Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Quyển 5 3. Phẩm tương tương không hay Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với sắc Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với thọ, tưởng, hành, thức Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với nhãn sứ, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với sắc sứ, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với thanh, hương, vị, xúc, pháp sứ Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với nhãn giới, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với sắc giới, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với nhãn thức giới, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với nhãn xúc, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với địa giới, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với thủy, hỏa, phong, không, thức giới Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với nhân duyên, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với sợ duyên duyên, đẳng vô gián duyên, tăng thường duyên, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với các pháp do duyên sanh ra Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với vô minh, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với hành, thức, danh sách, luật hướng, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, lo, phiền Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với cõi dục, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với cõi sắc, cõi vô sắc Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với bố thí Palamarda, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với tịnh giới, an nhẫn, tinh tiếng, tình lự, bát nhã Palamarda Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với cái không đội, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với cái không ngoại, cái không đội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nhĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tảng mạng, cái không không đội khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không trọng tướng, cái không tất cả pháp, cái không không nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với chân như, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh không đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cõi hư không, cõi không thể nghĩ bàn Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với 4 niệm trụ, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với thánh đế khổ, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với thánh đế tập, diệt, đạo Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với 10 thiện nhiệt đạo, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với 5 giới cận sự, 8 giới cận trụ Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với việc làm phước mang tính bố thí, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với việc làm phước mang tính giữ giới, mang tính tu hành Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với 4 tỉnh lự, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với 4 vô lượng, 4 định vô sắc Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với 8 giải thoát, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với 8 tháng sướng, 9 định thứ đệ, 10 biến sướng Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với pháp môn giải thoát không, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với tất cả pháp môn Đà-La-Ni, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với tất cả pháp môn Ta-Ma-Địa Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với bật cực khỉ, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với bật ly cấu, bật phát quan, bật dịnh tuệ, bật cực nan thắng, bật hiện tiền, bật viễn hành, bật bất động, bật thiện tuệ, bật pháp vân Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với 5 loại mắt, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với 6 pháp thần thông Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với 10 lực của Phật, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp Phật bất cộng Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với 32 tướng đại sĩ, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với 80 vẻ đẹp kèm theo Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với Pháp không quên mắt, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với tánh luôn luôn xã Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với trí nhất thiết, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, trí nhất thiết tướng vi diệu, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với trí nhất thiết trí Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với việc bứng gốc vĩnh viễn tất cả phiền não, khói xấu nhiều đời Chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với quả dự lưu, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với quả nhất lai, bất hoàng, A-la-háng, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với quả vị độc giác, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với tất cả hành đại Bồ Tát, chẳng thấy tương tương, hoặc chẳng tương tương với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với ngã, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương tương với hữu tình, dòng sinh mạng, sự sinh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hội, người do người sinh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, tự thò quả báo, khiến người thò quả báo, cái biết, cái thấy Xá lợi tử Nên biết, các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa vì những nhân duyên ấy nên gọi là cùng tương tương với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa Lại nữa, xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng quán sự tương ưng, chẳng tương tương giữa cái không với cái không, chẳng quán sự tương ưng, chẳng tương tương giữa cái vô tướng với cái vô tướng, chẳng quán sự tương ưng, chẳng tương