Home Page
cover of kinhdaibatnha (415)
kinhdaibatnha (415)

kinhdaibatnha (415)

00:00-43:13

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech
0
Plays
0
Downloads
0
Shares

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 17 Quyển 415 17, Phẩm Niệm Trụ Đẳng 02 Lại nữa, này Thiện Hiện Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát là bốn thần túc Thế nào là bốn? Này Thiện Hiện Đại Bồ-Tát nào khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu dục ta ma địa, đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào sa lịa, nương vào vô nhiễm, tu tăm ta ma địa, đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào sa lịa, nương vào vô nhiễm, tu tăm ta ma địa, đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào sa lịa, nương vào vô nhiễm, tu tăm ta ma địa, đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào sa lịa, nương vào vô nhiễm, tu tăm ta ma địa, đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào sa lịa, nương vào vô nhiễm, tu tăm ta ma địa, đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào sa lịa, nương vào sa lịa, nương vào vô nhiễm, tu tăm ta ma địa, đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào vô nhiễm, nương vào vô nhiễm, tu tăm ta ma địa, đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào sa lịa, nương vào vô nhiễm, tu tăm ta ma địa, đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào sa lịa, nương vào vô nhiễm, tu tăm ta ma địa, đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào sa lịa, nương vào vô nhiễm, tu tăm ta ma địa, đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào sa lịa, nương vào vô nhiễm, tu tăm ta ma địa, đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào sa lịa, nương vào Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát là Năm Trăng. Thế nào là Năm? Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát nào khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đà, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập tính trăng, tinh tấn trăng, niệm trăng, định trăng, tuệ trăng? Này Thiện Hiện! Nên biết, đó là Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát là Năm Lực. Thế nào là Năm? Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát nào khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đà, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập tính trăng, tinh tấn trăng, niệm trăng, định trăng, tuệ trăng? Này Thiện Hiện! Nên biết, đó là Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát là Bảy Giác Chi. Thế nào là Bảy? Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát nào khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đà, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập niệm Đảng Giác Chi, trật pháp Đảng Giác Chi, tinh tấn Đảng Giác Chi, khỉ Đảng Giác Chi, khinh an Đảng Giác Chi, định Đảng Giác Chi, xã Đảng Giác Chi, nương vào xa liệt, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt, hồi hướng xã? Này Thiện Hiện! Nên biết, đó là Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát là tám chi thánh đạo. Thế nào là tám? Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát nào khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đà, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập tránh kiến, tránh tư duy, tránh ngữ, tránh nghiệp, tránh mạng, tránh tinh tấn, tránh niềm, tránh định, nương vào xa liệt, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt, hồi hướng xã? Này Thiện Hiện! Nên biết, đó là Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát là ba tam ma địa. Thế nào là ba? Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát nào khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đà, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán tự tướng tất cả pháp đều không, tâm an trụ, gọi là pháp môn giải thoát không, cũng gọi là không tam ma địa? Đó là thứ nhất. Đại Bồ-Tát nào khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đà, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán tự tướng tất cả pháp là không, nên đều không có tướng, tâm an trụ, gọi là pháp môn giải thoát vô tướng, cũng gọi vô tướng tam ma địa? Đó là thứ hai. Đại Bồ-Tát nào khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đà, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán tự tướng tất cả pháp là không, nên đều không nguyện, tâm an trụ gọi là pháp môn giải thoát vô nguyện, cũng gọi vô nguyện tam ma địa? Đó là thứ ba. Này Thiện Hiện! Nên biết, đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là 11 trí. Thế nào là 11? Những là pháp trí, loại trí, tha tâm trí, thế tục trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sanh trí, như thuyết trí. Thế nào là pháp trí? Này Thiện Hiện! Trí nào đem vô sở đắc làm phương tiện, biết tướng năm quẩn sai khác? Đó là pháp trí. Thế nào là loại trí? Này Thiện Hiện! Trí nào đem vô sở đắc làm phương tiện, biết nhãn cho đến Ý, sắc cho đến Pháp đều là vô thường? Đó là loại trí. Thế nào là tha tâm trí? Này Thiện Hiện! Trí nào đem vô sở đắc làm phương tiện, biết rõ pháp tâm, tâm sở của hữu tình khác không còn trở ngại? Đó là tha tâm trí. Thế nào là thế tục trí? Này Thiện Hiện! Trí nào đem vô sở đắc làm phương tiện, biết các