Home Page
cover of kinhdaibatnha (473)
kinhdaibatnha (473)

kinhdaibatnha (473)

Phuc Tien

0 followers

00:00-41:42

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech

Audio hosting, extended storage and much more

AI Mastering

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 19 Quyển 473 LXXVII Phẩm Thiện Đạt 03 Như vậy, thiện hiện, khi các Đại Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật Đa sâu xa, tuy không thấy Pháp giới lịa các Pháp, cũng không thấy các Pháp lịa Pháp giới, cũng không thấy hữu tình và sự thật tạo ra kia có thể được, nhưng Pháp sanh phương tiện thiện xảo, tự mình tu hành sáu Ba La Mật Đa, cũng khuyên người khác tu hành sáu Ba La Mật Đa, không tán giá. Tự mình tu hành sáu Ba La Mật Đa, không tán dương trái với sự tu hành sáu Pháp Ba La Mật Đa, hoan hỉ tán tháng người tu hành sáu Ba La Mật Đa. Tự mình thọ trì 10 thiện nghiệp đạo, cũng khuyên người khác thọ trì 10 thiện nghiệp đạo, không tán dương trái với Pháp thọ trì 10 thiện nghiệp đạo, hoan hỉ tán tháng người thọ trì 10 thiện nghiệp đạo. Tự mình thọ trì 5 giới, cũng khuyên người khác thọ trì 5 giới, không tán dương trái với Pháp thọ trì 5 giới, hoan hỉ tán tháng người thọ trì 5 giới. Tự mình thọ trì 8 giới, cũng khuyên người khác thọ trì 8 giới, không tán dương trái với Pháp thọ trì 8 giới, hoan hỉ tán tháng người thọ trì 8 giới. Tự mình thọ trì giới xuất gia, cũng khuyên người khác thọ trì giới xuất gia, không tán dương trái với Pháp thọ trì giới xuất gia, hoan hỉ tán tháng người thọ trì giới xuất gia. Tự mình thọ trì 4 tỉnh lự, cũng khuyên người khác thọ trì 4 tỉnh lự, không tán dương trái với Pháp thọ trì 4 tỉnh lự, hoan hỉ tán tháng người thọ trì 4 tỉnh lự. Tự mình thọ trì 4 vô lượng, cũng khuyên người khác thọ trì 4 vô lượng, không tán dương trái với Pháp thọ trì 4 vô lượng, hoan hỉ tán tháng người thọ trì 4 vô lượng. Tự mình thọ trì 4 định vô sắc, cũng khuyên người khác thọ trì 4 định vô sắc, không tán dương trái với Pháp thọ trì 4 định vô sắc, hoan hỉ tán tháng người thọ trì 4 định vô sắc. Tự mình thọ trì 4 niệm trụ cho đến 8 chi thánh đạo, cũng khuyên người khác thọ trì 4 niệm trụ cho đến 8 chi thánh đạo, không tán dương trái với Pháp thọ trì 4 niệm trụ cho đến 8 chi thánh đạo, hoan hỉ tán tháng người thọ trì 4 niệm trụ cho đến 8 chi thánh đạo. Tự mình tu hành giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện, cũng khuyên người khác tu hành giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện, không tán dương trái với Pháp tu hành giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện, hoan hỉ tán tháng người tu hành giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện. Tự mình an trụ nội không cho đến vô tính tự tính không, cũng khuyên người khác an trụ nội không cho đến vô tính tự tính không, không tán dương trái với Pháp an trụ nội không cho đến vô tính tự tính không, hoan hỉ tán tháng người an trụ nội không cho đến vô tính tự tính không. Tự mình an trụ chân như cho đến cảnh giới bất tương nghị, cũng khuyên người khác an trụ chân như cho đến cảnh giới bất tương nghị, không tán dương trái với Pháp an trụ chân như cho đến cảnh giới bất tương nghị, hoan hỉ tán tháng người an trụ chân như cho đến cảnh giới bất tương nghị. Tự mình an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, cũng khuyên người khác an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, không tán dương trái với Pháp thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, hoan hỉ tán tháng người an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Tự mình tu hành tám giải thoát, cũng khuyên người khác tu hành tám giải thoát, không tán dương trái với Pháp tu hành tám giải thoát, hoan hỉ tán tháng người tu hành tám giải thoát. Tự mình tu hành tám tháng sướng, cũng khuyên người khác tu hành tám tháng sướng, không tán dương trái với Pháp tu hành tám tháng sướng, hoan hỉ tán tháng người tu hành tám tám tháng sướng. Tự mình tu hành chính định thứ đệ, cũng khuyên người khác tu hành chính định thứ đệ, không tán dương trái với Pháp tu hành chính định thứ đệ, hoan hỉ tán tháng người tu hành chính định thứ đệ. Tự mình tu hành mười biến sướng, cũng khuyên người khác tu hành mười biến sướng, không tán dương trái với Pháp tu hành mười biến sướng, hoan hỉ tán tháng người tu hành mười biến sướng. Tự mình tu hành mười địa Bồ Tát, cũng khuyên người khác tu hành mười địa Bồ Tát, không tán dương trái với Pháp tu hành mười địa Bồ Tát, hoan hỉ tán tháng người tu hành mười địa Bồ Tát. Tự mình tu hành tất cả môn Đà-La-Ni, cũng khuyên người khác tu hành tất cả môn Đà-La-Ni, không tán dương trái với Pháp tu hành tất cả môn Đà-La-Ni, hoan hỉ tán tháng người tu hành tất cả môn Đà-La-Ni. Tự mình tu hành tất cả môn Tam-Ma-Địa, cũng khuyên người khác tu hành tất cả môn Tam-Ma-Địa, không tán dương trái với Pháp tu hành tất cả môn Tam-Ma-Địa, hoan hỉ tán tháng người tu hành tất cả môn Tam-Ma-Địa. Tự mình viên mãn 5 căng, cũng khiến người khác viên mãn 5 căng, không