Home Page
cover of kinhdaibatnha (448)
kinhdaibatnha (448)

kinhdaibatnha (448)

Phuc Tien

0 followers

00:00-40:49

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech
0
Plays
0
Downloads
0
Shares

Audio hosting, extended storage and many more

AI Mastering

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 18 Quyển 448 L.I.I. Phẩm Chân Như 03 Bây giờ, Đức Thế Tôn khen Cụ Thọ Thiện Hiện Hay Thầy! Hay Thầy! Nay ông vì các Đại Bồ Tát giỏi thuyết Pháp yếu. Pháp ông đã thuyết đều là lực oai thần của Như Lai, chẳng phải ông tự thuyết. Thiện Hiện Đại Bồ Tát nào đối với Pháp Chân như bất khả đắc tướng sanh tâm tin hiểu, biết tất cả Pháp không có tướng sai khác, nghe thuyết các Pháp Chân như bất khả đắc tướng như thế, tâm không trinh khiết, không khủng hoảng, không sợ hãi, không nghi, không hối, không lui, không chìm. Đại Bồ Tát này mau thành tựu sự mong cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Cụ Thọ Phá Lợi Tử Thư Phật Bạch Thế Tôn Đại Bồ Tát nào thành tựu Pháp này thì mau thành tựu sự mong cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề ương. Đức Phật Bảo Phá Lợi Tử Đúng vậy. Đúng vậy. Như ông đã nói, Đại Bồ Tát nào thành tựu Pháp này thì mau thành tựu sự mong cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Cụ Thọ Thiện Hiện Lại Thư Phật Bạch Thế Tôn Đại Bồ Tát nào mau thành tựu sự mong cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề thì phải trụ ở đâu và nên trụ thế nào? Phật dạy. Thiện Hiện Nếu Đại Bồ Tát nào muốn mau thành tựu sự mong cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề thì phải đối với tất cả hữu tình trụ tâm bình đẳng, không nên trụ tâm không bình đẳng. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm bình đẳng, không nên sanh tâm không bình đẳng. Phải đối với tất cả hữu tình dùng tâm bình đẳng nói năng, không nên dùng tâm không bình đẳng nói năng. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm đại tự, không nên sanh tâm giận dữ. Phải đối với tất cả hữu tình dùng tâm đại tự nói năng, không nên dùng tâm giận dữ nói năng. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm đại bi, không nên sanh tâm não hại. Phải đối với tất cả hữu tình dùng tâm đại bi nói năng, không nên dùng tâm não hại nói năng. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm đại hỷ, không nên sanh tâm ghen ghét. Phải đối với tất cả hữu tình dùng tâm đại hỷ nói năng, không nên dùng tâm gen ghét nói năng. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm đại xã, không nên khởi tâm thiên vị. Phải đối với tất cả hữu tình dùng tâm đại xã nói năng, không nên dùng tâm thiên vị nói năng. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm khiêm hạ, không nên sanh tâm kiêu mạng. Phải đối với tất cả hữu tình dùng tâm khiêm hạ nói năng, không nên dùng tâm kiêu mạng nói năng. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm ngay thẳng, không nên sanh tâm nịnh dối. Phải đối với tất cả hữu tình dùng tâm ngay thẳng nói năng, không nên dùng tâm nịnh dối nói năng. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm mềm mại, không nên sanh tâm cứng cõi. Phải đối với tất cả hữu tình dùng tâm mềm mại nói năng, không nên dùng tâm cứng cõi nói năng. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm lợi ích, không nên khởi tâm không lợi ích. Phải đối với tất cả hữu tình dùng tâm lợi ích nói năng, không nên dùng tâm không lợi ích nói năng. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm an vui, không nên khởi tâm không an vui. Phải đối với tất cả hữu tình dùng tâm an vui nói năng, không nên dùng tâm không an vui nói năng. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm không ngăn ngại, không nên sanh tâm có ngăn ngại. Phải đối với tất cả hữu tình dùng tâm không ngăn ngại nói năng, không nên dùng tâm có ngăn ngại nói năng. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm như cha mẹ, như anh em, như chị em, như nam nữ, như thân tộc, cũng dùng tâm này nên cùng họ nói năng. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm bằng hữu, cũng dùng tâm này nên cùng họ nói năng. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm như thầy dạy dỗ, như thầy khuôn mẫu, như đệ tử, như đồng học, cũng dùng tâm này nên cùng họ nói năng. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm dự lưu, nhất lai, bất hoàng, à la hãng, độc giác, đại bồ tát, như lai ứng chánh đẳng giác, cũng dùng tâm này nên cùng họ nói năng. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm cúng dường cung kính, tôn trọng, ngợi khen, cũng dùng tâm này nên cùng họ nói năng. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm cứu vớt, thương xót, phù hộ, cũng dùng tâm này nên cùng họ nói năng. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm rốt tráo không, vô sở hữu, bất khả đắc, cũng dùng tâm này nên cùng họ nói năng. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm không, vô tướng, vô nguyện, cũng dùng tâm này nên cùng họ nói năng. Lại nữa, thiền hiện. Đại Bồ Tát nào muốn mau thành tựu sự mong cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, thì nên tự xa lì sự giết hại sanh mạng, cũng khuyên người xa lì sự giết hại sanh mạng, luôn ngợi khen chính đáng Pháp xa lì sự giết hại sanh mạng, vui mừng người xa lì sự giết hại sanh mạng. Cho đến nên tự lì tạ kiến, cũng khuyên người lì tạ kiến, luôn ngợi khen chính đáng Pháp xa lì tạ kiến, vui mừng người xa lì tạ kiến. Nên tự tu bốn tịnh lự, cũng khuyên người tu bốn tịnh lự, luôn ngợi khen chính đáng Pháp tu bốn tịnh lự, vui mừng ngợi khen người tu bốn tịnh lự. Nên tự tu bốn vô lượng, cũng khuyên người tu bốn vô lượng, luôn ngợi khen chính đáng Pháp tu bốn vô lượng, vui mừng ngợi khen người tu bốn vô lượng. Nên tự tu bốn định vô sắc, cũng khuyên người tu bốn định vô sắc, luôn ngợi khen chính đáng Pháp tu bốn định vô sắc, vui mừng ngợi khen người tu bốn định vô sắc. Nên tự viên mạng sáu Pháp Ba-la-mật-đa, cũng khuyên người viên mạng sáu Pháp Ba-la-mật-đa, luôn ngợi khen chính đáng Pháp viên mạng sáu Pháp Ba-la-mật-đa, vui mừng ngợi khen người viên mạng sáu Pháp Ba-la-mật-đa. Nên tự trụ mười tám không, cũng khuyên người trụ mười tám không, luôn ngợi khen chính đáng Pháp trụ mười tám không, vui mừng ngợi khen người trụ mười tám không. Nên tự trụ chân như Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, Pháp định, Pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghị, cũng khuyên người trụ chân như cho đến cảnh giới bất tư nghị, luôn ngợi khen chính đáng Pháp trụ chân như cho đến cảnh giới bất tư nghị, vui mừng ngợi khen người trụ chân như cho đến cảnh giới bất tư nghị. Nên tự trụ bốn thánh đế, cũng khuyên người trụ bốn thánh đế, luôn ngợi khen chính đáng Pháp trụ bốn thánh đế, vui mừng ngợi khen người trụ bốn thánh đế. Nên tự tu ba mươi bảy Pháp phần Bồ Đề, cũng khuyên người tu ba mươi bảy Pháp phần Bồ Đề, luôn ngợi khen chính đáng Pháp tu ba mươi bảy Pháp phần Bồ Đề, vui mừng ngợi khen người tu ba mươi bảy Pháp phần Bồ Đề. Nên tự tu ba giải thoát môn, cũng khuyên người tu ba giải thoát môn, luôn ngợi khen chính đáng Pháp tu ba giải thoát môn, vui mừng ngợi khen người tu ba giải thoát môn. Nên tự tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ, cũng khuyên người tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ, luôn ngợi khen chính đáng Pháp tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ, vui mừng ngợi khen người tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ. Nên tự viên mảng thập địa Bồ Tát, cũng khuyên người viên mảng thập địa Bồ Tát, luôn ngợi khen chính đáng Pháp tu viên mảng thập địa Bồ Tát, vui mừng ngợi khen người tu viên mảng thập địa Bồ Tát. Nên tự viên mảng năm loại mắt, sáu phép thần thông, cũng khuyên người viên mảng năm loại mắt, sáu phép thần thông, luôn ngợi khen chính đáng Pháp viên mảng năm loại mắt, sáu phép thần thông, vui mừng ngợi khen người viên mảng năm loại mắt, sáu phép thần thông. Nên tự viên mảng Pháp Môn Đà-la-Ni, Pháp Môn Tam-ma-địa, cũng khuyên người viên mảng Pháp Môn Đà-la-Ni, Pháp Môn Tam-ma-địa, luôn ngợi khen chính đáng Pháp viên mảng Pháp Môn Đà-la-Ni, Pháp Môn Tam-ma-địa, vui mừng ngợi khen người viên mảng Pháp Môn Đà-la-Ni, Pháp Môn Tam-ma-địa. Nên tự viên mảng Mười Lực Như Lai cho đến Mười Tám Pháp Phật Bất Cộng, cũng khuyên người viên mảng Mười Lực Như Lai cho đến Mười Tám Pháp Phật Bất Cộng, luôn ngợi khen chính đáng Pháp viên mảng Mười Lực Như Lai cho đến Mười Tám Pháp Phật Bất Cộng, vui mừng ngợi khen người viên mảng Mười Lực Như Lai cho đến Mười Tám Pháp Phật Bất Cộng. Nên tự viên mảng 32 tướng đại sĩ, 80 vẽ đẹp, cũng khuyên người viên mảng 32 tướng đại sĩ, 80 vẽ đẹp, luôn ngợi khen chính đáng Pháp viên mảng 32 tướng đại sĩ, 80 vẽ đẹp, vui mừng ngợi khen người viên mảng 32 tướng đại sĩ, 80 vẽ đẹp. Nên tự viên mảng Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã, cũng khuyên người viên mảng Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã, luôn ngợi khen chính đáng Pháp viên mảng Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã, vui mừng ngợi khen người viên mảng Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã. Nên tự quán thuận nghịch 12 chi duyên khởi, cũng khuyên người quán thuận nghịch 12 chi duyên khởi, luôn ngợi khen chính đáng Pháp quán thuận nghịch 12 chi duyên khởi, vui mừng ngợi khen người quán thuận nghịch 12 chi duyên khởi. Nên tự biết khổ, giúp tập, chính việc, tu đạo, cũng khuyên người biết khổ, giúp tập, chính việc, tu đạo, luôn ngợi khen chính đáng Pháp biết khổ, giúp tập, chính việc, tu đạo, vui mừng ngợi khen người biết khổ, giúp tập, chính việc, tu đạo. Nên tự sanh trí chính quả dự lưu nhưng không chính thật tế được quả dự lưu, cũng khuyên người sanh trí chính quả dự lưu và chính thật tế được quả dự lưu, luôn ngợi khen