tương giữa cái vô nguyện với cái vô nguyện Vì sao? Xá lợi tử Vì không, vô tướng, vô nguyện đều không có tương ưng, chẳng tương ưng Xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa Lại nữa, xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa đã thấy nhập cái không tự tướng của tất cả Pháp rồi, thì chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng của sắc, chẳng quán sự tương ưng, chẳng tương ưng của thọ, tưởng, hành, thức Vì đại Bồ Tát ấy chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa sắc với đời trước. Vì sao? Vì chẳng thấy đời trước chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa thọ, tưởng, hành, thức với đời trước. Vì sao? Vì chẳng thấy đời trước chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa sắc với đời sau. Vì sao? Vì chẳng thấy đời sau chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa thọ, tưởng, hành, thức với đời sau. Vì sao? Vì chẳng thấy đời sau chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa sắc với hiện tại. Vì sao? Vì chẳng thấy hiện tại chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa thọ, tưởng, hành, thức với hiện tại. Vì sao? Vì chẳng thấy hiện tại. Lại nữa, xá lợi tử. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa hiện tại với đời sau. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa đời trước với đời sau và hiện tại. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa đời sau với đời trước và hiện tại. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa hiện tại với đời trước và đời sau. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa đời trước, đời sau, hiện tại. Vì sao? Xá lợi tử. Vì ba đời đều không. Xá lợi tử. Các Đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, xá lợi tử. Các Đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với quá khứ. Vì sao? Vì quá khứ còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với quá khứ. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với vị Lai. Vì sao? Vì vị Lai còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với vị Lai. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với hiện tại. Vì sao? Vì hiện tại còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với hiện tại. Xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với sắc. Vì sao? Vì sắc còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với sắc. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thọ, tưởng, hành, thức. Xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn xứ. Vì sao? Vì nhãn xứ còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn xứ. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn xứ. Vì sao? Vì nhãn xứ còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn xứ. Xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn xứ. Vì sao? Vì nhãn xứ còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn xứ. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa vì cùng tương ưng với các pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn giới. Vì sao? Vì nhãn giới còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn giới. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết trí với nhãn giới. Vì sao? Vì nhãn giới còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn giới. Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với sách giới. Vì sao? Vì sách giới còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với sách giới. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Vì sao? Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp giới còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa vì cùng tương ưng với các pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn thức giới. Vì sao? Vì nhãn thức giới còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn thức giới. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn thức giới. Vì sao? Vì nhãn thức giới còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn thức giới. Xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn thức. Vì sao? Vì nhãn thức còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn thức. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn thức. Vì sao? Vì nhãn thức còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhãn thức. Xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa, vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với các thọ do nhãn thức làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì các thọ do nhãn thức làm duyên sanh ra còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với các thọ do nhãn thức làm duyên sanh ra. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với địa giới. Vì sao? Vì địa giới còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với địa giới. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhân duyên. Vì sao? Vì nhân duyên còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với nhân duyên. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với các Pháp do đẳng vô gián duyên, sợ duyên-duyên, tăng thường duyên và các duyên khác sanh ra. Vì sao? Vì các Pháp do đẳng vô gián duyên, sợ duyên-duyên, tăng thường duyên và các duyên khác sanh ra còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với các Pháp do đẳng vô gián duyên, sợ duyên-duyên, tăng thường duyên và các duyên khác sanh ra. Xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với vô minh. Vì sao? Vì vô minh còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với vô minh. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với hành, thức, danh sách, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, lo, phiền. Vì sao? Vì sao? Vì từ hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, lo, phiền còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, lo, phiền. Xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa, vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bố thí-Ba-La-Mật-Đa. Vì sao? Vì bố thí-Ba-La-Mật-Đa còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bố thí-Ba-La-Mật-Đa. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tỉnh giới, an nhẫn, tỉnh tiến, tỉnh lựu, bát nhã-Ba-La-Mật-Đa. Vì sao? Vì tỉnh giới, an nhẫn, tỉnh tiến, tỉnh lựu, bát nhã-Ba-La-Mật-Đa còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tỉnh giới, an nhẫn, tỉnh tiến, tỉnh lựu, bát nhã-Ba-La-Mật-Đa. Xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với cái không nội. Vì sao? Vì cái không nội còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với cái không nội. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt tráo, cái không không biên giới, cái không tản mạng, cái không không đội khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả Pháp, cái không không nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh, còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với cái không ngoại, cho đến cái không không tánh tự tánh. Xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với bác nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với 4 niệm trụ. Vì sao? Vì 4 niệm trụ còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với 4 niệm trụ. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo. Vì sao? Vì 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo. Xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với bác nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thánh đế khổ. Vì sao? Vì thánh đế khổ còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thánh đế khổ. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì thánh đế tập, diệt, đạo còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với thánh đế tập, diệt, đạo. Xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với bác nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bốn tịnh lự. Vì sao? Vì bốn tịnh lự còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bốn tịnh lự. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với bác nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tám giải thoát. Vì sao? Vì tám giải thoát còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tám giải thoát. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ. Vì sao? Vì tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ. Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Pháp môn giải thoát không? Vì sao? Vì Pháp môn giải thoát không còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Pháp môn giải thoát không? Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Vì Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tất cả Pháp môn Đà-la-ni. Vì sao? Vì tất cả Pháp môn Đà-la-ni còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tất cả Pháp môn Đà-la-ni. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Bật Thực Khỉ. Vì sao? Vì Bật Thực Khỉ còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Bật Thực Khỉ. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Bật Ly Cấu, Bật Pháp Quang, Bật Dịm Tuệ, Bật Cực Nang Thắng, Bật Hiện Tiền, Bật Viễn Hành, Bật Bất Động, Bật Thiện Tuệ, Bật Pháp Vân. Vì sao? Vì từ Bật Ly Cấu cho đến Bật Pháp Vân còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Bật Ly Cấu cho đến Bật Pháp Vân. Xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với năm loại mắt. Vì sao? Vì năm loại mắt còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với năm loại mắt. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với sáu phép thần thông. Vì sao? Vì sáu phép thần thông còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với sáu phép thần thông. Xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với mười lực của Phật. Vì sao? Vì mười lực của Phật còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với mười lực của Phật. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Phả, mười tám Pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với ba mươi hai tướng đại sĩ. Vì sao? Vì sao? Vì ba mươi hai tướng đại sĩ còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với ba mươi hai tướng đại sĩ. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tám mươi vẻ đẹp kèm theo. Vì sao? Vì tám mươi vẻ đẹp kèm theo còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với tám mươi vẻ đẹp kèm theo. Xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Pháp không quên mất. Vì sao? Vì Pháp không quên mất còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Pháp không quên mất. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Tánh Luôn Luôn Xã. Vì sao? Vì Tánh Luôn Luôn Xã còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Tánh Luôn Luôn Xã. Xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với trí nhất thiết. Vì sao? Vì trí nhất thiết còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với trí nhất thiết. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Phật. Vì sao? Vì Phật còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Phật. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Bồ Đề. Vì sao? Vì Bồ Đề còn chẳng thấy có, hữu là quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Bồ Đề. Xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Phật, cũng chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa Phật với trí nhất thiết. Vì sao? Vì trí nhất thiết tức là Phật, Phật tức là trí nhất thiết. Chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa trí nhất thiết với Bồ Đề, chẳng quán sự tương ưng, hoặc chẳng tương ưng giữa Bồ Đề với trí nhất thiết. Vì sao? Vì trí nhất thiết tức là Bồ Đề, Bồ Đề tức là trí nhất thiết. Xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa, chẳng đấm vào cái có cu sắc, chẳng đấm vào cái chẳng phải có cu sắc, chẳng đấm vào cái có cu thọ, tưởng, hành, thức, chẳng đấm vào cái chẳng phải có cu thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng đấm vào cái thường cu sắc, chẳng đấm vào cái vô thường