Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 19, Quyển 465, LXXII, Phẩm học tất cả 02. Bây giờ, Cụ Thọ Thiện Hiện lại bạch Phật. Bạch Thế Tôn Nếu tất cả Pháp đều không có tự tánh, lì các khí luận và bất khả đắc bất thì nhờ những đạo diện mà Đại Bồ-Tát chính đắc chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát, đó là đạo Thanh Văn, độc giác hay đạo như Lai. Phật Bảo Thiện Hiện Các Đại Bồ-Tát không nhờ đạo Thanh Văn, không nhờ đạo độc giác, không nhờ đạo như Lai được vào chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát. Nhưng sau khi đã học đầy đủ các đạo, nhờ đạo Bồ-Tát vị ấy được nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát. Giống như Bồ-Tát ở địa vị thứ 8, trước tiên phải học các đạo, sau nhờ đạo của mình nên được nhập vào chánh tánh ly xanh của thừa mình, cho đến khi chưa viên mãn đạo quả thì vị ấy chưa thể chứng đắc quả cao nhất của thừa mình. Cũng vậy, các Đại Bồ-Tát trước tiên phải học viên mãn tất cả các đạo, sau đó nhờ đạo mình mới được nhập vào chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát, cho đến khi chưa phát sanh định Kim Cương Dụ thì vẫn chưa thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Nếu phát sanh định này với bác nhã tương ưng trong một sát na mới có thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Cụ Thọ Thiện Hiện Lại Bạch Phật Nếu trước tiên Đại Bồ-Tát đã học đầy đủ tất cả các đạo, sau đó nhờ đạo mình mới được nhập vào chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát. Bạch Thế Tôn Há chẳng phải các hướng và quả của đệ bác Dự Lưu, nhất Lai, Bất Hoàng, A-La-Hán, Độc Giác, như Lai, mỗi đạo ấy đều khác nhau sao? Bạch Thế Tôn Nếu các đạo đã khác nhau như vậy thì vì sao trước tiên Đại Bồ-Tát phải học đầy đủ tất cả các đạo, sau đó nhờ đạo mình mới được nhập vào chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát? Nghĩa là, các Đại Bồ-Tát phải phát khởi đạo đệ bác mới thành đệ bác, hoặc phát khởi đạo Cụ Kiến mới thành Dự Lưu, phát khởi đạo Tiến Tu mới thành nhất Lai, Bất Hoàng, phát khởi đạo Vô Học mới thành A-La-Hán, phát khởi đạo Độc Giác mới thành Độc Giác. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ-Tát thành tựu đệ bác rồi mới có thể nhập vào chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát thì không có lý, không nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát mà có thể chứng đắc trí nhất thiết trí thì cũng thật phi lý. Bạch Thế Tôn Đại Bồ-Tát nào đã thành tựu Dự Lưu, nhất Lai, Bất Hoàng, A-La-Hán, Độc Giác rồi mà có thể nhập vào chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát thì thật vô lý, không nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát mà có thể chứng đắc trí nhất thiết trí thì cũng thật phi lý. Bạch Thế Tôn Làm sao để con biết rõ như thật các Đại Bồ-Tát phải học đầy đủ tất cả các đạo rồi mới có thể nhập vào chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát mà không trái lý? Phật Bảo Thiện Hiện Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông nói. Đại Bồ-Tát nào sau khi thành tựu đệ bác rồi nói rộng cho đến thành tựu độc giác mà có thể nhập vào chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát thì thật phi lý, không nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát mà có thể chứng đắc trí nhất thiết trí thì cũng thật phi lý. Cụ Thọ Thiện Hiện Thưa Bạch Thế Tôn Nếu vậy thì tại sao trước tiên các Đại Bồ-Tát phải học đầy đủ các đạo, sau đó nhờ đạo mình mới được nhập vào chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát, sau khi nhập vào chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát rồi, vì ấy tuần tự chứng đắc trí nhất thiết trí, vĩnh viễn đoạn trừ sự tương tục của tất cả tập khí phiền não? Phật Bảo Thiện Hiện Từ lúc mới phát tâm các Đại Bồ-Tát siêng năng tinh tấn, thu hành sáu Ba-la-mật-đa, dùng trí tuệ thù thắng vượt qua tám địa, là tỉnh quán địa cho đến độc giác địa, tuy thu tất cả tám địa vừa kể nhưng vì ấy dùng trí tuệ thù thắng để vượt qua, nhờ đạo tướng ký vì ấy được nhập vào chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát. Sau khi đã nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát, tuần tự lại nhờ trí nhất thiết trí tướng, vì ấy chứng đắc hoàn toàn trí nhất thiết trí, đoạn trừ vĩnh viễn sự nối tiết của tất cả tập khí. Thiện Hiện Ông nên biết, trí của Đại Bách tức là nhẫn của Đại Bồ-Tát, trí hoặc đoạn của Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàng, A-la-hán và Độc Giác cũng là nhẫn của Đại Bồ-Tát. Như vậy, này Thiện Hiện, các Đại Bồ-Tát trước hết phải học đầy đủ tất cả các đạo, sau đó nhờ đạo của mình mới được nhập vào chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát. Sau khi đã nhập vào chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát, vì ấy tuần tự chứng đắc trí nhất thiết trí. Sau khi đã chứng đắc trí nhất thiết trí, vì ấy mới đem kết quả đó làm lợi ích cho tất cả hữu tình. Bây giờ, Cụ Thọ Thiện Hiện lại Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Như đã nói, các Đại Bồ-Tát nên học để biết tướng của tất cả đạo như là đạo Thanh Văn, hoặc đạo Độc Giác, hoặc đạo Bồ-Tát, hoặc đạo Như Lai. Chỉ biết tất cả loại tướng của những đạo này gọi là đạo tướng trí. Các Đại Bồ-Tát làm cách nào để phát sanh đạo tướng trí này? Phật Bảo Thiện Hiện Các hành, trạng, tướng có thể hiện bày đạo tướng trí là