chính đáng Pháp sanh trí chính quả dự lưu và chính thật tế được quả dự lưu, vui mừng ngợi khen người sanh trí chính quả dự lưu và chính thật tế được quả dự lưu. Nên tự sanh trí chính quả nhất lai, bất hoàng, A-la-hán, độc giác bồ đệ nhưng không chính thật tế được quả nhất lai, bất hoàng, A-la-hán, độc giác bồ đệ, cũng khuyên người sanh trí chính quả nhất lai, bất hoàng, A-la-hán, độc giác bồ đệ và chính thật tế được quả nhất lai, bất hoàng, A-la-hán, độc giác bồ đệ, luôn ngợi khen chính đáng Pháp sanh trí chính quả nhất lai, bất hoàng, A-la-hán, độc giác bồ đệ và chính thật tế được quả nhất lai, bất hoàng, A-la-hán, độc giác bồ đệ, và chính thật tế được quả nhất lai, bất hoàng, A-la-hán, độc giác bồ đệ, luôn ngợi khen chính đáng Pháp sanh trí chính quả nhất lai, bất hoàng, A-la-hán, độc giác bồ đệ, và chính thật tế được quả nhất lai, bất hoàng, A-la-hán, độc giác bồ đệ, Nên tự vào ngôi Bồ Tát chánh tánh ly xanh, cũng khuyên người vào ngôi Bồ Tát chánh tánh ly xanh, luôn ngợi khen chính đáng Pháp vào ngôi Bồ Tát chánh tánh ly xanh, vui mừng ngợi khen người vào ngôi Bồ Tát chánh tánh ly xanh, Nên tự nghiêm tịnh cõi Phật, thành thuộc hữu tình, cũng khuyên người nghiêm tịnh cõi Phật, thành thuộc hữu tình, luôn ngợi khen chính đáng Pháp nghiêm tịnh cõi Phật, thành thuộc hữu tình, vui mừng ngợi khen người nghiêm tịnh cõi Phật, thành thuộc hữu tình, Nên tự phát khởi thần thông Bồ Tát, cũng khuyên người phát khởi thần thông Bồ Tát, luôn ngợi khen chính đáng Pháp phát khởi thần thông Bồ Tát, vui mừng ngợi khen người phát khởi thần thông Bồ Tát, Nên tự phát sanh trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng khuyên người phát sanh trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, luôn ngợi khen chính đáng Pháp phát sanh trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, vui mừng ngợi khen người phát sanh trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, Nên tự đoạn tất cả phiền não tập khí nối nhau, cũng khuyên người đoạn tất cả phiền não tập khí nối nhau, luôn ngợi khen chính đáng Pháp đoạn tất cả phiền não tập khí nối nhau, vui mừng ngợi khen người đoạn tất cả phiền não tập khí nối nhau. Nên tự thọ trì viên mãn thọ mạng, cũng khuyên người thọ trì viên mãn thọ mạng, luôn ngợi khen chính đáng Pháp thọ trì viên mãn thọ mạng, vui mừng ngợi khen người thọ trì viên mãn thọ mạng. Nên tự chuyển Pháp luôn, cũng khuyên người chuyển Pháp luôn, luôn ngợi khen chính đáng Pháp chuyển Pháp luôn, vui mừng ngợi khen người chuyển Pháp luôn. Nên tự gìn giữ hộ trì tránh Pháp khiến trụ, cũng khuyên người gìn giữ hộ trì tránh Pháp khiến trụ, luôn ngợi khen chính đáng Pháp gìn giữ hộ trì tránh Pháp khiến trụ, vui mừng ngợi khen người gìn giữ hộ trì tránh Pháp khiến trụ. Thiện hiện Đại Bồ Tát nào muốn mau thành tự sự mong cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, thì đối với Pháp như thế dùng vô sở đắc mà làm phương tiện và nên trụ như vậy. Thiện hiện Các Đại Bồ Tát nên học phương tiện thiện xảo, bát nhã ba la mật đa sâu xa như thế. Nếu học như thế mới có thể an trụ Pháp đáng trụ. Nếu học như thế, an trụ như thế, thì đối với các sắc không bị chướng ngại, đối với thọ, tưởng, hành, thức không bị chướng ngại. Cho đến đối với việc chuyển Pháp luôn không bị chướng ngại, đối với chánh Pháp trụ không bị chướng ngại. Vì sao? Thiện hiện Vì Đại Bồ Tát này từ trước đến nay không thọ trì sắc, không thọ trì thọ, tưởng, hành, thức. Cho đến không thọ trì chuyển Pháp luôn, không thọ trì chánh Pháp trụ. Vì sao? Thiện hiện Vì sắc không thể thọ trì, nếu sắc không thể thọ trì thì không phải sắc, vì thọ, tưởng, hành, thức không thể thọ trì, nếu thọ, tưởng, hành, thức không thể thọ trì, thì không phải thọ, tưởng, hành, thức. Cho đến vì chuyển Pháp luôn không thể thọ trì, nếu chuyển Pháp luôn không thể thọ trì, thì không phải chuyển Pháp luôn. Vì chánh Pháp trụ không thể thọ trì, nếu chánh Pháp trụ không thể thọ trì, thì không phải chánh Pháp trụ. Khi Đức Phật thuyết Bồ Tát trụ Pháp này có hai ngàn Bồ Tát đắc vô sanh Pháp nhẫn. L.I.I. Phẩm Bất Thối Chuyển Khi ấy, cụ thọ thiện hiện lại thưa Phật. Bạch Thế Tôn Chúng con phải dựa vào hành động và tướng trạng nào mới biết là Đại Bồ Tát Bất Thối Chuyển. Phật dạy Thiện hiện Đại Bồ Tát nào biết như thật các bậc dị sanh, phạm phu, các bậc thanh văn, các bậc độc giác, các bậc Bồ Tát, các bậc như lai. Các bậc như thế tuy nói có khác, nhưng trọng lý của các Pháp chân như không biến đổi, không phân biệt, đều không hai không hai phần. Đại Bồ Tát này tuy thật chính đắc các Pháp chân như, nhưng đối với chân như không phân biệt, vì dùng vô sở đắc làm phương tiện. Đại Bồ Tát này đã thật chính đắc các Pháp chân như, tuy nghe chân như cùng tất cả Pháp không hai, không khác nhưng không e ngại. Vì sao? Vì chân như cùng các Pháp không thể nói một, không thể nói khác, không thể nói đầy đủ và không