tán dương trái với Pháp viên mãn 5 căng, hoan hỉ tán tháng người viên mãn 5 căng. Tự mình viên mãn 6 thần thông, cũng khiến người khác viên mãn 6 thần thông, không tán dương trái với Pháp viên mãn 6 thần thông, hoan hỉ tán tháng người viên mãn 6 thần thông. Tự mình viên mãn 10 lực như lai, cũng khiến người khác viên mãn 10 lực như lai, không tán dương trái với Pháp viên mãn 10 lực như lai, hoan hỉ tán tháng người viên mãn 10 lực như lai. Tự mình viên mãn 4 điều không sợ, cũng khiến người khác viên mãn 4 điều không sợ, không tán dương trái với Pháp viên mãn 4 điều không sợ, hoan hỉ tán tháng người viên mãn 4 điều không sợ. Tự mình viên mãn 4 vô ngại giải, cũng khiến người khác viên mãn 4 vô ngại giải, không tán dương trái với Pháp viên mãn 4 vô ngại giải, hoan hỉ tán tháng người viên mãn 4 vô ngại giải. Tự mình viên mãn đại tử, đại bi, đại hỉ, đại xã, cũng khiến người khác viên mãn đại tử, đại bi, đại hỉ, đại xã, không tán dương trái với Pháp viên mãn đại tử, đại bi, đại hỉ, đại xã, hoan hỉ tán tháng người viên mãn đại tử, đại bi, đại hỉ, đại xã. Tự mình viên mãn 18 Pháp Phật Bất Cộng, cũng khiến người khác viên mãn 18 Pháp Phật Bất Cộng, không tán dương trái với Pháp viên mãn 18 Pháp Phật Bất Cộng, hoan hỉ tán tháng người viên mãn 18 Pháp Phật Bất Cộng. Tự mình viên mãn Pháp Không Quên Mất, cũng khiến người khác viên mãn Pháp Không Quên Mất, không tán dương trái với Pháp viên mãn Pháp Không Quên Mất, hoan hỉ tán tháng người viên mãn Pháp Không Quên Mất. Tự mình viên mãn Tánh Luân Luân Xã, cũng khiến người khác viên mãn Tánh Luân Luân Xã, không tán dương trái với Pháp viên mãn Tánh Luân Luân Xã, hoan hỉ tán tháng người viên mãn Tánh Luân Luân Xã. Tự mình viên mãn Trí Nhất Thiết, cũng khiến người khác viên mãn Trí Nhất Thiết, không tán dương trái với Pháp viên mãn Trí Nhất Thiết, hoan hỉ tán tháng người viên mãn Trí Nhất Thiết. Tự mình viên mãn Trí Đạo Tướng, cũng khiến người khác viên mãn Trí Đạo Tướng, không tán dương trái với Pháp viên mãn Trí Đạo Tướng, hoan hỉ tán tháng người viên mãn Trí Đạo Tướng. Tự mình viên mãn Trí Nhất Thiết Tướng, cũng khiến người khác viên mãn Trí Nhất Thiết Tướng, không tán dương trái với Pháp viên mãn Trí Nhất Thiết Tướng, hoan hỉ tán tháng người viên mãn Trí Nhất Thiết Tướng. Tự mình viên mãn 32 tướng đại sĩ và 80 vẻ đẹp, cũng khiến người khác viên mãn 32 tướng đại sĩ và 80 vẻ đẹp, không tán dương trái với Pháp viên mãn 32 tướng đại sĩ và 80 vẻ đẹp, hoan hỉ tán tháng người viên mãn 32 tướng đại sĩ và 80 vẻ đẹp. Này thiện hiện! Nếu biên tế đầu, giữa, cuối của chân Pháp giới có sai khác thì khi các đại Bồ Tát hành bác nhã Balamuddha sâu xa, không thể phát khởi phương tiện thiện xảo, vì các hữu tình mà nói chân Pháp giới, nhiên tình cõi Phật, thành thuộc hữu tình, tu các hành đại Bồ Tát, chứng đắc vô thường chánh đẳng Bồ Đề, làm lợi lạc cho tất cả đến tận đời vị lai. Vì biên tế đầu, giữa, cuối của chân Pháp giới thường không sai khác, nên khi đại Bồ Tát hành bác nhã Balamuddha sâu xa, khéo phát khởi phương tiện thiện xảo, vì các hữu tình mà nói chân Pháp giới, nhiên tình cõi Phật, thành thuộc hữu tình, tu các hành đại Bồ Tát, chứng đắc vô thường chánh đẳng Bồ Đề, làm lợi lạc cho tất cả đến tận đời vị lai. LXXVII Phẩm Thật Tế 01 7. Giời Cụ Thọ Thiện Hiện Bạch Phật Bạch Đức Thế Tôn Nếu các hữu tình kiến lập hữu tình thì hoàn toàn chẳng thể được. Vậy, các đại Bồ Tát vì ai mà hành bác nhã Balamuddha sâu xa? Phật bảo Này Thiện Hiện, các đại Bồ Tát chỉ lấy thực tế làm lượng mà hành bác nhã Balamuddha sâu xa. Thiện Hiện nên biết, nếu hữu tình tế khác với thực tế thì không nên hành bác nhã Balamuddha sâu xa. Vì hữu tình tế không khác với thực tế nên chúng đại Bồ Tát vì các hữu tình mà hành bác nhã Balamuddha sâu xa. Lại nửa Thiện Hiện Khi các đại Bồ Tát hành bác nhã Balamuddha sâu xa, không hoại pháp thực tế, an lập hữu tình khiến cho trụ pháp thực tế. Cụ Thọ Thiện Hiện Bạch Phật Bạch Đức Thế Tôn Nếu hữu tình tế tức là thực tế thì tại sao đại Bồ Tát khi hành bác nhã Balamuddha sâu xa, không hoại pháp thực tế, an lập hữu tình khiến cho trụ thực tế. Bạch Đức Thế Tôn Nếu khi đại Bồ Tát hành bác nhã Balamuddha sâu xa, an trụ hữu tình, khiến cho trụ thực tế thì tức là an trụ thực tế, khiến cho trụ thực tế. Bạch Đức Thế Tôn Nếu khi đại Bồ Tát hành bác nhã Balamuddha sâu xa, an lập thực tế, khiến cho trụ thực tế thì tức là an lập tự tánh, khiến cho trụ tự tánh. Nhưng đúng lý thì không nên an lập tự tánh, khiến cho an trụ tự tánh, vậy tại sao có thể nói khi các đại Bồ Tát hành bác nhã Balamuddha sâu xa, không hoại pháp thực tế, an lập hữu tình, khiến trụ thực tế. Phật Bảo Này Thiện Hiện Không thể an lập thực tế, khiến trụ thực tế, cũng không thể an lập tự tánh, khiến trụ tự tánh. Nhưng khi các đại Bồ Tát hành bác nhã Balamuddha sâu xa, vì có phương tiện thiện xảo, nên có khả năng an lập hữu tình, khiến trụ thực tế, mà hữu tình không khác với thực tế, hữu tình tế và thực tế không hai, không khác. Cụ Thọ Thiện Hiện Lại