đối với tất cả các hành, trạng, tướng như vậy, các Đại Bồ-Tát đều hiện chứng đẳng giác. Sau khi đã hiện chứng đẳng giác, họ như thật giảng nói, khai thị, tạo dựng, kiến lập cho người khác, làm cho các hữu tình được hiểu biết không điên đảo và tùy ý đạt được những lợi ích mà mình mong cầu. Đối với tất cả âm thanh, ngôn ngữ, Đại Bồ-Tát này đều được Pháp Môn Đà-La-Ni thiện xảo. Nhờ Pháp Môn Đà-La-Ni thiện xảo này, vị ấy phát sanh đủ loại âm thanh ngôn ngữ, giảng nói chánh Pháp cho hết thậy các loại hữu tình khắp ba ngàn đại thiên thế giới, làm cho họ biết âm thanh được nghe đều như tiếng vang. Do đó, tuy có hiểu nhưng họ không chấp trước. Thiện Hiện Do nhân duyên này các Đại Bồ-Tát nên học viên mãn các đạo tướng trí. Sau khi đã học viên mãn đạo tướng trí, vị ấy biết như thật về các loại ý thích và tùy miên khác nhau của tất cả các loại hữu tình. Hãy làm lợi ích an lạc theo ý thích của họ nghĩa là biết như thật ý thích tùy miên của các hữu tình ở địa ngục và nhân quả của nó, biết rồi tìm cách ngăn lấp đường đó, cũng biết như thật về ý thích tùy miên của các hữu tình thuộc bàn xanh và nhân quả của nó, biết rồi tìm cách ngăn lấp đường đó, cũng biết như thật về ý thích tùy miên của các hữu tình thuộc cõi quỷ và nhân quả của nó, biết rồi tìm cách ngăn lấp đường ấy, cũng biết như thật về ý thích tùy miên của rồng, giả soa, atula và nhân. Quả của nó, biết rồi tìm cách ngăn lấp đường ấy, cũng biết như thật về ý thích tùy miên của người và chiêu thiên cõi dục và nhân quả của họ, biết rồi tìm cách ngăn che đường ấy, cũng biết như thật về ý thích tùy miên của trời phạm chúng cho đến trời sát trứu cánh và nhân quả của họ, biết rồi tìm cách ngăn che đường ấy. Cũng biết như thật về ý thích tùy miên của trời không vô biên xứ cho đến trời phi tưởng phi phi tưởng xứ và nhân quả của họ, biết rồi tìm cách ngăn che đường ấy, cũng biết như thật về bốn niềm trụ cho đến tám chi thanh đạo và nhân quả của nó, cũng biết như thật về ba pháp môn giải thoát và nhân quả của nó, cũng biết như thật về bốn tịnh lựu, bốn vô lượng, bốn định vô sắc và nhân quả của nó, cũng biết như thật về tám giải thoát, tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười điếm xứ và nhân quả của nó. Cũng biết như thật về thánh đế khổ, tập, diệt, đạo và nhân quả của nó, cũng biết như thật về bố thí ba la mật đa cho đến bát ngã ba la mật đa và nhân quả của nó, cũng biết như thật về pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không và nhân quả của nó, cũng biết như thật về chân như cho đến cảnh giới bất tương nghị và nhân quả của nó, cũng biết như thật về tỉnh quán địa cho đến như lai địa và nhân quả của nó, cũng biết như thật về cực khỉ địa cho đến pháp vân địa và nhân quả của nó. Cũng biết như thật về tất cả pháp môn đa la ni, tất cả pháp môn tam ma địa và nhân quả của nó, cũng biết như thật về năm loại mắt, sáu phép thần thông và nhân quả của nó, cũng biết như thật về mười lực như lai cho đến mười tám pháp phật bất cộng và nhân quả của nó, cũng biết như thật về pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã và nhân quả của nó, cũng biết như thật về trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và nhân quả của nó. Thiện hiện Sau khi biết như thật các đạo Thanh Văn V, V, và nhân quả của nó rồi, tùy theo căng của họ, các Đại Bồ Tát giúp các hữu tình đứng vững nơi đạo Ba Thừa, làm cho họ siêng năng tu học đạt được cứu cánh. Thiện hiện Các Đại Bồ Tát nên phát sanh các đạo tướng trí như vậy. Đại Bồ Tát nào có thể học các đạo tướng trí này thì có thể biết được các loại giới tánh, ý thích và tùy miên của các hữu tình. Sau khi đã biết, vì ấy tùy theo căng cơ mà giảng nói chánh Pháp giúp cho họ đạt được quả báu thù thắng mà họ mong cầu, quyết không bị tổn thất. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này hoàn toàn không đạt căng cơ hơn kém của hữu tình, hiểu rõ như thật tâm sở sai biệt và sự qua lại sanh tử của các hữu tình nên Pháp họ nói ra không làm tổn hại hữu tình. Thiện hiện Các Đại Bồ Tát nên thực hành các đạo Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa này. Vì sao? Vì tất cả Pháp Bồ Đề Phần và Đạo Thanh Văn, độc giác, mà Bồ Tát học đều lệ thuộc vào Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, tất cả Thanh Văn, độc giác, Bồ Tát học Pháp này đều đạt được cứu cánh. Bây giờ, cụ Thọ Thiện hiện Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Tất cả Pháp Bồ Đề Phần cho đến Bồ Đề, tất cả Pháp như vậy, chẳng hợp, chẳng tan, vô sắc, vô kiến, vô đối, một tướng được gọi là vô tướng thì vì sao Pháp Bồ Đề Phần như vậy có thể nắm giữ Bồ Đề? Bạch Thế Tôn Chẳng hợp, chẳng tan, vô sắc, vô kiến, vô đối, một tướng được gọi là vô tướng, chẳng có thủ, có xã đối với Pháp khác. Giống như hư không, không thủ, không xã, đối với tất cả Pháp vì có tự tánh là không. Cũng vậy, các Pháp đều có tự tánh là không nên không có thủ, xã đối với Pháp khác thì vì sao nói Pháp Bồ Đề Phần như bốn niềm trụ V, V, có thể nắm giữ Bồ Đề? Phật Bảo Thiện hiện Đúng vậy Đúng vậy Như lời ông nói, do tự tánh của tất cả các Pháp đều là không, không thủ, không xã nhưng các hữu tình không thể hiểu rằng tự tánh của tất cả Pháp là không, vì vậy để làm lợi ích cho họ, ta phương tiện giảng rằng Pháp Bồ Đề Phần có thể nắm bắt Bồ Đề. Lại nữa, Thiện hiện Hoặc nơi có sách, thọ, tưởng, hành, thức. Hoặc