đầy đủ. Pháp giới cho đến cảnh giới bất cương nghị cũng lại như thế. Đại Bồ Tát này quyết không vội và thốt ra lời nói, những lời nói ra đều có nghĩa lợi lạc, nếu không có nghĩa lợi lạc thì quyết không thốt ra lời. Đại Bồ Tát này quyết không xem tốt xấu hay dở của người khác, thương xót bình đẳng, vì họ thuyết Pháp. Đại Bồ Tát này không xem chủng tánh tốt xấu của Pháp Sư, chỉ cầu nghĩa Pháp đã thuyết nhiệm màu mà thôi. Thiện hiện Đại Bồ Tát bất thối chuyển đủ các hành động và tướng trạng như thế. Nhờ các hành động và tướng trạng như thế nên biết là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Thiện hiện Thư Phật Bạch Thế Tôn Những gì gọi là các hành động và tướng trạng. Phật Dạy Thiện hiện Các Pháp không hành, không trạng, không tướng nên biết đó là hành động và tướng trạng. Cụ Thọ Thiện hiện lại Thư Phật Bạch Thế Tôn Nếu tất cả Pháp không hành động và tướng trạng thì Đại Bồ Tát này đối với Pháp nào chuyển nên gọi bất thối chuyển. Phật Dạy Thiện hiện Đại Bồ Tát này đối với sắc chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với thọ, tưởng, hành, thức chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với nhãn xứ chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với sắc xứ chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với nhãn giới chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với sắc giới chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với nhãn thức giới chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với nhãn xúc chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với các thỏ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với các thỏ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với bố thí ba la mật đa chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã ba la mật đa chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với pháp nội không chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với pháp ngoại không cho đến pháp vô tính tự tính không chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với chân nhi chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nhi chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với thánh đế khổ chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với thánh đế tập, diệt, đạo chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với bốn niệm trụ chuyển nên gọi bất thối chuyển, cho đến đối với tám chi thánh đạo chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với bốn tỉnh lự chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với tám giải thoát chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với tám tháng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với pháp môn giải thoát không chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với thập địa, tàm thừa chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với thập địa Bồ Tát chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với pháp môn Đà La Nhi chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với pháp môn Tam Ma Địa chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với năm loại mắt chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với sáu phép thần thông chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với mười lực Phật chuyển nên gọi bất thối chuyển, cho đến đối với mười tám Pháp Phật bất cộng chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với ba mươi hai tướng đại sĩ chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với tám mươi vẻ đẹp chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với pháp không quên mất chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với tánh luôn luôn xạ chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với trí nhất thiết chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với bật gì sanh chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với bật thanh văn, bật độc giác, bật bồ tát, bật như lai chuyển nên gọi bất thối chuyển. Đối với tất cả hành đại bồ tát chuyển nên gọi bất thối chuyển, đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật chuyển nên gọi bất thối chuyển. Vì sao? Thiện hiện. Vì tự tánh sát vô sở hữu, tự tánh họ, tưởng, hành, thức vô sở hữu. Như vậy, cho đến tự tánh tất cả hành đại bồ tát vô sở hữu, tự tánh quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật vô sở hữu. Đại bồ tát này đối với những điều trong đó không trụ nên gọi là chuyển. Do không chuyển nên gọi là đại bồ tát bất thối chuyển. Đại bồ tát nào biết như thế gọi là đại bồ tát bất thối chuyển? Lại nữa, thiện hiện. Tất cả đại bồ tát bất thối chuyển quyết không ưa xem hình tướng, nói năng của ngoại đạo, xa môn, bà la môn. Các xa môn, bà la môn, đối với chỗ biết Pháp thật thi, thật kiến, hoặc kiến lập pháp môn chánh kiến điều đó không thể có được. Lại nữa, thiện hiện. Tất cả đại bồ tát bất thối chuyển đối với luật tạng Đức Phật đã tuyên thuyết