Bạch Phật Bạch Đức Thế Tôn Thế nào gọi là phương tiện thiện xảo của các đại Bồ Tát, khi các đại Bồ Tát hành bác nhã Balamuddha sâu xa, nhờ lực phương tiện thiện xảo này nên an lập hữu tình, khiến trụ thực tế, mà không hoại tứng thực tế? Phật Bảo Này Thiện Hiện Vì các đại Bồ Tát hành bác nhã Balamuddha sâu xa, thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, do lực phương tiện thiện xảo này nên an lập hữu tình, khiến trụ bố thí. Sau khi an lập xong, vì họ mà nói tướng trước, sau, giữa của sự bố thí không có khác nhau. Nghĩa là nói bố thí như vậy thì trước, sau, giữa hoàn toàn đều là không. Người thí, người thọ thí và kết quả thí được cũng đều là không. Tất cả pháp như vậy ở trong thực tế đều vô sở hữu, đều chẳng thể đắt. Các ông chớ cho rằng sự bố thí, người thí, người thọ thí và quả thí mỗi mỗi khác nhau. Nếu các ông không chấp sự bố thí, người thí, người thọ thí và quả thí đều khác nhau thì việc tu thí phước sẽ hướng đến cam lộ, được quả cam lộ, nhất định lấy cam lộ làm hậu biên. Lại nói như vậy, các ông dùng pháp tu bố thí này, chở nắm dự sách cho đến thức, chở nắm dự nhãn xứ cho đến ý xứ, chở nắm dự sách xứ cho đến pháp xứ, chở nắm dự nhãn giới cho đến ý giới, chở nắm dự sách giới cho đến pháp giới, chở nắm dự nhãn thức giới cho đến ý thức giới, chở nắm dự nhãn xuất cho đến ý xuất, chở nắm dự nhãn xuất làm duyên sanh ra các thọ, chở nắm dự địa giới cho đến thức giới, chở nắm dự nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, chở nắm. Giữ từ duyên sanh ra các pháp, chở nắm dự vô minh cho đến lão tử, chở nắm dự bố thí ba la mật đa cho đến bát ngã ba la mật đa, chở nắm dự bốn tỉnh lự, bốn vô lượng, ổn định vô sắc, chở nắm dự bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, chở nắm dự giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện, chở nắm dự nội không cho đến vô tính tự tính không, chở nắm dự chân như cho đến cảnh giới bất tư nghi, chở nắm dự thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, chở nắm dự tám giải thoát cho đến mười biến Chở nắm dự tình quán địa cho đến như lai địa, chở nắm dự cực khỉ địa cho đến pháp vân địa, chở nắm dự tất cả môn đa la ni, môn ta ma địa, chở nắm dự năm loại mắt, sáu thần thông, chở nắm dự mười lực như lai cho đến mười tám pháp phật bất cộng, chở nắm dự ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp, chở nắm dự pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, chở nắm dự trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chở nắm dự quả dự lưu cho đến quả độc giác, chở nắm dự tất cả hành đại bồ, tác, chở nắm dự vô thường tránh đẳng bồ đề của chư Phật, chở nắm dự pháp thiện, pháp ác, chở nắm dự pháp hữu ký, vô ký, chở nắm dự pháp hữu lậu, vô lậu, chở nắm dự pháp thế gian, suốt thế gian, chở nắm dự pháp hữu vi, vô vi. Vì sao vậy? Vì tất cả sự bố thí, tánh bố thí đều không. Tất cả người thí, tánh người thí đều không. Tất cả quả thí, tánh quả thí đều không. Trong không ấy, sự thí, người thí, người thọ thí và các quả thí đều chẳng thể được. Vì sao vậy? Vì tự tánh sai biệt của các pháp như vậy, hoàn toàn không. Trong không rốt tráo ấy, các pháp như vậy đều không thể được. Do các pháp đây chẳng thể được, nên nắm dự pháp khác cũng chẳng thể được. Lại nửa thiện hiện. Khi các đại Bồ Tát hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy. Do lực phương tiện thiện xảo này, nên an lập hữu tình khiến trụ tịnh giới. Sau khi an lập xong, lại nói như vậy, ngày nay, đối với các hữu tình, các ông nên hết lòng thương yêu, lì bỏ sự giết hại sanh mạng, cho đến lì bỏ tà kiến, tu hành chánh kiến. Vì sao vậy? Vì các pháp như vậy đều không có tự tánh. Các ông không nên phân biệt chấp trước. Các ông phải nên như thật quan sát, pháp nào gọi là sanh, sao muốn đoạn mạng sống ấy, lại dùng nhân duyên gì mà đoạn mạng sống ấy, nói rộng cho đến pháp nào gọi là cảnh tà kiến, sao muốn khởi tà kiến. Lại vì nhân duyên gì mà khởi tà kiến. Tất cả pháp như vậy, tự tánh đều không. Này thiện hiện! Khi Đại Bồ Tát ấy hành bác nhã Palamatta sâu xa, thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, hay khéo thành thuộc các loại hữu tình, dùng vô lượng môn giảng nói bố thí và quả tịnh giới đều chẳng thể được, khiến cho họ biết tự tánh của sự bố thí và quả tịnh giới đều không. Họ đã biết tự tánh của sự tu bố thí và quả tịnh giới đều không rồi, nên ở trong ấy không sanh chấp trước. Do không chấp trước nên tâm không tán loạn. Do tâm không tán loạn nên có khả năng phát sanh diệu tuệ. Nhờ diệu tuệ này mà đoạn trừ vĩnh viễn tùy miên và các triền phược, rồi nhập vào cảnh giới vô dư y bác nhiết bàn. Này thiện hiện! Như vậy, nương vào thế tục mà nói, chẳng phải nương vào thắng nghĩa. Vì sao vậy? Vì trong không, không có một chút pháp nào có thể nắm bắt được. Hoặc đã nhiết bàn, hoặc sẽ nhiết bàn, hoặc nay nhiết bàn, hoặc người nhiết bàn, hoặc do đây nên được bắt nhiết bàn, tất cả pháp như vậy, đều không thật có, đều rốt tráo không? Tánh không rốt tráo tức là nhiết bàn, liên nhiết bàn này