nhãn sứ cho đến Pháp sướng. Hoặc sát sứ cho đến Pháp sứ sướng. Hoặc nhãn giới cho đến ý giới. Hoặc sát giới cho đến Pháp giới. Hoặc nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Hoặc nhãn xuất cho đến ý xuất. Hoặc các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra. Hoặc đi giới cho đến thức giới. Hoặc nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Hoặc vô minh cho đến lão tử. Hoặc bố thí ba la mật đa cho đến bát nhã ba la mật đa. Hoặc Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không. Hoặc chân như cho đến cảnh giới bất tư nghi. Hoặc thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Hoặc bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Hoặc ba pháp môn giải thoát. Hoặc tám giải thoát cho đến mười điến xứng. Hoặc định quán địa cho đến như lai địa. Hoặc cực khỉ địa cho đến pháp vân địa. Hoặc tất cả pháp môn đà la ni, pháp môn tam ma địa. Hoặc năm loại mắt, sáu phép thần thông. Hoặc mười lực như lai cho đến mười tám pháp phật bất cộng. Hoặc ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc đại sĩ. Hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã. Hoặc trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Hoặc quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề. Hoặc tất cả hành của đại Bồ Tát. Hoặc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật. Hoặc đoạn trừ sự tương tục của tập khí phiền não, hoặc trí nhất thiết trí. Tất cả những pháp này đều ở trong thánh pháp và luật, chẳng hợp, chẳng tan, vô sắc, vô kiến, vô đối, một tướng được gọi là vô tướng. Để làm lợi ích các loài hữu tình, giúp họ hiểu đúng và nhập vào thật tướng của pháp nên như lai dựa vào thế tục để giảng, không dựa vào thắng nghĩa. Thiện hiện nên biết, các đại Bồ Tát nên học để hiểu biết tất cả pháp như vậy. Sau khi học và hiểu biết rồi, vị ấy thông suốt như thật là các pháp như vậy, đáng phải thọ dụng, các pháp như vậy không nên thọ dụng. Cụ thọ thiện hiện liền bạch Phật Các đại Bồ Tát phải học và hiểu những pháp gì mới có thể thông suốt như thật pháp không nên thọ dụng, phải học và hiểu biết những pháp gì để thông suốt như thật pháp nên thọ dụng. Phật bảo thiện hiện Các đại Bồ Tát phải học và hiểu biết pháp thanh văn và độc giác rồi mới thông suốt như thật, không nên thọ dụng, phải học và hiểu biết tất cả pháp tương ưng với trí nhất thiết trí, mới có thể thông suốt như thật tất cả các loài tướng nên thọ dụng. Thiện hiện Các đại Bồ Tát nên học bát nhã ba la mật đa sâu xa như vậy ở trong thánh pháp và luật này. Cụ thọ thiện hiện lại bạch Phật Bạch Thế Tôn Ngài đã nói thánh pháp và luật Thánh pháp và luật ấy vì sao được gọi là thánh pháp và luật? Phật bảo thiện hiện Hoặc các thanh văn, hoặc các độc giác, hoặc các Bồ Tát, hoặc chiêu vị như lai chẳng hợp, chẳng tan Đối với tham, sân, si chẳng hợp, chẳng tan Đối với ngũ thuần hạ phần kiết sử chẳng hợp, chẳng tan Đối với ngũ thuần thường phần kiết sử chẳng hợp, chẳng tan Đối với ngũ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng hợp, chẳng tan Đối với bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo chẳng hợp, chẳng tan Đối với thánh đế khổ, tập, diệt, đạo chẳng hợp, chẳng tan Đối với ba pháp môn giải thoát chẳng hợp, chẳng tan Đối với tám giải thoát cho đến mười biến xứ chẳng hợp, chẳng tan Đối với tịnh quán địa cho đến như lai địa chẳng hợp, chẳng tan Đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông chẳng hợp, chẳng tan Đối với bố thí ba la mật đa cho đến bát nhã ba la mật đa chẳng hợp, chẳng tan Đối với pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không chẳng hợp, chẳng tan Đối với chân như cho đến cảnh giới bất tương nhì chẳng hợp, chẳng tan Đối với cực khỉ địa cho đến pháp vân địa chẳng hợp, chẳng tan Đối với tất cả pháp môn đa la ni, pháp môn tam ma địa chẳng hợp, chẳng tan Đối với mười lực như lai cho đến mười tám pháp phật bất cộng chẳng hợp, chẳng tan Đối với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc đại sĩ chẳng hợp, chẳng tan Đối với pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả chẳng hợp, chẳng tan Đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng hợp, chẳng tan Đối với quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề chẳng hợp, chẳng tan Đối với tất cả hành của đại Bồ Tát chẳng hợp, chẳng tan Đối với quả vị vô thượng tránh đẳng bồ đề của chư Phật chẳng hợp, chẳng tan Đối với việc đoạn trừ vĩnh viễn sự tương tục của tất cả tập khí phiền não, chẳng hợp, chẳng tan Đối với trí nhất thiết ký chẳng hợp, chẳng tan Đối với cảnh giới hữu vi chẳng hợp, chẳng tan Đối với cảnh giới vô vi chẳng hợp, chẳng tan Thiện hiện Khi gọi là bậc thánh, đây là pháp và luật của bậc thánh ấy, vì vậy gọi là thánh pháp và luật Vì sao? Đó là tất cả pháp vô sắc, vô kiến, vô đối, một tướng được gọi là vô tướng Các vị thánh kia đang thấy như thật pháp ấy Thiện hiện nên biết, pháp vô sắc chẳng hợp, chẳng tan Đối với pháp vô sắc, pháp vô kiến chẳng hợp, chẳng tan Đối với pháp vô kiến, pháp vô đối chẳng hợp, chẳng tan Đối với pháp vô đối, pháp một tướng chẳng hợp, chẳng tan Đối với pháp một tướng, pháp vô tướng chẳng hợp, chẳng tan Đối với pháp vô tướng Thiện hiện Các đại Bồ Tát thường nên tu học bác nhã Palamata sâu xa, vô sắc, vô kiến, vô đối, một tướng, vô tướng này Học rồi không nắm bác tướng tất cả các pháp Bây giờ, cụ thọ thiện hiện bạch Phật Bạch Thế Tôn Lẽ nào các đại Bồ Tát không nên học tướng của sắc cho đến tướng của thức? Lẽ nào không nên học tướng của nhãn xứ cho đến tướng của ý xứ? Lẽ nào không nên học tướng của sắc giới cho đến tướng của pháp giới? Lẽ nào không nên học tướng của nhãn giới cho đến tướng của ý giới? Lẽ nào không nên học tướng của sắc giới cho đến tướng của pháp giới? Lẽ nào không nên học tướng của nhãn thức giới cho đến tướng của ý thức giới? Lẽ nào không nên học tướng của nhãn xúc cho đến tướng của ý xúc? Lẽ nào không nên học tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến tướng của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra? Lẽ nào không nên học tướng của địa giới cho đến tướng của thức giới? Lẽ nào không nên học tướng của nhân duyên cho đến tướng của tăng thượng duyên? Lẽ nào không nên học tướng của vô minh cho đến tướng của lão tử? Lẽ nào không nên học tướng của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến tướng của bác ngã Ba-la-mật-đa? Lẽ nào không nên học tướng của pháp nội không cho đến tướng của pháp vô tính tự tính không? Lẽ nào không nên học tướng của Trần Như cho đến tướng của cảnh giới bất tương nhị? Lẽ nào không nên học tướng của thánh đế khổ, tập, diệt, đạo? Lẽ nào không nên học tướng của bốn tỉnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc? Lẽ nào không nên học tướng của bốn niệm trụ cho đến tướng của tám chi thánh đạo? Lẽ nào không nên học tướng của tám giải thoát cho đến tướng của mười biến thướng? Lẽ nào không nên học tướng của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện? Lẽ nào không nên học tướng của tỉnh quán địa cho đến tướng của Như Lai Địa? Lẽ nào không nên học tướng của cực khỉ địa cho đến tướng của Pháp Vân Địa? Lẽ nào không nên học tướng của tất cả pháp môn Đà La Nị, pháp môn Tam Ma Địa? Lẽ nào không nên học tướng của năm loại mắt, sáu phép thần thông? Lẽ nào không nên học tướng của mười lực Như Lai cho đến tướng của mười tám pháp Phật Bất Cộng? Lẽ nào không nên học tướng của ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Bậc Đại Sĩ? Lẽ nào không nên học tướng của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả? Lẽ nào không nên học tướng của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng? Lẽ nào không nên học tướng của quả dự lưu cho đến tướng của độc giác bồ đề? Lẽ nào không nên học tướng của tất cả hành của Đại Bồ Tát và quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật? Lẽ nào không nên học tướng của việc đoạn trừ vĩnh viễn sự tương tục của tập khí phiền não và tướng của trí nhất thiết trí? Lẽ nào không nên học tướng của việc biết khổ, giúp trưởng nguyên nhân của khổ, chính đắc niết bàn và tu đạo? Lẽ nào không nên học tướng của việc quán duyên khởi theo chiều thuận nghịch? Lẽ nào không nên học tướng thánh pháp của tất cả Bậc Thánh? Lẽ nào không nên học tướng của cảnh giới hữu vi và cảnh giới vô vi? Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát không học các pháp tướng và các hành tướng thì làm sao có thể vượt qua địa vị của tất cả thanh văn, độc giác? Nếu không thể vượt qua địa vị của tất cả thanh văn, độc giác thì làm sao có thể nhập vào tránh tánh ly xanh của Bồ Tát? Nếu không thể nhập vào tránh tánh ly xanh của Bồ Tát thì làm sao có thể trứng đắc trí nhất thiết trí? Nếu không thể trứng đắc trí nhất thiết trí thì làm sao có thể chuyển pháp luân vi diệu? Nếu không thể chuyển pháp luân vi diệu thì làm sao có thể dùng tránh pháp ba thừa để an lập hữu tình giúp họ vượt qua biển khổ sanh tử không bờ mé? Phật Bảo Thiện hiện Nếu tất cả các pháp có thật tướng thì các đại Bồ Tát nên học các pháp đó, do tất cả các pháp không có thật tướng nên các đại Bồ Tát không học tướng của nó, cũng không học pháp vô tướng. Vì sao? Vì dù Phật có xuất thế hay không xuất thế thì pháp giới là thường trụ và các pháp chỉ có một tướng là vô tướng. Vô tướng này chẳng có tướng, cũng chẳng không có tướng cho nên không thể học. Bây giờ, Cụ Thọ Thiện hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Nếu tất cả các pháp đều chẳng có tướng, cũng chẳng không thì làm sao đại Bồ Tát có thể tu bác nhã Ba-la-mật-đa? Bạch Thế Tôn Đại Bồ Tát nào không thể tu bác nhã Ba-la-mật-đa thì không thể vượt qua địa vị thanh văn, độc giác. Nếu không thể vượt qua địa vị thanh văn, độc giác thì không thể nhập vào chánh tánh ly xanh của Bồ Tát. Nếu không thể nhập vào chánh tánh ly xanh của Bồ Tát thì không thể phát sanh vô sanh pháp nhẫn của Bồ Tát. Nếu thì không thể phát sanh vô sanh pháp nhẫn của Bồ Tát thì không thể phát sanh thần thông thắng diệu của Bồ Tát. Nếu không thể phát sanh thần thông thắng diệu của Bồ Tát thì không thể trang nghiêm cõi Phật, thành thuộc hữu tình. Nếu không thể trang nghiêm cõi Phật, thành thuộc hữu tình thì không thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Nếu không thể chứng đắc trí nhất thiết trí thì không thể chuyển pháp luôn vi diệu. Nếu không thể chuyển pháp luôn vi diệu thì không thể an lập hữu tình, giúp họ trụ nơi qua dự lưu, hoặc quả bất hoàng, hoặc quả bất hoàng, hoặc quả A-la-hán, hoặc độc giác bồ đề, hoặc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, cũng không thể an lập hữu tình giúp trụ vào phước nghiệp của tánh bố thí, hoặc phước nghiệp của tánh trì giới, hoặc phước nghiệp của tánh tu tập để được giàu có, vui