không sanh nghi hoặc Đối với việc Thế Giang không giới cấm thủ, không đọa ác kiến, không chấp nhận các việc các tường của Thế Tục lấy làm thanh tịnh. Quyết không lễ kính các thiên thần kia như ngoại đạo Thế Giang đã thờ, quyết không đem các thứ tràng hoa, hương soa, hương bột, y phục, chuỗi anh lạc, tràng phang, lọng báu, âm nhạc, đèn sáng cúng dường thiên thần và các ngoại đạo. Thiện hiện. Đại bồ tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế nên biết là đại bồ tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện. Tất cả đại bồ tát bất thối chuyển không đọa trong địa ngục, bàn sanh, cõi quỷ, à tố lạc. Cũng không sanh vào dòng họ ti tiện như hàng thịt, gánh thay chết. Cũng hoàn toàn không thọ thân không đủ năm căng, biến đổi căng, không hình, hai hình và nữ nhân. Cũng lại không thọ thân mù điết, căm nộng, cùi cục, hủi lát, không lùm v, v. Cũng hoàn toàn không sanh vào chỗ không có thời giờ rảnh rỗi. Thiện hiện. Đại bồ tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế nên biết đó là đại bồ tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện. Tất cả đại bồ tát bất thối chuyển thường ư thích thọ chỉ 10 thiện nhiệt đạo, tự sa lị sự giết hại sanh mạng, cũng khuyên người sa lị sự giết hại sanh mạng, luôn ngợi khen chính đáng Pháp sa lị sự giết hại sanh mạng, vui mừng ngợi khen người lị sự giết hại sanh mạng. Cho đến tự lị tà kiến, cũng khuyên người lị tà kiến, luôn ngợi khen chính đáng Pháp sa lị tà kiến, vui mừng ngợi khen người sa lị tà kiến. Đại bồ tát này, cho đến trong mộng cũng không phát khởi mùi ác nghiệt, hủng chi lúc thức. Thiện hiện. Đại bồ tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế nên biết đó là đại bồ tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện. Tất cả đại bồ tát bất thối chuyển khắp vì lợi ích tất cả hữu tình, lấy vô sở đắc làm phương tiện, luôn tù bố thí cho đến bát nhã ba la mật đa thường không gián đoạn. Thiện hiện. Đại bồ tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế nên biết đó là đại bồ tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện. Tất cả đại bồ tát bất thối chuyển đã thọ trì tư duy, đọc tụng, khế kinh, ứng tụng, ký biệt, phúng tụng, tự thuyết, duyên khởi, bổn sanh, bổn sự, phương quản, khi pháp, thí dụ, luận nghị, tất là đều trốt tráo thông thạo lợi ích, thường ưa bố thí pháp như thế cho tất cả hữu tình và luôn luôn suy nghĩ, làm sao cho các loài hữu tình cầu nguyện chánh pháp đều được đầy đủ, lấy vô sở đắc mà làm phương tiện, lại đem thiện căng pháp thí như thế cùng các hữu tình bình đẳng đều có, hồi hướng lên quả vị vô. Thượng chánh đẳng bồ đê. Thiện hiện. Đại bồ tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế nên biết đó là đại bồ tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện. Tất cả đại bồ tát bất thối chuyển đối với pháp môn sâu xa của Phật đã thuyết, hoàn toàn không sanh nghi hoặc do dự. Vì sao? Thiện hiện. Vì đại bồ tát này không thấy có pháp hoặc sát, hoặc thọ, tưởng, hành, thức có thể nghi hoặc do dự ở trong đó. Như vậy, cho đến không thấy có pháp, hoặc tất cả hành đại bồ tát, hoặc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đê của chư Phật có thể nghi hoặc do dự ở trong đó. Thiện hiện. Đại bồ tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế nên biết đó là đại bồ tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện. Tất cả đại bồ tát bất thối chuyển thành tựu thân, ngữ, ý nghiệp như hòa, đối với các hữu tình tâm không lo ngại. Luôn luôn thành tựu từ, vi, hỉ, xã tương tương thân, ngữ, ý nghiệp. Quyết định không cùng năm thứ phiền não che lấp ở chung đó là tham dục, giận dữ, hôn trầm mê ngủ, giao động ác tác, nghi hoặc. Tất cả phiền não đều đã đè bẹt. Tất cả các phiền não trói buộc vĩnh viễn không phát sanh. Ra và qua lại tâm không mê lầm, luôn luôn an trụ chánh niệm chánh tri. Ngoài nghi tiếng dừng, đi đứng, ngồi nằm, các bước dừng chân cũng như thế. Những chỗ bước đi đều xem dưới đất, nhẹ nhàng chánh niệm, nhìn thẳng mà đi, hoạt động nói năng từng không vụt chạc. Thiện hiện Đại Bồ Tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế nên biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện Tất cả Đại Bồ Tát bất thối chuyển đối với các vật họ dụng đồ nằm, ti phục đều thường thơm sạch, không có các mùi hôi hám, cũng không có các loại trùng, rợn, chí dơ bẩn. Tâm ư thanh tịnh, thân không tật bệnh. Thiện hiện Đại Bồ Tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế nên biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện Tất cả Đại Bồ Tát bất thối chuyển thân tâm thanh tịnh, không phải như trong thân người thường luôn bị tám vạn hộ trùng ăn xăm. Vì sao? Vì các Đại Bồ Tát này thiện căng tăng thượng vượt khỏi thế gian, thọ thân hình trong ngoài thanh tịnh, nên không bị các loại trùng ăn xăm vào thân. Thiện căng như như lần lần tăng trưởng. Như vậy, thân tâm này càng thanh