không có pháp khác. Lại nữa thiện hiện! Khi các đại Bồ Tát hành bác nhã Palamata sâu xa, thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy. Nhờ lực phương tiện thiện xảo này, nên thấy tâm các hữu tình nhiều sân hận, liền hết lòng thương yêu dạy bảo, điều phục tâm họ khiến cho nhận hành an nhẫn. Nói như vậy, này các ông nên tu an nhẫn, vui với pháp an nhẫn. Pháp mà các ông sân, tự tánh đều không? Vì sao đối với pháp ấy lại sanh tâm sân hận? Các ông nên như thật quan sát, do pháp nào mà ta sanh sân hận, ai sân hận, sân hận với ai? Các pháp như vậy đều là bản tánh không? Pháp bản tánh không chưa từng chẳng không? Tánh không như vậy, chẳng phải Phật tạo ra, chẳng phải Bồ Tát tạo ra, chẳng phải độc giác tạo ra, chẳng phải thanh văn tạo ra, cũng chẳng phải trời, đồng, các thần dược xoa, kiền đạc phượt, ta tố lạc, ít lộ trà, phẫn nại lạc, mạc hô lạc già, nhân, phi nhân tạo ra, cũng chẳng phải trời tứ đại vương chúng cho đến trời tha hóa tự tại tạo ra, cũng chẳng phải trời phạm chúng cho đến trời sát cứu cánh tạo ra, cũng chẳng phải trời không vô biên xứ cho đến trời phi tưởng phi phi tưởng xứ tạo ra. Các ông lại nên như thật quan sát, sân hận như vậy do đau sanh, thuộc về ai, ai khởi, sẽ được quả gì, hiện tại được lợi gì. Tất cả Pháp này đều là bản tánh không, chẳng phải trong tánh không mà có sân hận, cho nên an nhẫn để tự được lợi ích. Như vậy thiện hiện. Khi các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, thành tựu phương tiện thiện xảo tối thắng, an lập hữu tình nơi lý tánh không, nhân quả của tánh không, dần dần đen Pháp vô thường chánh đẳng bồ đề chỉ dậy, vui vẻ khuyến khích cổ vũ khiến cho an trụ sớm được chứng đắt. Này thiện hiện. Như vậy là nương vào thế tục mà nói, chẳng phải nương vào thắng nghĩa. Vì sao vậy? Vì trong bản tánh không, tất cả năng đắt, sở đắt, đắt thướng, đắt thời đều chẳng phải có. Thiện hiện nên biết. Đó gọi là lý thực tế bản tánh không. Các đại Bồ Tát vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình, nên nương vào lý thực tế bản tánh không này mà hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, chẳng thấy có hữu tình và Pháp tạo ra. Vì sao vậy? Này thiện hiện. Vì tất cả Pháp lia hữu tình. Vì lia hữu tình nên Pháp chẳng thể đắt. Pháp và hữu tình an lập đối đại mà có. Lại nữa thiện hiện. Khi các đại Bồ Tát hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy. Do lực phương tiện thiện xảo này, nên thấy thân tâm của các hữu tình biến nhát, thối mất tinh tấn, mới liền khít lệ làm cho Pháp khởi thân tâm tinh tấn, tu các thiện Pháp, bằng những lời như vậy, này các thiện nam. Các ông nên viên nhận, tin sâu, trong bản tánh không, không có Pháp biến nhát, không có người biến nhát, không có sứ biến nhát, không có thời biến nhát. Không do Pháp đây mà Pháp sanh biến nhát. Tất cả Pháp như vậy, bản tánh đều không, không vượt qua lý không. Các ông nên Pháp khởi thân tâm tinh tấn, xả bỏ các sự biến nhát, chuyên cần tu thiện Pháp. Đó là tu Bố Thí-Ba-La-Mật-Đa cho đến Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Hoặc tu 4 tỉnh lử, 4 vô lượng, 4 định vô sắc. Hoặc tu 4 niệm trụ cho đến 8 chi thánh đạo. Hoặc tu giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện. Hoặc trụ nội không cho đến vô tính tự tính không. Hoặc trụ chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghỉ bàn. Hoặc trụ thánh đế khổ, tập, việt, đạo. Hoặc tu 8 giải thoát cho đến 10 biến xướng. Hoặc tu tỉnh quán địa cho đến như lai địa. Hoặc tu cực khỉ địa cho đến Pháp vân địa. Hoặc tu tất cả môn Đà-La-Ni, môn Tam-Ma địa. Hoặc tu 5 loại mắt, 6 thần thông. Hoặc tu 10 lực nhiêu lai cho đến 18 Pháp Phật bất cộng. Hoặc tu 32 tướng đại sĩ, 80 vẻ đẹp. Hoặc tu Pháp không quên mất, tảnh luôn luôn xã. Hoặc tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Hoặc tu quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề. Hoặc tu tất cả hành đại Bồ-Tát. Hoặc tu vô thượng chánh đẳng bồ đề của chư Phật. Hoặc tu vô lượng các Phật khác. Đại Bồ-Tát nên khuyên họ tinh tấn, chở sanh biến nhát. Nếu sanh biến nhát thì thọ khổ vô cùng. Này các thiện nam! Tất cả Pháp này đều bản tánh không, không có các chướng ngại. Các ông nên quán lý bản tánh không. Trong ấy, không có chướng ngại, không có Pháp biến nhát, không có người biến nhát. Duyên xứ, thời ấy cũng chẳng thể được. Như vậy thiện hiện. Khi các đại Bồ-Tát hành bác nhã Palamuddha sâu xa, thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, an lập hữu tình, khiến cho trụ lý bản tánh không của các Pháp. Tuy làm cho an trụ, nhưng không có hai tưởng. Vì sao vậy? Vì lý bản tánh không không có hai, không phân biệt, chẳng thể ở trong Pháp không hai mà tác hai tưởng. Lại nữa thiện hiện. Đại Bồ-Tát này hành bác nhã Palamuddha sâu xa, nương vào bản tánh không mà giáo giới dạy bảo các loài hữu tình, khiến cho tinh trần tu học, bằng những lời như vậy. Này các thiện Nam! Đối với thiện Pháp, các ông nên chuyên trần tinh tấn tu tập. Như khi tu tập bố thí Palamuddha cho đến bác nhã