sướng tự tại trong trời người. Phật Bảo Thiện Hiện Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông nói, tất cả pháp chẳng có tướng, chẳng vô tướng. Đại Bồ Tát nào biết tất cả pháp hoặc có tướng, hoặc vô tướng, hoặc đồng một tướng được gọi là vô tướng? Tu vô tướng này tức là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa. Cụ Thọ Thiện Hiện lại bạch Phật. Bạch Thế Tôn Vì sao Đại Bồ Tát tu vô tướng này là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Phật Bảo Thiện Hiện Đại Bồ Tát nào tu trừ bỏ tất cả pháp là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Cụ Thọ Thiện Hiện lại bạch Phật. Bạch Thế Tôn Vì sao Đại Bồ Tát tu trừ bỏ tất cả pháp là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Phật Bảo Thiện Hiện Đại Bồ Tát nào tu trừ bỏ sắc, phọ, tưởng, hành, thức là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ nhãn xứ cho đến ý xứ là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ sắc xứ cho đến pháp xứ là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ nhãn giới cho đến ý giới là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ sắc giới cho đến pháp giới là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ nhãn thức giới cho đến ý thức giới là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ nhãn xúc cho đến ý xúc là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ các họ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các họ do ý xúc làm duyên sanh ra là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ địa giới cho đến thức giới là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ nhân duyên cho đến tăng thượng duyên là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ vô minh cho đến lão tử là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ tỉnh quán địa là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ bốn tỉnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ tùy niệm Phật, tùy niệm Pháp, tùy niệm Tăng, tùy niệm Giới, tùy niệm Phả, tùy niệm Thiên, tùy niệm Vắng Lặng, tùy niệm Hơi Thở ra vào là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ tưởng vô thường, tưởng khổ, tưởng vô ngã, tưởng không, tưởng tập, tưởng nhân, tưởng sanh, tưởng duyên, tưởng diệt, tưởng tịnh, tưởng diệu, tưởng ly, tưởng đạo, tưởng như, tưởng hành, tưởng xuất là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ tưởng ta, tưởng hữu tình cho đến tưởng người biết, tưởng người thấy là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ tưởng thường, tưởng lạc, tưởng ngã, tưởng tịnh là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ tưởng duyên khởi là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ tưởng thánh đế là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ 4 niệm trụ cho đến 8 chi thánh đạo là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ 3 pháp môn giải thoát là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ 8 giải thoát cho đến 10 biến xứ là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ Tam-ma-địa có tầm, có tứ, Tam-ma-địa không tầm, có tứ, Tam-ma-địa không tầm, không tứ là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, pháp trí, loại trí, thế tục trí, tha tâm trí, tận trí, vô sanh trí, như thuyết trí là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ bố thí Ba-la-mật-đa cho đến bát nhã Ba-la-mật-đa là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ chân như cho đến cảnh giới bất tư nghị là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ tỉnh quán địa cho đến như lai địa là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ cực khỉ địa cho đến pháp vân địa là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ 5 loại mắt, 6 phép thần thông là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ 10 lực như lai cho đến 18 pháp Phật bất cộng là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của bậc đại sĩ là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ quả dự lưu cho đến độc giác bồ đệ là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ tất cả hành của đại Bồ Tát là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ của chư Phật là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ trí nhất thiết trí là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Tu trừ bỏ việc vĩnh viễn sự đoạn trừ, sự tương tục của tất cả tập khí phiền não là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Cụ Thọ Thiên Hiện lại bạch Phật Bạch Thế Tôn Tại sao đại Bồ Tát tu từ bỏ sắc, phọ, tưởng, hành, thức là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Như vậy, cho đến tu trừ bỏ việc vĩnh viễn sự đoạn trừ sự tương tục của tất cả tập khí phiền não là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Phật Bảo Thiên Hiện Lúc thực hành Bát Nhã Ba-la-mật-đa, nếu các đại Bồ Tát nghĩ là có sắc, phọ, tưởng, hành, thức chẳng trừ bỏ sắc, phọ, tưởng, hành, thức thì chẳng Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Như vậy, cho đến nghĩ là có việc đoạn trừ vĩnh viễn sự tương tục của tất cả tập khí phiền não, chẳng trừ bỏ việc đoạn trừ vĩnh viễn sự tương tục của tất cả tập khí phiền não thì chẳng Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Nhưng lúc thực hành Bát Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, các đại Bồ Tát không nghĩ là có sắc, phọ, tưởng, hành, thức là trừ bỏ sắc, phọ, tưởng, hành, thức