Home Page
cover of kinhdaibatnha (416)
kinhdaibatnha (416)

kinhdaibatnha (416)

00:00-43:17

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech
0
Plays
0
Downloads
0
Shares

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 17, Quyển 416, 18 Phẩm Tu Trị Địa 02 Thế nào là Đại Bồ Tát thường sống và không xa lì nơi vắng? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào xiên năng mong cầu vô thường chánh đẳng chánh giác, vượt qua các địa vị thanh văn, độc giác v.v. Đó là Đại Bồ Tát thường sống và không xa lì nơi vắng vẻ. Thế nào là Đại Bồ Tát thường ưa thiểu dục? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào quả bồ đề không còn mong cầu cho mình huống làm mong cầu việc thế gian và nhị thư. Đó là Đại Bồ Tát thường ưa thiểu dục. Thế nào là Đại Bồ Tát thường ưa vui biết đủ? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào chỉ vì chứng đắc trí nhất thiết trí nên đối với việc khác không có chấp trước. Đó là Đại Bồ Tát thường ưa vui biết đủ. Thế nào là Đại Bồ Tát thường không xa lì công đức đầu đa? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào thường đối với giáo Pháp thâm sâu Pháp lòng nhẫn nại quan sát kỹ? Đó là Đại Bồ Tát thường không xa lì công đức đầu đa. Thế nào là Đại Bồ Tát đối với các học sứ thường không xả bỏ? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào đối với các học sứ giữ gìn không trời bỏ? Đó là Đại Bồ Tát đối với học sứ thường không xả bỏ. Thế nào là Đại Bồ Tát đối với các dục lạc sanh lòng trức nhàm chán xa lì? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào đối với dục lạc ngon ngọt không phát sanh dục tâm? Đó là Đại Bồ Tát đối với các dục lạc sanh lòng trức nhàm chán xa lì. Thế nào là Đại Bồ Tát thường ưa phát sanh tâm câu hữu với tịch Việt? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào biết tất cả Pháp từng không phát sanh tạo tác? Đó là Đại Bồ Tát thường ưa phát sanh tâm câu hữu với tịch Việt. Thế nào là Đại Bồ Tát xả bỏ tất cả vật? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào đối với Pháp trong ngoài đều không lãnh thọ? Đó là Đại Bồ Tát xả bỏ tất cả vật. Thế nào là Đại Bồ Tát tâm không trầm trễ? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào đối với các thức không sanh tâm trụ vào? Đó là Đại Bồ Tát tâm không trầm trễ. Thế nào là Đại Bồ Tát đối với tất cả vật thường không luyến tiếc? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào đối với tất cả việc đều không suy nghĩ? Đó là Đại Bồ Tát đối với tất cả vật thường không luyến tiếc. Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ tư đối với 10 Pháp như vậy nên thọ trị không xả bỏ. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly nhà ở? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào ở các cõi Phật, sanh nơi nào cũng thường cư xuất da, cạo bỏ râu tóc, thọ trị Pháp phục, làm sa môn? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly nhà ở. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly bí sô ni? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào thường nên xa ly các bí sô ni, không ở chung dụ trong khoảnh khắc, cũng không sanh tâm khác? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly bí sô ni. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly nhà bỏng xẻng? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào suy nghĩ như vậy, ta phải thường làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, nay hữu tình này nhờ phước lực của mình cảm hóa được nhà thí chủ hảo tâm như vậy, nên ta ở trong đó không nên bỏng xẻng ganh tị, suy nghĩ rồi, xa ly nhà bỏng xẻng. Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly nhà bỏng xẻng. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly chúng hội tranh cãi, giận dữ? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào suy nghĩ như vậy, nếu ở chúng hội trong đó có thanh văn, độc giác, hoặc nói pháp yếu tương ưng với nhị thừa, thì làm cho ta thối lui tâm Đại Bồ Đề. Vì thế quyết định nên xa ly chúng hội. Lại suy nghĩ như vậy, những kẻ tranh cãi, giận dữ có thể làm cho hữu tình phát sanh lòng sân dận làm hại, tạo tác các nghiệp ác bất thiện, còn trái với đường thiện, húng là Đại Bồ Đề. Vì thế quyết định nên xa ly tranh cãi, giận dữ. Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly chúng hội tranh cãi, giận dữ. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly việc khen mình chê người? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào vì không thấy có các pháp trong ngoài nên xa ly sự khen mình chê người? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly việc khen mình chê người. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly mười nhiệp đạo bất thiện? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào suy nghĩ như vậy, mười nhiệp đạo bất thiện như vậy còn có thể chứng ngại con đường thiện trời, người húng là đối với Thánh Đạo và Đại Bồ Đề mà không làm chứng ngại. Vì thế đối với điều đó ta quyết định phải xa ly. Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly mười nhiệp đạo bất thiện. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly ngạo mạng tăng thượng? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào không thấy có pháp nào có thể phát sanh kêu ngạo này nên phải xa ly. Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly ngạo mạng tăng thượng. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly điên đảo? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào quán các việc điên đảo đều bất khả đắc. Vì thế quyết định phải xa ly điên đảo. Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly điên đảo. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly do dự? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào quán các việc do dự đều bất khả đắc. Vì thế quyết định phải xa ly do dự. Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly do dự. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly tham, sân, si? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào đều không thấy có việc tham, sân, si nên phải xa ly ba pháp như vậy. Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly tham, sân, si. Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ năm nên thường xa ly mười pháp như vậy. Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn sáu-ba-la-mật-đa? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào viên mãn sáu-ba-la-mật-đa vượt qua các địa vị thanh văn, độc giác. Lại an trụ sáu-ba-la-mật-đa này, Phật và Nhị Thư có thể vượt qua bờ kia, biết năm pháp. Những gì là năm? Một là quá khứ, hai là vị lai, ba là hiện tại, bốn là bất khả thuyết, năm là vô vi. Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn sáu-ba-la-mật-đa. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly tham thanh văn? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào nghĩ như vậy, tham các thanh văn chẳng chứng đạo vô thường bồ đệ nên phải xa ly. Vì sao? Vì nhằm chán sanh tử. Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly tham thanh văn. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly tham độc giác? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào nghĩ như vậy, tham các độc giác chẳng chứng đạo vô thường bồ đệ nên phải xa ly. Vì sao? Vì ưu niết bàn. Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly tham độc giác. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly tham nóng nảy? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào nghĩ như vậy, tham nóng nảy này chẳng chứng đạo vô thường bồ đệ nên phải xa ly. Vì sao? Vì sợ sanh tử. Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly tham nóng nảy. Sao Đại Bồ Tát nên xa ly thấy người đến xin tham sầu lo, không vui? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào nghĩ như vậy, tham sầu lo này chẳng chứng đạo vô thường bồ đệ nên phải xa ly. Vì sao? Vì trái với tử bi. Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly thấy người đến xin tham sầu lo, không vui. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly tham ưu sầu hối tiếc khi xả bỏ vật sở hữu? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào nghĩ như vậy, tham hối tiếc này chẳng chứng đạo vô thường bồ đệ nên phải xa ly. Vì sao? Vì trái với bổ nguyện. Nghĩa là khi mới phát tâm bồ đệ, ta nguyện, các vật sở hữu của ta bố thí cho người đến xin đầy đủ theo ý muốn của họ. Như vậy, sao hôm nay bố thí rồi lại hối tiếc? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly tham ưu sầu hối tiếc khi xả bỏ vật sở hữu. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly tham tiền cách dối gạt khi người đến xin? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào nghĩ như vậy, tham dối gạt này chẳng chứng đạo vô thường bồ đệ nên phải xa ly. Vì sao? Vì trái với thệ nguyện của mình. Nghĩa là khi mới phát tâm bồ đệ, ta thệ nguyện như vậy, phàm những vật sở hữu của ta bố thí cho người đến xin đầy đủ theo ý muốn của họ. Như vậy, sao hôm nay dối gạt họ? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly tham tiền cách dối gạt khi người đến xin. Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ sáu thường phải viên mạng sáu pháp nói trước, và phải xa ly sáu pháp nói sau. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp ngã cho đến chấp người thấy? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào quá ngã cho đến người thấy rốt ráo chẳng có bất khả đắc? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp ngã cho đến chấp người thấy. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp đoạn? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào quá nghĩa tất cả pháp rốt ráo không sanh, không đoạn gì? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp đoạn. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp thường? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào quá ngã tánh tất cả pháp đã không sanh, đó là ý nghĩa vô thường? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp thường. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly tướng tưởng? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào quáng hoặc như tham vê, vê, đều vô sở hữu? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly tướng tưởng. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly kiến chấp? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát không thấy có tánh các kiến chấp. Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly kiến chấp. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp danh sách? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào quáng tánh danh sách đều vô sở hữu bất khả đắc? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp danh sách. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp quẩn? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào quáng tánh các quẩn đều vô sở hữu bất khả đắc? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp quẩn. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp hướng? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào quáng tánh các xứ đều vô sở hữu bất khả đắc? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp hướng. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp giới? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào quáng tánh các giới đều vô sở hữu bất khả đắc? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp giới. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp đế? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào quáng tánh các đế đều vô sở hữu bất khả đắc? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp đế. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp duyên khởi? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào quáng tánh duyên khởi đều vô sở hữu bất khả đắc? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp duyên khởi. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp vướng mắt vào ba cõi? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào quáng tánh ba cõi đều vô sở hữu bất khả đắc? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp vướng mắt vào ba cõi. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp tất cả Pháp? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào quáng tánh các Pháp đều như hư không bất khả đắc? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp tất cả Pháp. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp tất cả Pháp như lý bất như lý? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào quáng tánh các Pháp đều bất khả đắc không có như lý bất như lý? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly chấp tất cả Pháp như lý bất như lý. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly kiến chấp lệ thuộc vào Phật? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào biết kiến chấp lệ thuộc vào Phật không được thấy Phật? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly kiến chấp lệ thuộc vào Phật. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly kiến chấp lệ thuộc vào Pháp? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào biết Pháp tánh chân thật không thể thấy? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly kiến chấp lệ thuộc vào Pháp. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly kiến chấp lệ thuộc vào Tăng? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào biết chúng hòa hợp vô tướng, vô vi không thể thấy? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly kiến chấp lệ thuộc vào Tăng. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly kiến chấp lệ thuộc vào Giới? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào biết tánh tội phước đều chẳng có? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly kiến chấp lệ thuộc vào Giới. Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly kiến chấp lệ thuộc vào không? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào quán không của các Pháp đều vô sở hữu không thể thấy? Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly kiến chấp lệ thuộc vào không? Thế nào là Đại Bồ Tát nên xa ly chán sợ tánh không? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào quán tự tánh tất cả Pháp đều không chẳng phải không cùng với không trái nhau và hại nhau nên việc chán sợ đều bất khả đắc. Do Pháp không này không nên chán sợ. Đó là Đại Bồ Tát nên xa ly chán sợ tánh không? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn thông đạt không? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào biết tự tướng tất cả Pháp đều không? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn thông đạt không? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn chứng vô tướng? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào không tư duy tất cả tướng? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn chứng vô tướng? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn biết vô nguyện? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào đối với các Pháp trí ba cõi đều không sanh? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn biết vô nguyện? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn ba luôn thanh tịnh? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào đầy đủ mười thiện nhiệt đạo thanh tịnh? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn ba luôn thanh tịnh? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn thương xót hữu tình và đối với hữu tình không có chấp trước? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào đã có lòng đại bi và làm nhiêm tịnh cõi tịnh độ đều không chấp trước? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn thương xót hữu tình và đối với hữu tình không có chấp trước? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn thấy tất cả Pháp bình đẳng và ở trong đó không có chấp trước? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào đối với tất cả Pháp không tăng, không giảm, đều không chấp trước? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn thấy tất cả Pháp bình đẳng và ở trong đó không có chấp trước? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn thấy tất cả hữu tình bình đẳng và ở trong đó không có chấp trước? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào đối với các hữu tình không tăng, không giảm, đều không chấp trước? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn thấy tất cả hữu tình bình đẳng và ở trong đó không có chấp trước? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn thông đạt nghĩa lý chân thật và ở trong đó không có chấp trước? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào đối với nghĩa lý chân thật của tất cả Pháp, tuy như thật thông đạt nhưng không có gì thông đạt, đều không chấp trước? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn thông đạt nghĩa lý chân thật và ở trong đó không có chấp trước? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn trí vô sanh nhẫn? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào nhẫn tất cả Pháp không sanh, không diệt, không tạo tác và biết danh sách trốt tráo không sanh? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn trí vô sanh nhẫn? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn thuyết nghĩa lý nhất tướng của tất cả Pháp? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào đối với tất cả Pháp thực hành tướng không hay? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn thuyết nghĩa lý nhất tướng của tất cả Pháp? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn diệt trừ phân biệt? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào đối với tất cả Pháp không sanh phân biệt? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn diệt trừ phân biệt? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn xa lì các tưởng? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào xa lì lớn nhỏ và vô lượng tưởng? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn xa lì các tưởng? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn xa lì các kiến? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào xa lì kiến cấp vào địa vị thanh văn, độc giác? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn xa lì các kiến? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn xa lì phiền não? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào xả bỏ tất cả Pháp khí phiền não hữu lậu trói buộc? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn xa lì phiền não? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn địa chỉ quán? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào tu trí nhất thiết, trí nhất thiết tưởng? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn địa chỉ quán? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn điều phục tâm tánh? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào không chấp trước ba cõi? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn điều phục tâm tánh? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn tâm tánh tịch tịnh? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào khéo thu nhất sáu căng? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn tâm tánh tịch tịnh? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn tánh trí vô ngại? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào tu đắc Phật nhãn? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn tánh trí vô ngại? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn không có ái nhiễm? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào xả bỏ sáu xướng? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn không có ái nhiễm? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn tùy theo ý muốn đến các cõi Phật, ở trong chúng hội Phật tự hiện thân mình? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào tu các thần thông thù thắng đến các cõi Phật, phụng sự cúng dường chư Phật Thế Tôn, thỉnh chuyển Pháp Luân, đổ các loại hữu tình? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn tùy theo ý muốn đến các cõi Phật, ở trong chúng hội Phật tự hiện thân mình? Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ bảy thường phải xa lịa hai mươi Pháp trước, và phải viên mãn hai mươi Pháp sau? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn hiểu rõ tâm hành của tất cả hữu tình? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào dùng trí nhất tâm như thật biết khắp tất cả tâm và tâm sở của hữu tình? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn hiểu rõ tâm hành của tất cả hữu tình? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn an trụ các thần thông? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ tự tại các loại thần thông, vì muốn thân trận cúng dường Phật, nên từ cõi Phật này đến cõi Phật kia mà có thể không sanh tưởng an trụ cõi Phật? Này Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn an trụ các thần thông? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn thấy các cõi Phật như sở kiến của mình mà tự làm nghiêm tình các cõi Phật? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ một cõi Phật có thể thấy vô biên cõi Phật trong mười phương, cũng có thể thị hiện mà không khi nào sanh tưởng các cõi Phật, và giáo hóa các hữu tình hiện ở khắp ba ngàn đại thiên thế giới làm chuyển luân vương và tự trang nghiêm, cũng có thể xả bỏ mà không chấp trước? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn thấy các cõi Phật, Phật như sở kiến của mình mà tự làm nghiêm tình các cõi Phật? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn cúng dường phụng sự chiêu Phật thế tôn, đối với thân như lai như thật quan sát? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình đối với nghĩa lý giáo Pháp như thật phân biệt? Như vậy, gọi là đem Pháp cúng dường phụng sự chiêu Phật? Lại quan sát kỹ Pháp thân chiêu Phật? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn cúng dường phụng sự chiêu Phật thế tôn, đối với thân như lai như thật quan sát? Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ tám đối với bốn Pháp này nên suyên năng để viên mãn? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn khí căng thắng liệt? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ mười lực của Phật như thật biết rõ các căng thắng liệt của tất cả hữu tình? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn khí căng thắng liệt? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn làm nhiêm tình cõi Phật? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, làm nhiêm tình tâm hành của tất cả hữu tình? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn nhiêm tình cõi Phật? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn thường nhập các định đẳng kỳ như huyển? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ đẳng kỳ này, tuy có thể thành tựu tất cả sự nghiệp, nhưng tầm đối với Pháp đều không lây chuyển? Lại tu tập đẳng kỳ rất thành thuật, nên không hành động lại có thể thường hiện tiện? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn thường nhập các định đẳng kỳ như huyển? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn tùy theo các hữu tình thiện căng đã thành thuật mà vào các cõi tự hiện thân giáo hóa? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào vì muốn giáo hóa các loại hữu tình nhờ thiện căng thù thắng mà tùy nghiệp hữu tình vào các cõi tự hiện thọ xanh? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn tùy theo các hữu tình thiện căng đã thành thuật mà vào các cõi tự hiện thân? Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ chính đối với bốn Pháp này nên suyên năng để viên mãn? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn nhít thọ vô biên phiếu sở đại nguyện, tùy theo sở nguyện đều làm cho chứng đắt? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào đã tu đầy đủ sáu ba la mật đa được trước viên mãn, hoặc làm nhân tịnh các cõi phật, hoặc giáo hóa các loại hữu tình, tùy theo sở nguyện đều có thể chứng đắt? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn nhít thọ vô biên phiếu sở đại nguyện, tùy theo sở nguyện đều làm cho chứng đắt? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn trí tùy theo âm thanh của các loại khác nhau, trời, đồng, dược xoa v.v.? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào tu tập từ vô ngại giải thù thắng, có thể hiểu biết rõ ngôn ngữ âm thanh khác nhau của trời, đồng, dược xoa, kiền đạc phược, a tố lạc, ít lộ trà, sẫn đại lạc, mạc hô lạc dạ, người chẳng phải người v.v.? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn trí tùy theo âm thanh của các loại khác nhau, trời, đồng, dược xoa v.v.? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn vô ngại biện thuyết? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào tu tập biện vô ngại thù thắng, có thể giảng thuyết vô tận cho các hữu tình? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn vô ngại biện thuyết? Thế nào là Đại Bồ Tát nên viên mãn nhập thai đầy đủ? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào tuy tất cả nơi sanh thật ra thường là hóa sanh, nhưng vì làm lợi ích cho hữu tình nên hiện vào trong thai tạng đầy đủ vô biên các việc thù thắng? Đó là Đại Bồ Tát nên viên mãn nhập thai đầy đủ? Thế nào là Đại Bồ Tát nên đầy đủ sanh ra viên mãn? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào khi ra khỏi bào thai thì hiện các việc khi hữu thù thắng làm cho các hữu tình trông thấy đều vui vẻ, được lợi ích an lạc lớn? Đó là Đại Bồ Tát nên đầy đủ sanh ra viên mãn? Thế nào là Đại Bồ Tát nên đầy đủ gia tộc viên mãn? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào hoặc sanh trong gia tộc lớn dòng sát đế lợi, hoặc sanh trong gia tộc lớn dòng bà la môn, cha mẹ chân tình? Đó là Đại Bồ Tát nên đầy đủ gia tộc viên mãn? Thế nào là Đại Bồ Tát nên đầy đủ chủng tánh viên mãn? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào ở đời quá khứ thường sanh trong dòng họ các Đại Bồ Tát? Đó là Đại Bồ Tát nên đầy đủ chủng tánh viên mãn? Thế nào là Đại Bồ Tát nên đầy đủ quyến thuộc viên mãn? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào thường đen vô lượng, vô số chúng Đại Bồ Tát để làm quyến thuộc? Đó là Đại Bồ Tát nên đầy đủ quyến thuộc viên mãn? Thế nào là Đại Bồ Tát nên đầy đủ sanh thân viên mãn? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào khi mới sanh ra thân mình đầy đủ tất cả tướng hảo, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp vô biên thế giới chiêu Phật, cũng làm cho các thế giới ấy biến động sáu cách, hữu tình gặp được đều có lợi ích? Đó là Đại Bồ Tát nên đầy đủ sanh thân viên mãn? Thế nào là Đại Bồ Tát nên đầy đủ xuất gia viên mãn? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào khi xuất gia vô lượng, vô số trăm ngàn câu chi, nà dũ đa chúng vây quanh tôn trọng, khen nợi, đi đến đạo tràng cắt bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, họ trì ứng khí, hướng dẫn vô lượng, vô biên hữu tình làm cho họ nương vào ba thừa để hướng đến viên tịch? Đó là Đại Bồ Tát nên đầy đủ xuất gia viên mãn? Thế nào là Đại Bồ Tát nên đầy đủ trang nhiên cội bồ đề viên mãn? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào với thiện căng thù thắng, nguyện lực rộng lớn, nên cảm ứng được cội nguồn bồ đề lớn như vầy, cộng làm bằng ngọc vệ lưu ly, gốc bằng vàng rồng, nhánh, lá, hoa, quả đều làm bằng bảy báu tốt đẹp, cây ấy cao rộng lớn trùng khắp ba ngàn đại thiên cõi Phật, ánh sáng chiếu soi khắp hàng hà sa số thế giới chiêu Phật trong mười phương? Đó là Đại Bồ Tát nên đầy đủ trang nhiên cội bồ đề viên mãn? Thế nào là Đại Bồ Tát nên đầy đủ tất cả công đức thành tựu viên mãn? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào đầy đủ phước tuệ tư lương thù thắng, giáo hóa hữu tình, làm nhiên tình cõi Phật? Đó là Đại Bồ Tát nên đầy đủ tất cả công đức thành tựu viên mãn? Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ mười nên siêng năng để viên mãn mười hai Pháp này? Thế nào là Đại Bồ Tát an trụ địa thứ mười nên nói không khác với chư Như Lai? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này đã viên mãn sáu Pháp Ba La Mật Đa, cho đến đã viên mãn mười tám Pháp Phật bất cộng, đầy đủ trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng? Hoặc lại đoạn hẳn tất cả tập khí tân tục của phiền não rồi an trụ Phật địa? Do đó nên nói, Đại Bồ Tát nào đã an trụ địa thứ mười nên nói không khác với chư Như Lai? Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ Tát an trụ địa thứ mười hướng đến địa Như Lai? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này với phương tiện thiện sảo thực hành sáu Ba La Mật Đa, bốn niệm trụ, cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng, trụ tánh địa, đệ bát địa, cụ kiến địa, bạc địa, ly dục địa, dĩ biện địa, độc giác địa và Bồ Tát địa, lại có thể đoạn hẳn tất cả tập khí phiền não tân tục, thành tựu Như Lai ứng chánh đẳng giác an trụ Như Lai địa? Này Thiện Hiện! Như vậy, Đại Bồ Tát an trụ địa thứ mười hướng đến Như Lai địa? Này Thiện Hiện! Bằng cách này nên biết Đại Bồ Tát phát tâm hướng đến Đại Thư? 19. Phẩm xuất trụ không một Lại nữa, Này Thiện Hiện! Ông hỏi Đại Thư như vậy từ nơi nào ra, đến trụ nơi nào? Này Thiện Hiện! Đại Thư như vậy từ trong ba cõi ra, đến an trụ vào trí nhất thiết trí, nhưng lấy không hai làm phương tiện nên không xuất không trụ? Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì hai Pháp như vậy, hoặc Đại Thư, hoặc trí nhất thiết trí, chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối nhất tướng gọi là vô tướng? Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Pháp vô tướng chẳng phải đã xuất trụ, chẳng phải sẽ xuất trụ, chẳng phải đang xuất trụ? Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn cho không của Pháp giới cũng có xuất trụ, nhưng không của Pháp giới không thể từ trong ba cõi mà xuất hiện, cũng không thể đến an trụ trong trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của Pháp giới, tự tánh không của Pháp giới là không? Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của không chân như, thật tế, bất tương như giới, an ẩn giới, tịch tịnh giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới cũng có xuất trụ, nhưng không của chân như cho đến không của diệt giới không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của chân như, tự tánh không của chân như là không, cho đến không của diệt giới, tự tánh không của diệt giới là không? Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của sắc cũng có xuất trụ, nhưng không của sắc không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của sắc, tự tánh không của sắc là không? Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của thọ, tưởng, hành, thức cũng có xuất trụ, nhưng không của thọ, tưởng, hành, thức không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của thọ, tưởng, hành, thức, tự tánh không của thọ, tưởng, hành, thức là không? Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của nhãn sứ cũng có xuất trụ, nhưng không của nhãn sứ không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của nhãn sứ, tự tánh không của nhãn sứ là không? Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của nhãn sứ cũng có xuất trụ, nhưng không của nhãn sứ không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của nhãn sứ, tự tánh không của nhãn sứ, tự tánh không của nhãn sứ là không? Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của nhãn sứ cũng có xuất trụ, nhưng không của nhãn sứ không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của nhãn sứ, tự tánh không của nhãn sứ là không? Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của nhãn sứ cũng có xuất trụ, nhưng không của nhãn sứ không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của nhãn sứ, tự tánh không của nhãn sứ, tự tánh không của nhãn sứ là không? Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của nhãn sứ cũng có xuất trụ, nhưng không của nhãn sứ không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của nhãn sứ, tự tánh không của nhãn sứ là không? Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của nhãn sứ, tự tánh không của nhãn sứ là không? Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của nhãn sứ cũng có xuất trụ, nhưng không của nhãn sứ không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của nhãn sứ, tự tánh không của nhãn sứ là không? Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của Thanh, Hương, Vị, Xuất, Pháp giới cũng có xuất trụ, nhưng Thanh, Hương, Vị, Xuất, Pháp giới không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của Thanh, Hương, Vị, Xuất, Pháp giới, tự tánh không của Thanh, Hương, Vị, Xuất, Pháp giới là Pháp không? Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của Nhãn thức giới cũng có xuất trụ, nhưng không của Nhãn thức giới không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của Nhãn thức giới, tự tánh không của Nhãn thức giới là không? Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của Nhãn thức giới cũng có xuất trụ, nhưng không của Nhãn thức giới không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của Nhãn thức giới, tự tánh không của Nhãn thức giới là không? Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của Nhãn thức giới cũng có xuất trụ, nhưng không của Nhãn thức giới không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của Nhãn thức giới, tự tánh không của Nhãn thức giới là không? Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của Nhãn thức giới cũng có xuất trụ, nhưng không của Nhãn thức giới không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của Nhãn thức giới, tự tánh không của Nhãn thức giới là không? Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của Nhãn thức giới cũng có xuất trụ, nhưng không của Nhãn thức giới không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của Nhãn thức giới, tự tánh không của Nhãn thức giới là không? Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của Nhãn thức giới cũng có xuất trụ, nhưng không của Nhãn thức giới không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất làm duyên sanh ra, tự tánh không của các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất làm duyên sanh ra là không? Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của Cảnh mộng cũng có xuất trụ, nhưng không của Cảnh mộng không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của Cảnh mộng, tự tánh không của Cảnh mộng là không? Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của Việt huyển, quán nắng, tiếng vang, bóng dáng, ảnh ảo, hoa đống trên hư không, Việt biến hóa cũng có xuất trụ. Nhưng không của Việt huyển cho đến không của Việt biến hóa không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của Việt huyển, tự tánh không của Việt huyển là không, cho đến không của biến hóa, tự tánh không của biến hóa là không. Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của bố thí Ba-la-mật-đa cũng có xuất trụ. Nhưng không của bố thí Ba-la-mật-đa không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của bố thí Ba-la-mật-đa, tự tánh không của bố thí Ba-la-mật-đa là không. Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã Ba-la-mật-đa cũng có xuất trụ. Nhưng không của tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã Ba-la-mật-đa không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí? Vì sao? Vì không của tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã Ba-la-mật-đa là không. Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của Pháp không nội cũng có xuất trụ, nhưng không của Pháp không nội không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của Pháp không nội, tự tánh không của Pháp không nội là không. Này Thiện Hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nhĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không trốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tán vô tán, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không vô tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không vô tánh tự tánh cũng có xuất trụ. Nhưng Pháp không của không ngoại cho đến Pháp không của không vô tánh tự tánh không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của Pháp không ngoại, tự tánh không của Pháp không ngoại là không, cho đến Pháp không của không vô tánh tự tánh, tự tánh không của không vô tánh tự tánh là không. Này thiện hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của bốn niệm trụ cũng có xuất trụ. Nhưng không của bốn niệm trụ không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của bốn niệm trụ, tự tánh không của bốn niệm trụ là không. Này thiện hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đảng giác, tám chi thánh đạo cũng có xuất trụ. Nhưng không của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của bốn chánh đoạn, tự tánh không của bốn chánh đoạn là không, cho đến tám chi thánh đạo, tự tánh không của tám chi thánh đạo là không. Này thiện hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho đến không của mười lực Phật cũng có xuất trụ. Nhưng không của mười lực của Phật không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của mười lực của Phật, tự tánh không của mười lực Phật là không. Này thiện hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại phả, mười tám Pháp Phật bất cộng cũng có xuất trụ. Nhưng không của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của bốn điều không sợ, tự tánh không của bốn điều không sợ là không, cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng, tự tánh không của mười tám Pháp Phật bất cộng là không. Này thiện hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho các bậc dự lưu có sanh đường ác, các bậc nhất lai có sanh trở lại nhiều lần, các bậc bất hoàng có sanh cõi dục, các đại Bồ Tát có đời sống tự lợi, các A-la-hán, độc giác, như lai có sanh đời sau, nhưng không có việc này. Vì sao? Vì các bậc dự lưu V, V, sanh đường ác V, V, bất khả đắc. Này thiện hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của dự lưu cũng có xuất trụ. Nhưng không của dự lưu không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến trụ trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của dự lưu, tự tánh không của dự lưu là không. Này thiện hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của dự lưu, bất hoàng, A-la-hán, độc giác, Bồ Tát, như lai cũng có xuất trụ. Nhưng không của dự lưu cho đến không của dự lưu không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của dự lưu, tự tánh không của dự lưu là không, cho đến không của dự lưu, tự tánh không của dự lưu là không. Này thiện hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của danh tự giả tưởng lời nói giả thiết cũng có xuất trụ. Nhưng không của danh tự giả tưởng lời nói giả thiết không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến trụ trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của danh tự giả tưởng lời nói giả thiết, tự tánh không của danh tự giả tưởng lời nói giả thiết là không. Này thiện hiện! Các cõi muốn làm cho Pháp vô tướng có sự xuất trụ tức là muốn làm cho không của vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tỉnh, vô tướng, vô vi cũng có xuất trụ. Nhưng không của vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tỉnh, vô tướng, vô vi không thể từ trong ba cõi xuất, cũng không thể đến an trụ vào trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không của vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tỉnh, vô tướng, vô vi tự tánh không của vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tỉnh, vô tướng, vô vi là không. Này thiện hiện! Do nhân duyên này đại thừa như vậy từ trong ba cõi xuất đến trụ trong trí nhất thiết trí. Nhưng lấy không hai làm phương tiện nên không xuất, không trụ. Vì sao? Vì Pháp vô tướng không lây chuyển.

Listen Next

Other Creators