Palamuddha, đối với các Pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tưởng hay không hai tưởng. Hoặc khi tu bốn tỉnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, đối với các Pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tưởng hay không hai tưởng. Hoặc khi tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, đối với các Pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tưởng hay không hai tưởng. Hoặc khi tu giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện, đối với các Pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tưởng hay không hai tưởng. Hoặc khi trụ nội không cho đến vô tính tự tính không, đối với các Pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tưởng hay không hai tưởng. Hoặc khi trụ chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, đối với các Pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tưởng hay không hai tưởng. Hoặc khi trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, đối với các Pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tưởng hay không hai tưởng. Hoặc khi tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ, đối với các Pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tưởng hay không hai tưởng. Hoặc khi tu tỉnh quán địa cho đến như lai địa, đối với các Pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tưởng hay không hai tưởng. Hoặc khi tu cực khỉ địa cho đến Pháp vân địa, đối với các Pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tưởng hay không hai tưởng. Hoặc khi tu tất cả môn Đà-La-Ni, môn Tam-Ma-Địa, đối với các Pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tưởng hay không hai tưởng. Hoặc khi tu năm loại mắt, sáu thần thông, đối với các Pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tưởng hay không hai tưởng. Hoặc khi tu mười lực như lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng, đối với các Pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tưởng hay không hai tưởng. Hoặc khi tu ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp, đối với các Pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tưởng hay không hai tưởng. Hoặc khi tu Pháp không quên mất, tảnh luôn luôn xả, đối với các Pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tưởng hay không hai tưởng. Hoặc khi tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, đối với các Pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tướng hay không hai tướng. Hoặc khi tu quả dự lưu cho đến độc giác bồ đệ, đối với các Pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tướng hay không hai tướng. Hoặc khi tu tất cả hạnh đại Bồ Tát, vô thượng chánh đẳng bồ đệ của chư Phật, đối với các Pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tướng hay không hai tướng. Hoặc khi tu vô lượng các Phật Pháp khác, đối với các Pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tướng hay không hai tướng. Vì sao vậy? Này thiện nam tử! Vì các Pháp như vậy đều bản tánh không? Trong lý bản tánh không, không nên tư duy phân biệt hai hay không hai. Như vậy thiện hiện! Các đại Bồ Tát hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, hành Bồ Tát hành, thành thuộc hữu tình. Các loài hữu tình sau khi được thành thuộc, tùy theo sự ứng hợp với mình mà được an lập dần theo thứ lớp, như làm cho họ trụ quả dự lưu, hoặc làm cho trụ quả nhất lai, hoặc làm cho trụ quả bất hoàng, hoặc làm cho trụ quả A-la-hán, hoặc làm cho trụ độc giác bồ đề, hoặc làm cho trụ ngôi vị thu thắng của Bồ Tát, hoặc làm cho trụ vô thường chánh đẳng bồ đề. Lại nửa thiện hiện! Khi các đại Bồ Tát hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, do lực phương tiện này nên thấy tâm của các hữu tình rất là tán loạn. Đối với các cảnh dục, hữu tình chẳng thể thu nhếp các căng, phát sanh đủ loại nghiệt chẳng tịch tỉnh. Thế vậy, đại Bồ Tát dùng phương tiện làm cho họ nhập vào định thu thắng và dạy như vậy. Lại đây thiện nam! Ông nên tu tập tam ma địa thu thắng, trở khởi tâm tán loạn và tưởng thắng định. Vì sao vậy? Vì tất cả pháp này đều là bản tánh không. Trong bản tánh không, không có pháp để được, không có tên gọi tán loạn hay tên gọi nhất tâm. Nếu các ông trụ định thu thắng này làm các việc thiện thì đều sớm được thành tựu viên mãn, cũng tùy theo sở dục mà trụ bản tánh không. Thế nào gọi là làm các việc thiện? Đó là phát khởi thân, ngữ, ý nghiệp thanh tịnh thu thắng. Như tu bố thí ba la mật đa cho đến bát nhã ba la mật đa. Hoặc tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Hoặc tu giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện. Hoặc trụ nội không cho đến vô tính tự tính không. Hoặc trụ chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Hoặc trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Hoặc tu bốn tỉnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Hoặc tu tám giải thoát cho đến mười biến khướng. Hoặc tu tịnh quán địa cho đến như lai địa. Hoặc hướng đến chánh tánh ly xanh của Bồ Tát. Hoặc tu cực khỉ địa cho đến pháp vân địa. Hoặc tu