đó là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Như vậy, cho đến không nghĩ là có việc đoạn trừ vĩnh viễn sự tương tục của tất cả tập khí phiền não là trừ bỏ việc đoạn trừ vĩnh viễn sự tương tục của tất cả tập khí phiền não đó là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Vì sao? Vì chẳng phải người có tưởng có thể thực hành Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Vì vậy, này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào trừ bỏ sắc, phọ, tưởng, hành, thức là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa cho đến Tu trừ bỏ việc đoạn trừ vĩnh viễn sự tương tục của tất cả tập khí phiền não là Tu Bát Nhã Ba-la-mật-đa? Lại nữa, thiện hiện! Người nào trụ nơi tưởng có thì không thể Tu Bố Thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát Nhã Ba-la-mật-đa, cũng không thể Tu Bốn Niệm Trụ cho đến Tám Chi Thánh Đạo, cũng không thể Trụ Nội Không cho đến Trụ Pháp Vô Tính Tự Tính Không, cũng không thể Trụ Chân Như cho đến Cạnh Giới Bất Tư Nghì, cũng không thể Trụ Thánh Đế Khổ, Tập, Việt, Đạo, cũng không thể Tu Pháp Môn Giải Thoát Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, cũng không thể Tu Bốn Tình Lự, Bốn Vô Lượng, Bốn Định Vô Sắc Thu Thắng, cũng không thể Tu Tám Giải Thoát cho đến Mười Biến Phướng, cũng không thể Tu Cực Khỉ Địa cho đến Pháp Vân Địa, cũng không thể Tu Tất Cả Pháp Môn Đà La Ni, Pháp Môn Tam Ma Địa, cũng không thể Tu Năm Loại Mắt, Sáu Phép Thần Thông, cũng không thể Tu Mười Lực Như Lai cho đến Mười Tám Pháp Phật Bất Cộng, cũng không thể Tu Pháp Không Quên Mất, Tánh Luân Luân Xã, cũng không thể Tu Trí Nhất Thiết, Trí Đạo Tướng, Trí Nhất Thiết Tướng, cũng không thể Tu Tất Cả Hành Của Đại Bồ-Tát, cũng không thể Tu Quả Vị Vô Thường Chánh Đẳng Bồ Đệ Của Chiêu Phật, cũng không thể Tu Trí Nhất Thiết Trí, cũng không thể Tu Việc Đoạn Trừ Vĩnh Viễn Sự Tương Tục Của Tất Cả Tập Khí Phiền Não. Vì sao? Bởi vì người trụ nơi tưởng có thì sẽ chấp ngã và ngã sở. Do việc chấp trước này nên chấp trước hai bên, do chấp trước hai bên nên chắc chắn không thể giải thoát sanh tử, không đạo, không niết bàn thì làm sao có thể như thật Tu Hành Sáu Pháp Ba La Mật Đa cho đến Vĩnh Viễn Đoạn Trừ Sự Tương Tục Của Tất Cả Tập Khí Phiền Não. Cụ Thọ Thiện Hiện Lại Bạch Phật Những gì là có, những gì là chẳng có Phật Bảo Thiện Hiện Hay là có, không hay là chẳng có Thiện Hiện Lại Hỏi Thế nào là hay? Thế nào là không hay? Phật Bảo Tượng Sắc cho đến Tượng Thức là hay, Tượng Sắc không cho đến Tượng Thức không là không hay Tượng Nhãn Xứ cho đến Tượng Ý Xứ là hay, Tượng Nhãn Xứ không cho đến Tượng Ý Xứ không là không hay Tượng Sắc Xứ cho đến Tượng Pháp Xứ là hay, Tượng Sắc Xứ không cho đến Tượng Pháp Xứ không là không hay Tượng Nhãn Giới cho đến Tượng Ý Giới là hay, Tượng Nhãn Giới không cho đến Tượng Ý Giới không là không hay Tượng Sắc Giới cho đến Tượng Pháp Giới là hay, Tượng Sắc Giới không cho đến Tượng Pháp Giới không là không hay Tượng Nhãn Thức Giới cho đến Tượng Ý Thức Giới là hay, Tượng Nhãn Thức Giới không cho đến Tượng Ý Thức Giới không là không hay Tượng Nhãn Xuất cho đến Tượng Ý Xuất là hay, Tượng Nhãn Xuất không cho đến Tượng Ý Xuất không là không hay Tượng Về Các Thọ Do Nhãn Xuất Làm Duyên Sanh Ra cho đến Tượng Về Các Thọ Do Ý Xuất Làm Duyên Sanh Ra là hay, Tượng Về Các Thọ Do Nhãn Xuất Làm Duyên Sanh Ra không cho đến Tượng Về Các Thọ Do Ý Xuất Làm Duyên Sanh Ra không là không hay Tượng Địa Giới cho đến Tượng Thức Giới là hay, Tượng Địa Giới không cho đến Tượng Thức Giới không là không hay Tượng Nhân Duyên cho đến Tượng Tăng Thượng Duyên là hay, Tượng Nhân Duyên không cho đến Tượng Tăng Thượng Duyên không là không hay Tượng Vô Minh cho đến Tượng Lão Tử là hay, Tượng Vô Minh không cho đến Tượng Lão Tử không là không hay Tượng Bố Thí Ba La Mật Đa cho đến Tượng Bát Nhã Ba La Mật Đa là hay, Tượng Bố Thí Ba La Mật Đa không cho đến Tượng Bát Nhã Ba La Mật Đa không là không hay Tượng Pháp Nội không cho đến Tượng Pháp Vô Tính Tự Tính không là hay, Tượng Pháp Nội không không cho đến Tượng Pháp Vô Tính Tự Tính không không là không hay Tượng Trân Như cho đến Tượng Cảnh Giới Bất Tư Nghị là hay, Tượng Trân Như không cho đến Tượng Cảnh Giới Bất Tư Nghị không là không hay Tượng Thánh Đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo là hay, Tượng Thánh Đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo không là không hay Tượng Bố Niệm Trụ cho đến Tượng Tám Chi Thánh Đạo là hay, Tượng Bố Niệm Trụ không cho đến Tượng Tám Chi Thánh Đạo không là không hay Tượng Bốn Tịnh Lự, Bốn Vô Lượng, Bốn Định Vô Sắc là hay, Tượng Bốn Tịnh Lự, Bốn Vô Lượng, Bốn Định Vô Sắc không là không hay Tượng Tám Giải Thoát cho đến Tượng Mười Biến Xứ là hay, Tượng Tám Giải Thoát không cho đến Tượng Mười Biến Xứ không là không hay Tượng Pháp Môn Giải Thoát không, Vô Tướng, Vô Nguyện là hay, Tượng Pháp Môn Giải Thoát không, Vô Tướng, Vô Nguyện không là không hay Tượng Tịnh Quán Địa cho đến Tượng Như Lai Địa là hay, Tượng Tịnh Quán Địa không cho đến Tượng Như Lai Địa không là không hay Tượng Cực Khỉ Địa cho đến Tượng Pháp Vân Địa là hay, Tượng Cực Khỉ Địa không cho đến Tượng Pháp Vân Địa không là không hay Tượng Pháp Môn Đà La Nị, Pháp Môn Tam Ma Địa là hay, Tượng Tất Cả Pháp Môn Đà La Nị, Pháp Môn Tam Ma Địa không là không hay Tượng Năm