cu sắc, chẳng đấm vào cái thường cu thọ, tưởng, hành, thức, chẳng đấm vào cái vô thường cu thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng đấm vào cái vui cu sắc, chẳng đấm vào cái khổ cu sắc, chẳng đấm vào cái vui cu thọ, tưởng, hành, thức, chẳng đấm vào cái khổ cu thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng đấm vào cái ngã cu sắc, chẳng đấm vào cái vô ngã cu sắc, chẳng đấm vào cái ngã cu thọ, tưởng, hành, thức, chẳng đấm vào cái vô ngã cu thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng đấm vào cái tịch tịnh cu sắc, chẳng đấm vào cái chẳng tịch tịnh cu sắc, chẳng đấm vào cái tịch tịnh cu thọ, tưởng, hành, thức, chẳng đấm vào cái chẳng tịch tịnh cu thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng đấm vào cái không cu sắc, chẳng đấm vào cái chẳng không cu sắc, chẳng đấm vào cái không cu thọ, tưởng, hành, thức, chẳng đấm vào cái chẳng không cu thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng đấm vào cái vô tướng cu sắc, chẳng đấm vào cái hữu tướng cu sắc, chẳng đấm vào cái vô tướng cu thọ, tưởng, hành, thức, chẳng đấm vào cái hữu tướng cu thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng đấm vào cái vô nguyện cu sắc, chẳng đấm vào cái hữu nguyện cu sắc, chẳng đấm vào cái vô nguyện cu thọ, tưởng, hành, thức, chẳng đấm vào cái hữu nguyện cu thọ, tưởng, hành, thức. Xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với bác nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, chẳng đấm vào cái có cu nhãn xứ, chẳng đấm vào cái chẳng phải có cu nhãn xứ, chẳng đấm vào cái có cu nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng đấm vào cái chẳng phải có cu nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ. Chẳng đấm vào cái thường của nhãn xứ, chẳng đấm vào cái vô thường của nhãn xứ, chẳng đấm vào cái thường của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng đấm vào cái vô thường của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ. Chẳng đấm vào cái vui của nhãn xứ, chẳng đấm vào cái khổ của nhãn xứ, chẳng đấm vào cái vui của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng đấm vào cái khổ của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ. Chẳng đấm vào cái ngã của nhãn xứ, chẳng đấm vào cái vô ngã của nhãn xứ, chẳng đấm vào cái ngã của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng đấm vào cái vô ngã của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ. Chẳng đấm vào cái tịch tình của nhãn xứ, chẳng đấm vào cái chẳng tịch tình của nhãn xứ, chẳng đấm vào cái tịch tình của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng đấm vào cái chẳng tịch tình của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ. Chẳng đấm vào cái không của nhãn xứ, chẳng đấm vào cái chẳng không của nhãn xứ, chẳng đấm vào cái không của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng đấm vào cái chẳng không của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ. Chẳng đấm vào cái vô tướng của nhãn xứ, chẳng đấm vào cái vô tướng của nhãn xứ, chẳng đấm vào cái vô tướng của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng đấm vào cái vô tướng của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ. Chẳng đấm vào cái vô nguyện của nhãn xứ, chẳng đấm vào cái hữu nguyện của nhãn xứ, chẳng đấm vào cái vô nguyện của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng đấm vào cái hữu nguyện của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ. Xá lợi tử Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đà, vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với Bát Nhã Ba La Mật Đà. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đà, chẳng đấm vào cái có của sát xứ, chẳng đấm vào cái chẳng phải có của sát xứ, chẳng đấm vào cái có của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng đấm vào cái chẳng phải có của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Chẳng đấm vào cái thường của sát xứ, chẳng đấm vào cái vô thường của sát xứ, chẳng đấm vào cái thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng đấm vào cái vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Chẳng đấm vào cái vui của sát xứ, chẳng đấm vào cái khổ của sát xứ, chẳng đấm vào cái vui của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng đấm vào cái khổ của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Chẳng đấm vào cái ngã của sát xứ, chẳng đấm vào cái vô ngã của sát xứ, chẳng đấm vào cái ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng đấm vào cái vô ngã của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Chẳng đấm vào cái tịch tịnh của sát xứ, chẳng đấm vào cái chẳng tịch tịnh của sát xứ, chẳng đấm vào cái tịch tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng đấm vào cái chẳng tịch tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Chẳng đấm vào cái không của sát xứ, chẳng đấm vào cái chẳng không của sát xứ, chẳng đấm vào cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng đấm vào cái chẳng không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Chẳng đấm vào cái vô tướng của sát xứ, chẳng đấm vào cái hữu tướng của sát xứ, chẳng đấm vào cái vô tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng đấm vào cái hữu tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Chẳng đấm vào cái vô nguyện của sát xứ, chẳng đấm vào cái hữu nguyện của sát xứ, chẳng đấm vào cái vô nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng đấm vào cái hữu nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa vì cùng tương ưng với các pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng đấm vào cái có của nhãn giới, chẳng đấm vào cái chẳng phải có của nhãn giới, chẳng đấm vào cái có của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng đấm vào cái chẳng phải có của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Chẳng đấm vào cái thường của nhãn giới, chẳng đấm