tất cả môn Đà-La-Ni, môn Tam-Ma địa. Hoặc tu năm loại mắt, sáu thần thông. Hoặc tu mười lực như lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Hoặc tu ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp. Hoặc tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã. Hoặc tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Hoặc tu quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề. Hoặc tu hành đại Bồ Tát và vô thường chánh đẳng bồ đề của chiêu Phật. Hoặc thành thuộc hữu tình nhiên tình cõi Phật. Tất cả thiện pháp thù thắng như vậy đều do định lực thù thắng mà sớm thành tựu, và tùy theo sở nguyện mà trụ bản tánh không. Như vậy thiện hiện. Các đại Bồ Tát tu hành phương tiện thiện xảo bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, từ sơ phát tâm cho đến cứu cánh, không làm điều thiện lợi ích thường không gián đoạn. Vì muốn làm lợi lạc cho các hữu tình, nên từ cõi Phật này đến cõi Phật kia, đại Bồ Tát gần gũi cúng dường chiêu Phật thế tôn, ở chỗ chiêu Phật, nghe nhận giáo pháp, bỏ thân, thọ thân, trải qua vô lượng kiếp cho đến khi thành tựu vô thường chánh đẳng bồ đề. Trong thời gian ấy, đại Bồ Tát không bao giờ quên mất. Đại Bồ Tát này Đắc Đà-la-Ni, các căng không giảm. Vì sao vậy? Vì đại Bồ Tát này thường khéo tu đầy đủ trí nhất thiết trí, nên các việc làm đều được tư duy chân chánh. Do khéo tu đầy đủ trí nhất thiết trí, các việc làm đều được tư duy chân chánh, nên đối với tất cả đạo, đều có thể tu tập. Đó là đạo Thanh Văn, hoặc đạo Độc Giác, hoặc đạo Bồ Tát, hoặc đạo chiêu Phật, hoặc Thiên đạo Thù Thắng, hoặc Nhân đạo Thù Thắng, hoặc đạo Thần Thông Thù Thắng của chiêu Bồ Tát. Các đại Bồ Tát này, do trụ đạo Thần Thông Thù Thắng, nên thường làm các việc lợi ích cho các hữu tình. Tuy trải qua các cõi sanh tử luân hồi, nhưng Thần Thông Thù Thắng vẫn thường không thối giảm. Do Thần Thông dị thuộc không thối giảm, nên thường làm việc lợi ích Thù Thắng cho mình và người. Như vậy thiện hiện, các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, trụ bản tánh không, bằng phương tiện thiện xảo, khéo làm lợi lạc cho các loài hữu tình, sớm chứng vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Lại nữa thiện hiện, khi các đại Bồ Tát hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy. Do lực phương tiện thiện xảo này nên trụ bản tánh không, thấy các hữu tình trí tuệ kém mỏng, ngu si điên đảo, tạo các ác nghiệp, đại Bồ Tát phương tiện dẫn họ nhập vào Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, bằng lời dạy như vậy. Lại đây thiện nam tử, các ông nên tu Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, quán bản tánh không tịch của tất cả Pháp. Nếu các ông khéo tu tập Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa đây, quán bản tánh không tịch của tất cả Pháp, thì thân nữ ý nghiệp mà các ông tu hành đều hướng đến trăm lộ, được quả trăm lộ, nhất định lấy trăm lộ làm hậu biên. Này các thiện nam, tất cả Pháp này đều bản tánh không. Trong bản tánh không, hữu tình và Pháp tuy chẳng thể đắt được, nhưng việc tu hành không có thối mất. Vì sao vậy? Này thiện nam tử, vì lý bản tánh không chẳng tăng, chẳng giảm. Trong bản tánh không, Pháp cũng không tăng, không giảm. Vì sao vậy? Vì lý bản tánh không lấy vô tánh làm tánh, lì các sự phân biệt, tuyệt dứt các khí luận, nên ở trong đây, Pháp không tăng giảm. Do đây, việc làm cũng không thối mất. Vì vậy, các ông phải nên tu tập Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, quán bản tánh không, làm việc nên làm. Như vậy thiện hiện, các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, phương tiện khéo léo dạy bảo, trao truyền cho các hữu tình, khiến cho nhập vào Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, trụ bản tánh không, tu các nghiệp thiện. Này thiện hiện, Đại Bồ Tát ấy dạy bảo, trao truyền cho các hữu tình như vậy, thường không biến nhát phế bỏ. Nghĩa là tự mình thường hành 10 thiện nghiệp đạo, cũng khuyên người khác thường hành 10 thiện nghiệp đạo. Tự mình thường thọ trì 5 giới cận sự, cũng khuyên người khác thường thọ trì 5 giới cận sự. Tự mình thường thọ trì 8 giới cận trụ, cũng khuyên người khác thọ trì 8 giới cận trụ. Tự mình thường thọ trì giới xuất gia, cũng khuyên người khác thường thọ trì giới xuất gia. Tự mình thường tu hành 4 tỉnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, cũng khuyên người khác thường tu hành 4 tỉnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc. Tự mình thường tu 4 niệm trụ cho đến 8 chi thánh đạo, cũng khuyên người khác thường tu 4 niệm trụ cho đến 8 chi thánh đạo. Tự mình thường tu giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện, cũng khuyên người khác thường tu giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện. Tự mình thường tu hành bố thí Ba-la-mật-đa cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác thường tu hành bố thí Ba-la-mật-đa cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa. Tự mình thường trụ nội không cho đến vô tính tự tính không, cũng