Loại Mắt, Sáu Phép Thần Thông là hay, Tượng Năm Loại Mắt, Sáu Phép Thần Thông không là không hay Tượng Mười Lực Như Lai cho đến Tượng Mười Tám Pháp Phật Bất Cộng là hay, Tượng Mười Lực Như Lai không cho đến Tượng Mười Tám Pháp Phật Bất Cộng không là không hay Tượng Ba Mươi Hai Tướng Tốt, Tám Mươi Vẽ Đẹp của Bậc Đại Sĩ là hay, Tượng Ba Mươi Hai Tướng Tốt, Tám Mươi Vẽ Đẹp của Bậc Đại Sĩ không là không hay Tượng Pháp Không Quên Mất, Tánh Luôn Luôn Sả là hay, Tượng Pháp Không Quên Mất, Tánh Luôn Luôn Sả không là không hay Tượng Trí Nhất Thiết, Trí Đạo Tướng, Trí Nhất Thiết Tướng là hay, Tượng Trí Nhất Thiết, Trí Đạo Tướng, Trí Nhất Thiết Tướng không là không hay Tượng Quả Dự Lưu cho đến Tượng Độc Giác Bồ Đề là hay, Tượng Quả Dự Lưu không cho đến Tượng Độc Giác Bồ Đề không là không hay Tượng Tất Cả Hành của Đại Bồ Tát và Quả Vị Vô Thường Chánh Đẳng Bồ Đề của Phật là hay, Tượng Tất Cả Hành của Đại Bồ Tát và Quả Vị Vô Thường Chánh Đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật không là không hay Tượng Cảnh Giới Hữu Vi, Cảnh Giới Vô Vi là hay, Tượng Cảnh Giới Hữu Vi, Cảnh Giới Vô Vi không là không hay Thiện hiện, cho đến tất cả tượng đều là hay, cho đến tất cả hay đều là có, cho đến tất cả có đều có sanh tử Đã có sanh tử thì không thể giải thoát sanh, lão, bệnh, tử, sầu thang, lo, buồn, khổ não Thiện hiện, không của các tượng đều là không hay, các pháp không hay đều là chẳng có, các pháp chẳng có đều là không sanh tử Người không sanh tử thì có thể giải thoát sanh, lão, bệnh, tử, buồn, rầu, khổ não Thiện hiện, do nhân viên này nên biết tất cả những người có tượng hay thì chắc chắn không thể bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã, ba la mật đa, không chứng đắc, không hiện quán cho đến phận những người ấy còn chẳng có hún chi có thể biết khắp tất cả sắc, thọ, tượng, hành, thức Như vậy, cho đến không thể biết khắp tất cả trí nhất thiết trí, người ấy còn không thể tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, hún chi có thể đắc quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề, hoặc là có thể chứng đắc trí nhất thiết trí và có thể đoạn trừ vĩnh viễn sự tương tục của tất cả tập khí phiền não LXXEE Phẩm Tuần Tử 01 Bây giờ, cụ Thọ Thiện hiện lại Bạch Phật Bạch Thế Tôn Nếu người trụ nơi tưởng có hoặc không thuận nhẫn, cũng không tu đạo, đắc quả nhờ hiện quán, thì người trụ tưởng không làm sao có thuận nhẫn hoặc tỉnh quán địa, như vậy cho đến hoặc như lai địa, hoặc tu thánh đạo Nhờ tu thánh đạo mới đoạn trừ các phiền não, người bị phiền não này ngăn che còn không thể chứng đắc địa vị tương ưng với thanh văn, độc giác, hún là nhập vào chánh tánh ly xanh của Bồ Tát, nếu không thể nhập vào chánh tánh ly xanh của Bồ Tát thì làm sao có thể chứng đắc trí nhất thiết trí, nếu không thể chứng đắc trí nhất thiết trí thì làm sao có thể đoạn trừ vĩnh viễn sự tương tục của tất cả tập khí phiền não Bạch Thế Tôn Nếu tất cả Pháp đều vô sở hữu, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, các Pháp như vậy hoàn toàn không sanh thì làm sao có thể chứng đắc trí nhất thiết trí Phật Bảo Thiện Hiện Đúng vậy, đúng vậy, như lời ông nói, người trụ nơi tưởng không thì không thuận nhẫn cho đến cũng không đoạn trừ vĩnh viễn sự tương tục của tất cả tập khí phiền não Nếu tất cả Pháp đều không sở hữu, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, các Pháp này hoàn toàn không sanh thì làm sao có thể chứng đắc trí nhất thiết trí Cụ Thọ Thiện Hiện Lại Bạch Phật Lúc thực hành bác nhã Palamuddha sâu xa, các đại Bồ Tát có tưởng có và có tưởng không không? Có tưởng sát và thọ, tưởng, hành, thức không? Như vậy, cho đến có tưởng trí nhất thiết trí không? Có tưởng đoạn trừ vĩnh viễn sự tương tục của tất cả tập khí phiền não không? Có tưởng sát và tưởng dứt sát không? Có tưởng thọ, tưởng, hành, thức và tưởng dứt thọ, tưởng, hành, thức không? Có tưởng nhẫn xứ cho đến ý xứ và tưởng dứt nhẫn xứ cho đến ý xứ không? Có tưởng sát xứ cho đến Pháp xứ và tưởng dứt sát xứ cho đến Pháp xứ không? Có tưởng nhãn giới cho đến ý giới và tưởng dứt nhãn giới cho đến ý giới không? Có tưởng sát giới cho đến Pháp giới và tưởng dứt sát giới cho đến Pháp giới không? Có tưởng nhãn thức giới cho đến ý thức giới và tưởng dứt nhãn thức giới cho đến ý thức giới không? Có tưởng nhãn xuất cho đến ý xuất và tưởng dứt nhãn xuất cho đến ý xuất không? Có tưởng về các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra? Cho đến các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra và tưởng dứt các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra, cho đến dứt các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra không? Có tưởng địa giới cho đến thức giới và tưởng dứt địa giới cho đến thức giới không? Có tưởng nhân duyên cho đến tăng thượng duyên và tưởng dứt nhân duyên cho đến tăng thượng duyên không? Có tưởng tham, sân, si và tưởng dứt tham, sân, si không? Có tưởng vô minh cho đến lão tử, buồn, rầu, khổ não và tưởng dứt vô minh cho đến lão tử buồn, rầu, khổ não không? Có tưởng thánh đế khổ và tưởng dứt thánh đế khổ không? Có tưởng thánh đế tập và tưởng dứt thánh đế tập không? Có tưởng thánh đế diệt và tưởng dứt thánh đế diệt không? Có tưởng thánh đế đạo và tưởng dứt thánh đế đạo không? Như vậy, cho đến có tưởng trí nhất thiết trí và tưởng dứt trí nhất thiết trí