vào cái vô thường của nhãn giới, chẳng đấm vào cái thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng đấm vào cái vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Chẳng đấm vào cái vui của nhãn giới, chẳng đấm vào cái khổ của nhãn giới, chẳng đấm vào cái vui của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng đấm vào cái khổ của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Chẳng đấm vào cái ngã của nhãn giới, chẳng đấm vào cái vô ngã của nhãn giới, chẳng đấm vào cái ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng đấm vào cái vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Chẳng đấm vào cái tịch tình của nhãn giới, chẳng đấm vào cái chẳng tịch tình của nhãn giới, chẳng đấm vào cái tịch tình của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng đấm vào cái chẳng tịch tình của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Chẳng đấm vào cái không của nhãn giới, chẳng đấm vào cái chẳng không của nhãn giới, chẳng đấm vào cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng đấm vào cái chẳng không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Chẳng đấm vào cái vô tướng của nhãn giới, chẳng đấm vào cái hữu tướng của nhãn giới, chẳng đấm vào cái vô tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng đấm vào cái hữu tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Chẳng đấm vào cái vô nguyện của nhãn giới, chẳng đấm vào cái hữu nguyện của nhãn giới, chẳng đấm vào cái vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng đấm vào cái hữu nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Lại nữa, xá lợi tử Các Đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng đấm vào cái có của sát giới, chẳng đấm vào cái chẳng phải có của sát giới, chẳng đấm vào cái có của thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, chẳng đấm vào cái chẳng phải có của thanh, hương, vị, súc, Pháp giới. Chẳng đấm vào cái thường của sát giới, chẳng đấm vào cái vô thường của sát giới, chẳng đấm vào cái thường của thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, chẳng đấm vào cái vô thường của thanh, hương, vị, súc, Pháp giới. Chẳng đấm vào cái vui của sát giới, chẳng đấm vào cái khổ của sát giới, chẳng đấm vào cái vui của thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, chẳng đấm vào cái khổ của thanh, hương, vị, súc, Pháp giới. Chẳng đấm vào cái ngã của sát giới, chẳng đấm vào cái vô ngã của sát giới, chẳng đấm vào cái ngã của thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, chẳng đấm vào cái vô ngã của thanh, hương, vị, súc, Pháp giới. Chẳng đấm vào cái tịch tịnh của sát giới, chẳng đấm vào cái chẳng tịch tịnh của sát giới, chẳng đấm vào cái tịch tịnh của thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, chẳng đấm vào cái chẳng tịch tịnh của thanh, hương, vị, súc, Pháp giới. Chẳng đấm vào cái không của sát giới, chẳng đấm vào cái chẳng không của sát giới, chẳng đấm vào cái không của thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, chẳng đấm vào cái chẳng không của thanh, hương, vị, súc, Pháp giới. Chẳng đấm vào cái vô tướng của sát giới, chẳng đấm vào cái hữu tướng của sát giới, chẳng đấm vào cái vô tướng của thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, chẳng đấm vào cái hữu tướng của thanh, hương, vị, súc, Pháp giới. Chẳng đấm vào cái vô nguyện của sát giới, chẳng đấm vào cái hữu nguyện của sát giới, chẳng đấm vào cái vô nguyện của thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, chẳng đấm vào cái hữu nguyện của thanh, hương, vị, súc, Pháp giới. Xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng đấm vào cái có của nhãn thức giới, chẳng đấm vào cái chẳng phải có của nhãn thức giới, chẳng đấm vào cái có của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng đấm vào cái chẳng phải có của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới. Chẳng đấm vào cái thường của nhãn thức giới, chẳng đấm vào cái vô thường của nhãn thức giới, chẳng đấm vào cái thường của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng đấm vào cái vô thường của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới. Chẳng đấm vào cái vui của nhãn thức giới, chẳng đấm vào cái khổ của nhãn thức giới, chẳng đấm vào cái vui của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng đấm vào cái khổ của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới. Chẳng đấm vào cái ngã của nhãn thức giới, chẳng đấm vào cái vô ngã của nhãn thức giới, chẳng đấm vào cái ngã của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng đấm vào cái vô ngã của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới. Chẳng đấm vào cái tịch tình của nhãn thức giới, chẳng đấm vào cái chẳng tịch tình của nhãn thức giới, chẳng đấm vào cái tịch tình của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng đấm vào cái chẳng tịch tình của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới. Chẳng đấm vào cái không của nhãn thức giới, chẳng đấm vào cái chẳng không của nhãn thức giới, chẳng đấm vào cái không của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng đấm vào cái chẳng không của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới. Chẳng đấm vào cái vô tướng của nhãn thức giới, chẳng đấm vào cái hữu tướng nhãn thức giới, chẳng đấm vào cái vô tướng của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng đấm vào cái hữu tướng của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới. Chẳng đấm vào cái vô nguyện của nhãn thức giới, chẳng đấm vào cái hữu nguyện của nhãn thức giới, chẳng đấm vào cái vô nguyện của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng đấm vào cái hữu nguyện của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới. Xá lợi tử Các đại Bồ Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa vì cùng tương ưng với các Pháp như vậy nên gọi là cùng tương ưng với bác nhã Ba-la-mật-đa.