tịnh. Do đó thân tâm các Bồ Tát này kiên cố hơn kim cương, không bị nghịch duyên xăm hại. Đó là các thứ lạnh nóng, đói khát, mũi mỏng, gió nắng, trùng độc, dao gậy và các trói buộc không thể xăm hại được. Thiện hiện Đại Bồ Tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Cụ thỏ thiện hiện thưa Phật Bạch Thế Tôn Đại Bồ Tát bất thối chuyển như thế làm sao được thanh tịnh thân, ngữ, ý. Phật dạy Thiện hiện Đại Bồ Tát này thiện trăng như như lần lần tăng trưởng, như vậy, như vậy thanh tịnh thân, ngữ, ý do năng lực thiện trăng đoạn trừ nên đời vị lai hoàn toàn không phát sanh. Vì vậy thường được thanh tịnh thân, ngữ, ý. Lại nữa, thiện hiện Đại Bồ Tát này hiện tại có dự hành về ba việc của thân, bốn việc của ngữ, ba việc của ý, nên luôn luôn thanh tịnh thân, ngữ, ý. Do sự thanh tịnh này nên vượt khỏi thanh văn địa và độc giác địa, và Bồ Tát tránh tánh ly sanh, không chứng thực tế, thường muốn thành thuộc hữu tình, nhiên tịnh cõi Phật. Do đó thường được thanh tịnh thân, ngữ, ý, trụ vào ngôi Bồ Tát kiên cố bất động. Thiện hiện Đại Bồ Tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện Tất cả Đại Bồ Tát bất thối chuyển không trọng lợi dưỡng, không theo đuổi danh dự. Đối với các thứ ăn uống, y phục, đồ nằm, phòng nhà, cụ cải đều không tham đắm. Tuy thọ mười hai công đức ổ đà, hành đầu đà, nhưng không tự thị, trong đó hoàn toàn không sanh tâm tương ưng với sang tham, phá giới, giận dữ, lười nhát, tán loạn, ngu si và các thứ phiền não tràn buộc khác. Thiện hiện Đại Bồ Tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện Tất cả Đại Bồ Tát bất thối chuyển có trí tuệ minh mẩn, giác ngộ sâu xa, lắng nghe chánh Pháp, cùng chính tinh thọ, chánh niệm tư duy, nghĩa lý rốt tráo. Pháp Thế Giang và Xuất Thế Giang đã được nghe đều có phương tiện hội nhập nghĩa lý bác ngã Ba-la-mật-đa sâu xa, tạo sự nghiệp Thế Giang cũng nương bác ngã Ba-la-mật-đa hội nhập Pháp Tánh, không thấy một việc nào ra khỏi Pháp Tánh. Giả sử có thì không cùng Pháp Tánh tương ưng, cũng có phương tiện hội nhập nghĩa lý bác ngã Ba-la-mật-đa sâu xa. Do đó nên không thấy việc nào ra khỏi Pháp Tánh. Thiện hiện Đại Bồ Tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện Tất cả Đại Bồ Tát bất thối chuyển, nếu hiện tại có ác ma hóa ra tám địa ngục lớn. Trong mỗi địa ngục hóa ra vô lượng, vô biên Bồ Tát luôn bị lửa giữ đốt cháy, đều chịu thiêu đốt đau đớn, khổ sở chua cay. Ác ma hóa ra vậy rồi, bảo các Bồ Tát bất thối chuyển, các Bồ Tát này đều đã được thọ ký bất thối chuyển quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề nên bị đọa vào địa ngục lớn như thế, chịu nhiều điều đau khổ như vậy. Bồ Tát các ông đã được thọ ký bất thối chuyển quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, cũng sẽ đọa vào địa ngục lớn này chịu nhiều điều đau khổ. Phật thọ ký cho các ông để chịu cực khổ trong địa ngục lớn, chứ không phải thọ ký bất thối chuyển quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Thế nên các ông phải mau bỏ tâm Đại Bồ Đề, may ra mới được thoát khỏi khổ địa ngục lớn, sanh lên trời, hoặc sanh vào cõi người hưởng giàu vui. Khi ấy, Đại Bồ Tát bất thối chuyển thấy nghe việc này, tâm không động, cũng không lo sợ nghi hoặc, chỉ suy nghĩ, không có việc Đại Bồ Tát được thọ ký bất thối chuyển mà bị đọa vào địa ngục, bàn sanh, cõi quỷ, à tố lạc. Vì sao? Vì ngôi Bồ Tát bất thối chuyển quyết định không có nghiệp bất thiện, cũng không có nghiệp thiện mà trước lấy quả khổ. Chiêu Phật quyết định không nói lời dối gạt. Như Lai nói ra điều gì đều làm lợi lạc an vui cho tất cả hữu tình lại nhờ tâm Đại từ bi lưu xuất. Việc đã thấy nghe ấy chắc chắn là ác ma làm ra nói ra. Thiện hiện. Đại Bồ Tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện. Tất cả Đại Bồ Tát bất thối chuyển, nếu có ác ma giả dàng sa môn đến chỗ Bồ Tát nói như vậy, trước kia ông đã nghe, nên tù bố thí Ba-la-mật-đa sẽ mau viên mãn, nên tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát ngã Ba-la-mật-đa sẽ mau viên mãn. Như vậy, cho đến nên chứng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đê. À nghe như thế đều là tà thuyết, nên mau bỏ, chở bảo là chân thật. Lại nữa, trước kia ông đã nghe, nên đối với tất cả như Lai ứng chánh đẳng giác và các đệ tử ở quá khứ, vị Lai hiện tại từ sơ phát tâm cho đến pháp trụ, trong đó có công đức thiện trăng, đều sanh tùy hỷ nhóm hợp tất cả, đem cho hữu tình một cách bình đẳng cùng nhau hồi hướng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đê. À nghe như thế cũng là tà thuyết nên mau từ bỏ, đừng cho là chân thật. Ta sẽ dạy ông Phật Pháp chân thật cho ông tu học mau chứng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đê. Những gì đã nghe trước kia chẳng phải lời chân thật của Phật. Đó là văn tụng của người soạn tập để dối gạt. Lời ta nói ra là lời chân thật của Phật, làm cho ông mau chứng sự mong