khuyên người khác thường trụ nội không cho đến vô tính tự tính không. Tự mình thường an trụ chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghỉ bàn, cũng khuyên người khác thường an trụ chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghỉ bàn. Tự mình thường an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, cũng khuyên người khác thường an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Tự mình thường tu hành 8 giải thoát cho đến 10 điến xứ, cũng khuyên người khác thường tu hành 8 giải thoát cho đến 10 điến xứ. Tự mình thường tu hành các địa Bồ Tát, cũng khuyên người khác thường tu hành các địa Bồ Tát. Tự mình thường tu hành tất cả môn Đà-la-Ni, môn Tam-ma-địa, cũng khuyên người khác thường tu hành tất cả môn Đà-la-Ni, môn Tam-ma-địa. Tự mình thường tu học 5 loại mắt, 6 thần thông, cũng khuyên người khác thường tu học 5 loại mắt, 6 thần thông. Tự mình thường tu học 10 lực như Lai cho đến 18 Pháp Phật bất cộng, cũng khuyên người khác thường tu học 10 lực như Lai cho đến 18 Pháp Phật bất cộng. Tự mình thường tu học 32 tướng đại sĩ, 80 vẽ đẹp, cũng khuyên người khác thường tu học 32 tướng đại sĩ, 80 vẽ đẹp. Tự mình thường tu học Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã, cũng khuyên người khác thường tu học Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã. Tự mình thường tu học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng khuyên người khác thường tu học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Tự mình thường phát khởi trí quả dự lưu cho đến trí độc giác Bồ Đề, cũng khuyên người khác thường phát khởi trí quả dự lưu cho đến trí độc giác Bồ Đề, hoặc khiến cho trụ quả dự lưu cho đến trụ độc giác Bồ Đề. Tự mình thường phát khởi các hành đại Bồ Tát, cũng khuyên người khác thường phát khởi các hành đại Bồ Tát. Tự mình thường phát khởi đạo vô thường chánh đẳng Bồ Đề của chư Phật, cũng khuyên người khác thường phát khởi đạo vô thường chánh đẳng Bồ Đề của chư Phật. Như vậy thiện hiện, khi các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, tự tu nghiệp thiện, thường không biến nhát phế bỏ, dạy bảo truyền trao cho các loài hữu tình, khiến cho cũng tu nghiệp thiện thường không biến nhát phế bỏ. Này thiện hiện, đó gọi là các đại Bồ Tát khi hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, do lực phương tiện thiện xảo này, nên an lập hữu tình ở trong thực tế, mà chẳng hoại tướng thực tế. Bây giờ, cụ thọ thiện hiện Bạch Phật, Bạch Đức Thế Tôn. Nếu tất cả Pháp đều bản tánh không, thì trong bản tánh không này, hữu tình và Pháp đều chẳng thể nắm bắt được, do ở trong đây không có phi pháp. Vậy, tại sao đại Bồ Tát vì loài hữu tình mà cầu chứng đắc vô thường chánh đẳng Bồ Đề, muốn thường làm lợi ích cho đến tận đời vị lai? Phật bảo thiện hiện, đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói, tất cả các Pháp đều bản tánh không. Trong bản tánh không, hữu tình và Pháp đều chẳng thể nắm bắt được, do ở trong đây không có phi pháp. Thiện hiện nên biết, nếu tất cả Pháp chẳng phải bản tánh không, thì khi các đại Bồ Tát hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên an trụ lý bản tánh không, cầu chứng vô thường chánh đẳng Bồ Đề, làm lợi ích hữu tình, nói Pháp bản tánh không. Vì tất cả Pháp đều bản tánh không, cho nên khi đại Bồ Tát hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, trụ lý bản tánh không của tất cả Pháp, cầu chứng vô thường chánh đẳng Bồ Đề, làm lợi ích hữu tình, mà nói Pháp bản tánh không. Này thiện hiện, những Pháp nào bản tánh đều không, mà khi các đại Bồ Tát hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, như thật liễu tri bản tánh không rồi, trụ bản tánh không vì người nói Pháp. Này thiện hiện, sắc cho đến thức, bản tánh đều không. Nhãn xứ cho đến ý xứ, bản tánh đều không. Sắc xứ cho đến Pháp xứ, bản tánh đều không. Nhãn giới cho đến ý giới, bản tánh đều không. Sắc giới cho đến Pháp giới, bản tánh đều không. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới, bản tánh đều không. Nhãn xuất cho đến ý xuất, bản tánh đều không. Nhãn xuất làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xuất làm duyên sanh ra các thọ, bản tánh đều không. Địa giới cho đến thức giới, bản tánh đều không. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, bản tánh đều không. Các Pháp từ duyên sanh ra, bản tánh đều không. Vô minh cho đến lão tử, bản tánh đều không. Bố thí ba la mật đa cho đến bác nhã ba la mật đa, bản tánh đều không. Bốn tỉnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, bản tánh đều không. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, bản tánh đều không. Giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện, bản tánh đều không. Nội không cho đến vô tính tự tính không, bản tánh đều không. Chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, bản tánh đều không. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, bản tánh đều không. Tám giải thoát cho đến mười biến xướng, bản tánh đều không. Hình quán địa cho đến như lai địa, bản tánh đều không. Trực khỉ địa cho đến Pháp vân địa, bản tánh đều không. Tất cả môn Đà La Ni, môn Tam Ma địa, bản tánh đều không. Năm loại mắt, sáu thần thông, bản tánh đều không. Mười lực như lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng, bản tánh đều không. Ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp, bản tánh đều không. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, bản tánh đều không. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, bản tánh đều không. Quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề, bản tánh đều không. Tất cả hạnh đại Bồ Tát, bản tánh đều không. Vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật, bản tánh đều không. Sự đoàn trừ vĩnh viễn tất cả phiền não tập khí tương tục, bản tánh đều không. Khi các đại Bồ Tát hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, như thật liễu tri các quẩn, sắc, cho đến dứt hẳn các phiền não tập khí tương tục, bản tánh không rồi, liên trụ bản tánh không, vì các hữu tình mà tuyên thuyết Pháp bản tánh không như vậy. Lại nửa thiện hiện. Nếu tánh nội không bản tánh chẳng không, hoặc tánh ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán vô tán không, bản tánh không, tự cộng tướng không, nhất thiết Pháp không, bất xả đắc không, vô tánh không, tự tính không, vô tính tự tính không, bản tánh cũng chẳng không, thì khi các đại Bồ Tát hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, chẳng nên vì các hữu tình mà nói tất cả Pháp bản tánh đều không. Nếu nói như vậy là hoại bản tánh không, nhưng lý bản tánh không chẳng thể hoại, chẳng phải thường cũng chẳng phải đoạn. Vì sao vậy? Vì lý bản tánh không vô phương, vô xứ, không từ đâu đến, cũng không đi về đâu. Lý không như vậy cũng gọi là Pháp trụ. Trong ấy không có Pháp, không tụ, không tán, không giảm, không tăng, không sanh, không diệt, không sạch, không dơ. Tất cả Pháp ấy vốn trụ tánh như vậy. Các đại Bồ Tát an trụ trong ấy cầu chứng vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, nhưng không thấy có Pháp, có chỗ mong cầu hướng đến. Vì tất cả Pháp đều không có chỗ trụ nên gọi là trụ Pháp. Các đại Bồ Tát an trụ trong ấy hánh bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thấy bản tánh không của tất cả Pháp rồi, nhất định đối với vô thường chánh đẳng Bồ Đệ được bất thối chuyển. Vì sao vậy? Vì các đại Bồ Tát này không thấy có Pháp hay làm chiếu ngại. Vì thấy tất cả Pháp không có chiếu ngại, nên đối với vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, không sanh nghi ngờ, mà được bất thối chuyển. Lại nửa thiện hiện. Các đại Bồ Tát trụ trong bản tánh không của tất cả Pháp, quán bản tánh không đều không có chỗ đắc. Nghĩa là ngã, hữu tình, dòng sanh mạng, người sanh, sự dưỡng dục, sĩ phu, bổ đặc và la, ý sanh, thanh niên, người làm, người thọ, người biết, người thấy, tất cả đều chẳng thể đắc. Sắc cho đến thức cũng chẳng thể đắc. Nhãn sứ cho đến ý sứ cũng chẳng thể đắc. Sắc sứ cho đến Pháp sứ cũng chẳng thể đắc. Nhãn giới cho đến ý giới cũng chẳng thể đắc. Sắc giới cho đến Pháp giới cũng chẳng thể đắc. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới cũng chẳng thể đắc. Nhãn xúc cho đến ý xúc cũng chẳng thể đắc. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng chẳng thể đắc. Đị giới cho đến thức giới cũng chẳng thể đắc. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên cũng chẳng thể đắc. Các Pháp từ duyên sanh ra cũng chẳng thể đắc. Vô minh cho đến lão tử cũng chẳng thể đắc. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng thể đắc. Nội không cho đến vô tính tự tính không cũng chẳng thể đắc. Chương như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng chẳng thể đắc. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo cũng chẳng thể đắc. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo cũng chẳng thể đắc. Bốn tỉnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng thể đắc. Tám giải thoát cho đến mười biến xứ cũng chẳng thể đắc. Giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện cũng chẳng thể đắc. Tình quán địa cho đến như lai địa cũng chẳng thể đắc. Cực khỉ địa cho đến Pháp vân địa cũng chẳng thể đắc. Tất cả môn Đà-la-ni, môn Tam-ma địa cũng chẳng thể đắc. Năm loại mắt, sáu thần thông cũng chẳng thể đắc. Mười lực như lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng cũng chẳng thể đắc. Pháp không quên mất, tánh luông luông xã cũng chẳng thể đắc. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng thể đắc. Quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề cũng chẳng thể đắc. Tất cả hành đại Bồ Tát cũng chẳng thể đắc. Vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật cũng chẳng thể đắc. Pháp thiện, Pháp ác cũng chẳng thể đắc. Pháp hữu ký, Pháp vô ký cũng chẳng thể đắc. Pháp hữu lậu, Pháp vô lậu cũng chẳng thể đắc. Pháp thế gian, Pháp phức thế gian cũng chẳng thể đắc. Pháp hữu vi, Pháp vô vi cũng chẳng thể đắc. 32 tướng đại sĩ, 80 vẻ đẹp cũng chẳng thể đắc.

Listen Next

Other Creators