không? Có tưởng giúp trừ tất cả tập khí phiền não nối tiếc và tưởng việc giúp trừ sự vĩnh viễn tương tục của tất cả tập khí phiền não không? Phật Bảo Thiện Hiện Lúc thực hành bác nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả Pháp, các đại Bồ-Tát không tưởng có, cũng không tưởng không. Người nào không tưởng có, cũng không tưởng không thì nên biết đó là Bồ-Tát thuận nhẫn, cũng là tu đạo, cũng là đắc quả, cũng là hiện quán. Lại nữa, Thiện Hiện Các đại Bồ-Tát lấy vô tánh làm thánh đạo, lấy vô tánh làm hiện quán, thấu rõ tất cả Pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh. Do nhân duyên này, nên biết tất cả Pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh của mình. Cụ Thọ Thiện Hiện Liên Bạch Phật Nếu tất cả Pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh thì vì sao đối với tất cả các Pháp lấy vô tánh làm tánh, các vị như Lai ứng chánh đẳng giác hiện chứng đẳng giác rồi được gọi là Phật, chuyển tất cả Pháp và các cảnh giới một cách tự tại? Phật Bảo Thiện Hiện Đúng vậy! Đúng vậy! Hết thảy Pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh. Xưa kia, lúc tu học đạo Bồ-Tát, ta tùy thuận tu hành Pháp bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã ba la mật đa, do đó ta lị Pháp dục ác bất thiện, có tầm, có tứ, ly sanh hỷ lạc, nhập vào sơ tịnh lự và an trụ hoàn toàn trong đó. Như vậy, cho đến dứt vui, dứt khổ, vui buồn trước đây lặn mất, không khổ, không vui, xả niệm thanh tịnh, nhập vào tầng thiền thứ tư và an trụ hoàn toàn ở đó. Vào lúc ấy, đối với các tịnh lự và các chi tịnh lự, tuy hoàn toàn nắm giữ tướng của nó, nhưng ta không chấp trước vào chúng, không đắm trước vị ngọt của tịnh lự và các chi tịnh lự, hoàn toàn không nắm bắt đối với các tịnh lự và các chi của tịnh lự. Lúc ấy, đối với hành tướng bốn tịnh lự, ta thanh tịnh, không có chút phân biệt. Đối với các tịnh lự và các chi của tịnh lự tuy ta đã hoàn toàn thuần thuộc nhưng không nhận quả báo của nó, chỉ dựa vào tịnh lự để làm phát sanh thần cảnh, thiên nhi, tha tâm, túc trụ, thiên nhãn, trí thông. Tuy hoàn toàn nắm giữ tướng của năm thần thông này, nhưng ta không chấp trước, cũng không ưa thích vị ngọt của nó, đối với các cảnh thần thông, ta hoàn toàn không nắm bắt, cũng không phân biệt mà chỉ trụ như hư không. Lúc ấy, ta quán tất cả Pháp đều bình đẳng. Bình đẳng lấy vô tánh làm tánh. Nhờ tương ưng với bác nhã trong một chốc lát, ta chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, nghĩa là biết như thật đây là thánh đế khổ, thánh đế tập, thánh đế diệt, thánh đế đạo và tất cả đều đồng một tướng là vô tướng. Vô tướng này cũng là vô sở hữu. Nhờ vậy, ta thành tựu mười lực như lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại khả, mười tám Pháp Phật bất cộng và vô số công đức vi diệu không thể nghĩ bàn. Ta dùng trí vi diệu của Phật để an lập hữu tình vào ba nhóm khác nhau là nhóm chánh tánh định, nhóm ta tánh định và nhóm bất định. Sau khi đã an lập họ thành ba nhóm khác nhau như vậy, tùy theo căn cơ của họ mà ta tìm cách giáo hóa, giúp họ đạt được lợi ích an lạc thù thắng. Cụ thọ thiện hiện lại bạch Phật Ở trong tánh vô tánh của tất cả Pháp như lai ứng chánh đẳng giác lại phát sanh bốn tình lự, năm thần thông, chính đắc đại bồ đề, đầy đủ các công đức, an lập lợi lạc ba nhóm hữu tình như thế nào? Phật bảo thiện hiện Nếu các Pháp dục ác bất thiện mà có chút ít tự tánh, hoặc lại lấy tự tánh của vật khác làm tự tánh thì khi xưa lúc tu hành Bồ Tát Đạo, ta đã không cần thấu rõ tất cả Pháp dục ác bất thiện, đều lấy vô tánh làm tự tánh, đã lì dục ác, nhập vào tầng thiền đầu tiên cho đến nhập vào tầng thiền thứ tư và hoàn toàn an trụ trong đó. Do các Pháp dục ác bất thiện hoàn toàn không tự tánh, cũng không có tha tánh, chỉ lấy vô tánh làm tự tánh nên khi xưa lúc tu hành Bồ Tát Đạo, ta phải thấu rõ Pháp dục ác bất thiện, đều lấy vô tánh làm tự tánh. Sau khi lì dục ác v.v. ta nhập vào sơ thiền cho đến nhập vào tầng thiền thứ tư. Lại nữa, thiện hiện. Nếu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật có chút ít tự tánh hoặc lấy tha tánh làm tự tánh thì khi xưa lúc tu hành Bồ Tát Đạo, ta không cần phải thấu rõ quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Phật và các công đức đều lấy vô tánh làm tự tánh, đã chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề đầy đủ các công đức. Do quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề và các công đức hoàn toàn không tự tánh cũng không tha tánh, chỉ lấy vô tánh làm tự tánh nên khi xưa, lúc tu hành Bồ Tát Đạo, ta thấu rõ quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề đều lấy vô tánh làm tự tánh, đã chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề đầy đủ các công đức. Lại nữa, thiện hiện. Nếu các hữu tình có chút ít tự tánh, hoặc lấy tha tánh làm tự tánh thì ta đã thành Phật không còn thấu rõ tất cả hữu tình đều lấy vô tánh làm tự tánh, đã an lập hữu tình thành ba nhóm khác nhau, tùy theo căn cơ của họ, ta đã tìm cách giáo hóa, giúp họ đạt được an lạc, lợi ích thu thắng. Do các hữu tình hoàn toàn không có tự tánh cũng không có tha tánh, chỉ lấy vô tánh làm tự tánh. Sau khi thành Phật, ta thấu rõ các hữu tình đều lấy vô tánh làm tự tánh, đã an lập hữu tình thành ba nhóm khác nhau, tùy theo căn cơ của họ mà tìm cách giáo hóa, giúp họ đạt được an lạc, lợi ích thu thắng.