cầu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đê. Thiện hiện. Đại Bồ Tát nghe lời như thế tâm động, nghi sợ, nên biết Bồ Tát đó chưa được thọ ký bất thối chuyển. Đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đê còn do dự, chưa quyết định, chưa được gọi là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Thiện hiện. Đại Bồ Tát nào nghe lời như thế tâm không động, cũng không nghi sợ, chỉ theo pháp tánh vô tát, vô tướng, vô sanh mà trụ. Đại Bồ Tát này có làm việc gì đều không tin lời người, không theo người dạy mà tu bố thí ba la mật đa, không theo người dạy mà tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã ba la mật đa. Cho đến không theo người dạy mà đến quả vị vô thường chánh đẳng bồ đê. Nên viết Đại Bồ Tát như thế đã đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đê được bất thối chuyển. Thiện hiện. Như bậc lầu tận A-la-hán có làm việc gì đều không tin lời người, chỉ đắc pháp tánh không lầm, không nghi, tất cả ác ma không khuynh động được. Như vậy tất cả thanh văn, độc giác, ngoại đạo, ác ma v.v. không thể phá hoại, để dẹp tâm Đại Bồ Tát bất thối chuyển, làm họ đối với bồ đê mà sanh thối lui. Thiện hiện. Đại Bồ Tát này quyết chắc đã trụ bật bất thối chuyển, sở hữu sự nghiệp đều tự suy nghĩ, không phải tin người mà làm ngay. Cho đến lời dạy của Như Lai ứng chánh đẳng giác còn không tính thọ, phụng hành ngay, hú nửa tin lời thanh văn, độc giác, ngoại đạo, ác ma v.v. thực hành ư. Không có việc các Bồ Tát này làm việc gì chỉ tin người mà làm theo. Vì sao? Thiện hiện. Vì Đại Bồ Tát này không thấy có pháp có thể tin mà hành. Vì sao? Thiện hiện. Vì các Bồ Tát này không thấy có sắc có thể tin mà hành, không thấy có thọ, tưởng, hành, thức có thể tin mà hành. Cũng không thấy có sắc chân như có thể tin mà hành, không thấy thọ, tưởng, hành, thức chân như có thể tin mà hành. Như vậy, cho đến không thấy quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật có thể tin mà hành, cũng không thấy quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật chân như có thể tin mà hành. Thiện hiện. Đại Bồ Tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện. Tất cả Đại Bồ Tát bất thối chuyển, nếu có ác ma giả dạng bí sô đến chỗ Bồ Tát nói lời như vậy, việc làm của các ông là Pháp sanh tử, không phải việc làm Bồ Tát, không do đây được trí nhất thiết trí. Này các ông nên tu đạo hết khổ, mau hết khổ, chứng biết bàn. Khi ấy ác ma vì Bồ Tát thuyết đạo Pháp tương tự đạo sanh tử. Đó là quán tưởng xương cốt, hoặc quán tưởng xanh bầm, hoặc quán tưởng mũ thúi, hoặc quán tưởng sinh chướng, hoặc quán tưởng trùng ăn, hoặc quán tưởng đỏ bầm, hoặc tử, hoặc bi, hoặc khỉ, hoặc xã, hoặc bốn tình lự, hoặc bốn vô sắc. Ác ma lại bảo Bồ Tát, đây là chân đạo, chân hạnh. Ông dùng đạo này, hạnh này sẽ được quả dự lưu cho đến sẽ được độc giác bồ đề. Ông nhờ đạo này, hạnh này, nên mau hết tất cả sanh, lão, bệnh, tử. Cần gì phải chịu lâu dài khổ sanh tử, thân khổ hiện tại còn phải chán bỏ, húng chi cầu chịu thân khổ đương lai. Hãy tự nghĩ kỹ và bỏ những gì tin trước kia. Thiện hiện Đại Bồ Tát này khi nghe lời ác ma nói tâm không đồng, cũng không kinh sợ, nghi hoặc, chỉ suy nghĩ như vậy, này bí sô này làm lợi ích cho ta không ích, vì ta thuyết đạo Pháp tương tự, làm ta hiểu biết đạo này không chứng quả dự lưu cho đến không chứng độc giác bồ đề được, húng nửa chứng được quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Đại Bồ Tát này suy nghĩ vậy rồi, rất vui mừng, lại suy nghĩ tiếp, này bí sô này làm lợi ích cho ta rất nhiều, vì ta dùng phương tiện thuyết Pháp chứng đạo, làm ta hiểu biết Pháp chứng đạo nên đối với tam thừa tự tại tu học. Thiện hiện Khi ác ma chi biết Bồ Tát này sanh tâm vui mừng, lại nói tiếp, khốn thây nam tử. Nay ông muốn thấy các Đại Bồ Tát luôn xuyên năng hành việc vô ích chăng? Đó là các chúng Đại Bồ Tát trải qua hàng hạ sa số đại kiếp, đem vô lượng thứ thượng diệu, y phục, thức ăn nước uống, đồ nằm, thuốc thang, cụ cải, hoa hương, cúng dường cung kính, tôn trọng, ngợi khen hàng hạ sa số chư Phật Thế Tôn. Lại ở chỗ hàng hạ sa số chư Phật, tu hành bố thí Bala Mật Đa, tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã Bala Mật Đa. Cho đến chỗ hàng hạ sa số chư Phật tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Chúng Đại Bồ Tát này cũng thân cận phùng sự hàng hạ sa số chư Phật, ở chỗ chư Phật thỉnh hỏi đạo vô thường chánh đẳng giác, hỏi, thế nào là Đại Bồ Tát an trụ đạo quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề? Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành bố thí cho đến bác nhã Bala Mật Đa? An trụ Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không? An trụ chân như cho đến cảnh giới bất tư nghi? An trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Tu bốn tinh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tu tám giải thoát cho đến mười biến xướng. Tu Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tu cực khỉ địa cho đến Pháp vân địa. Tu năm loại mắt, sáu phép thần thông. Tu mười lực Phật cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Tu ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp. Tu Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã. Tu Pháp môn Đà La Nị, Pháp môn tam ma địa. Tu quán thuận nhịch mười hai chi duyên khởi, nghiêm tịnh cõi Phật, thành thuộc hữu tình. Tu thần thông thu thắng các đại Bồ Tát. Tu viên mãn họ lượng, học chuyển bánh xe đại Pháp, hộ trì chánh Pháp được cử trụ. Tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Như lời đã thỉnh hỏi hàng hà sa số chiêu Phật thế tôn theo thứ lớp thuyết Pháp. Như lời chiêu Phật dạy bảo chúng đại Bồ Tát này an trụ tu học trải qua vô lượng kiếp, giọng mảnh tinh tấn, còn không chứng được sự mong cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Húng chi nay việc tu, việc học của các ông mà chứng được quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề ư? Thiện hiện. Đại Bồ Tát này dù nghe lời Ma Kỳ nhưng tâm không đổi, không kinh, không sợ, không nghi, không lầm, vui mừng gấp bội và nghĩ, này bí sô này làm nhiều lợi ích cho ta, dùng phương tiện vì ta thuyết Pháp chứng đạo, làm ta biết Pháp chứng đạo này quyết chắc không chứng được quả dự lưu cho đến không chứng được độc giác Bồ Đề, húng chi chứng được sự mong cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Thiện hiện. Khi Ác Ma Kỳ biết tâm Bồ Tát này không thối lui, không lầm, không nghi, ngay đó giả dạng vô lượng bí sô bảo Bồ Tát, các bí sô chúng tôi đây đều ở quá khứ cần cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, trải qua vô lượng kiếp tu hành nhiều khổ hành khó hành mà không chứng được sự mong cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, này đều lui chứng quả A-La-Hán, các lậu đã hết không còn khổ nữa, các ông làm sao chứng được quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề? Thiện hiện. Đại Bồ Tát này thấy nghe như vậy rồi, liền suy nghĩ, quyết chắc là Ác Ma giả dạng những bí sô này đến nhiễu loạn tâm ta, thuyết đạo pháp chứng ngại tương tự, chắc chắn không có Đại Bồ Tát tu hành bác nhã Ba-La-Mật-Đa đến ngôi viên mãng mà không chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, lại rơi vào thanh văn địa hoặc độc giác địa. Bây giờ, Bồ Tát lại suy nghĩ tiếp, chắc chắn không có việc Đại Bồ Tát tu hành bố thí cho đến bác nhã Ba-La-Mật-Đa, đến ngôi viên mãng mà không chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, cho đến chắc chắn không có việc tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đến ngôi viên mãng mà không chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Thiện hiện. Đại Bồ Tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện. Tất cả Đại Bồ Tát bất thối chuyển luôn suy nghĩ như vậy, Đại Bồ Tát nào như lời chiêu Phật dạy, tinh tấn tu học, thường không xa lịa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã Ba-La-Mật-Đa kể cả những tác ý tương ưng diệu hành, thường không xa lịa sự suy nghĩ tương ưng trí nhất thiết trí, thường dùng phương tiện khuyên các hữu tình siêng năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã Ba-La-Mật-Đa. Đại Bồ Tát này quyết định không thối lui sáu Pháp Ba-La-Mật-Đa, cho đến quyết định không thối lui trí nhất thiết tướng, chắc chắn chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Thiện hiện. Đại Bồ Tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện. Tất cả Đại Bồ Tát bất thối chuyển luôn suy nghĩ như vậy, Đại Bồ Tát nào hiểu biết ma sự, không theo ma sự, hiểu biết bàn ác, không theo lời bàn ác, hiểu biết cảnh giới, không chuyển theo cảnh giới. Đại Bồ Tát này quyết định không thối lui sáu Pháp Ba-La-Mật-Đa, cho đến quyết định không thối lui trí nhất thiết tướng, chắc chắn chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Thiện hiện. Đại Bồ Tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện. Tất cả Đại Bồ Tát bất thối chuyển nghe Phật Thế Tôn Thuyết Pháp yếu, sanh tâm vui mừng, cung kính, tinh thọ, hiểu biết ý nghĩa rốt ráo, tâm kiên cố hơn kim cương, không thể lây chuyển, không thể đoạt mất. Thường tin tấn tu học sáu Pháp Ba-La-Mật-Đa, tâm không nhảm chán, cũng khuyên người khác học sáu Pháp Ba-La-Mật-Đa, tâm không mệt mỏi. Thiện hiện. Đại Bồ Tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Đại Bồ Tát bất thối chuyển nghe Phật Thế Tôn Thuyết Pháp yếu, sanh tâm vui mừng, cung kính, tinh thọ, hiểu biết ý nghĩa rốt ráo, tâm không nhảm chán, cũng khuyên người khác học sáu Pháp Ba-La-Mật-Đa, tâm không mệt mỏi, cũng khuyên người khác học sáu Pháp Ba-La-Mật-Đa, tâm không mệt mỏi, cũng khuyên người khác học sáu Pháp Ba-La-Mật-Đa, tâm không mệt mỏi, cũng khuyên người khác học sáu Pháp Ba-La-Mật-Đa, tâm không mệt mỏi, cũng khuyên người khác học sáu Pháp Ba-La-Mật-Đa, tâm không mệt m

Listen Next

Other Creators