thánh bình đẳng của bốn thánh đế. Các đại Bồ Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa vì muốn hiểu rõ thánh bình đẳng của bốn thánh đế đây nên hành bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu có thể hiểu rõ thánh bình đẳng của bốn thánh đế này thì gọi là hiểu biết hoàn toàn tất cả thánh đế, mau chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Cụ Thọ Thiện Hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Thế nào là đại Bồ Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa vì muốn hiểu rõ thánh bình đẳng của bốn thánh đế này nên hành bác nhã Ba-la-mật-đa? Nếu có thể hiểu rõ thánh bình đẳng của bốn thánh đế này thì gọi là chân hiểu biết hoàn toàn tất cả thánh đế, không rơi vào địa vị thanh văn, độc giác, thẳng đến chánh thánh ly xanh của Bồ Tát. Phật Dạy Ngày Thiện Hiện Các đại Bồ Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, không đối với tất cả Pháp, không có chút Pháp nào là không thấy như thật. Khi đối với tất cả Pháp thấy như thật đều vô sở đắc. Khi đối với tất cả Pháp vô sở đắc thì thấy như thật tất cả Pháp đều không. Nghĩa là thấy như thật các Pháp thuộc về tứ đế hoặc không thuộc về tứ đế. Khi thấy như vậy có thể nhập vào chánh thánh ly xanh của Bồ Tát. Vì có thể nhập vào chánh thánh ly xanh của Bồ Tát nên mới trụ trong địa vị chủng thánh của Bồ Tát. Đã trụ trong địa vị chủng thánh của Bồ Tát thì có thể quyết định chẳng bị đọa lạc. Nếu có bị đọa lạc thì rơi vào địa vị thanh văn, độc giác. Đại Bồ Tát này an trụ trong địa vị chủng thánh của Bồ Tát, phát sanh bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Đại Bồ Tát này an trụ địa vị Samatha như vậy liền có thể quyết tâm chọn tất cả Pháp thánh và tùy theo đó mà giác ngộ được bốn thánh đế. Bây giờ, Bồ Tát tuy đã biết rõ các khổ nhưng không khởi tâm duyên theo khổ. Tuy đoạn trừ vĩnh viễn tập nhưng không khởi tâm duyên theo tập. Tuy có thể chứng diệt nhưng không khởi tâm duyên theo diệt. Tuy có thể tu đạo nhưng không khởi tâm duyên theo đạo. Chỉ khởi tâm tùy thuận hướng đến Bồ Đề như thật biết rõ tướng của các Pháp.