hữu tình tu hành sai khác? Đó là thế tục trí. Thế nào là khổ trí? Này Thiện Hiện! Trí nào đem vô sở đắc làm phương tiện, biết khổ nên không sanh? Đó là khổ trí. Thế nào là tập trí? Này Thiện Hiện! Trí nào đem vô sở đắc làm phương tiện, biết tập nên đoạn trừ hẳn? Đó là tập trí. Thế nào là diệt trí? Này Thiện Hiện! Trí nào đem vô sở đắc làm phương tiện, biết diệt nên chứng đắc? Đó là diệt trí. Thế nào là đạo trí? Này Thiện Hiện! Trí nào đem vô sở đắc làm phương tiện, biết đạo nên tu tập? Đó là đạo trí. Thế nào là tận trí? Này Thiện Hiện! Trí nào đem vô sở đắc làm phương tiện, biết tham, sân, si đã hết? Đó là tận trí. Thế nào là vô sanh trí? Này Thiện Hiện! Trí nào đem vô sở đắc làm phương tiện, biết cá cõi, vĩnh viễn không trở lại nữa? Đó là vô sanh trí. Thế nào là như thuyết trí? Này Thiện Hiện! Trí nhất thiết tướng của Như Lai? Đó là như thuyết trí. Này Thiện Hiện! Nên biết, đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là ba căng, một là vị tri đương tri căng, hai là dĩ tri căng, ba là cụ tri căng. Thế nào là vị tri đương tri căng? Này Thiện Hiện! Các vị hữu học nào đối với các thánh đế chưa hiện quán, có tính căng, tinh tấn căng, niềm căng, định căng, tuệ căng? Đó là vị tri đương tri căng. Thế nào là dĩ tri căng? Này Thiện Hiện! Các vị hữu học nào đối với các thánh đế đã được hiện quán, có tính căng, tinh tấn căng, niềm căng, định căng, tuệ căng? Đó là dĩ tri căng. Thế nào là cụ tri căng? Này Thiện Hiện! Các vị vô học, hoặc A-La-Hán, hoặc độc giác, hoặc Đại Bồ-Tát đã trụ mười địa, hoặc chưa như lại ứng chánh đẳng giác, có tính căng, tinh tấn căng, niềm căng, định căng, tuệ căng? Đó là cụ tri căng. Này Thiện Hiện! Nếu ba căng này đen vô sở đắc làm phương tiện thì nên biết đó là tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát là ba tam ma địa. Thế nào là là ba? Một là tam ma địa có tầm, có tư. Hai là tam ma địa không có tầm chỉ có tư. Ba là tam ma địa không có tầm không có tư. Thế nào là tam ma địa có tầm, có tư? Này Thiện Hiện! Nếu xa lìa pháp dục ác bất thiện có tầm, có tư, lìa dục sanh hỷ lạc, nhập và an trụ hoàn toàn vào tình lựa thứ nhất. Đó là tam ma địa có tầm, có tư. Thế nào là tam ma địa không có tầm chỉ có tư? Này Thiện Hiện! Định trung gian tình lựa thứ nhất và tình lựa thứ hai. Đó là tam ma địa không có tầm chỉ có tư. Thế nào là tam ma địa không có tầm không có tư? Này Thiện Hiện! Từ tình lựa thứ hai cho đến định phi tưởng phi phi tưởng xướng. Đó là tam ma địa không có tầm không có tư. Này Thiện Hiện! Nếu ba pháp này đem vô sở đắc làm phương tiện thì nên biết đó là Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát là mười tùy niệm. Thế nào là mười? Nghĩa là tùy niệm Phật, tùy niệm Pháp, tùy niệm Tăng, tùy niệm Giới, tùy niệm Xã, tùy niệm Thiên, tùy niệm Tịch Tịnh, tùy niệm Hơi Thở ra vào, tùy niệm Thân, tùy niệm Tử. Này Thiện Hiện! Nếu mười pháp này đem vô sở đắc làm phương tiện thì nên biết đó là Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát là các thiện pháp, bốn tình lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, chính định thứ đệ v.v. Đem vô sở đắc làm phương tiện thì nên biết đó là Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, này Thiện Hiện! Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát là mười lực của Như Lai. Thế nào là mười? Này Thiện Hiện! Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các pháp nhân quả v.v. tướng hướng, phi hướng. Đó là thứ nhất. Này Thiện Hiện! Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ sự khác nhau của nghiệp báo, nhân quả mà các loài hữu tinh lãnh thọ trong quá khứ, vị Lai, hiện tại. Đó là thứ hai. Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ tướng thế gian chẳng phải một cảnh giới. Đó là thứ ba. Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các loài hữu tinh chẳng phải một thắng giải, mà nhiều loài thắng giải. Đó là thứ tư. Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các căng thắng liệt của các loài hữu tinh. Đó là thứ năm. Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ hành tướng biến hành. Đó là thứ sáu. Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các loài hữu tinh căng, lực, giá tri, giải thoát, tình lự, đẳng trì, đẳng trí, nhiễm, tình sai khác. Đó là thứ bảy. Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các loài hữu tinh có vô lượng trúc mạng sai khác. Đó là thứ tám. Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các loài hữu tinh có vô lượng các sanh tử sai khác. Đó là thứ chính. Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các lậu được đoạn hẳn, được vô lậu tâm giải thoát, được vô lậu tuệ giải thoát, ở trong hiện pháp tự mình chính đắc và an trụ hoàn toàn, có thể biết rõ như thật đây là đời sống cuối cùng, phạm hành đã lập, việc làm đã làm xong, không còn thọ thân sau. Đó là thứ người. Này thiện hiện! Nên biết, đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, này thiện hiện! Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là bốn điều không sợ. Thế nào là bốn? Này thiện hiện! Bồ-Tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, tự xưng ta là chánh đẳng giác. Đối với câu hỏi ấy ta thấy rõ là không có căn cứ. Vì thấy rằng câu hỏi của vị ấy là không có căn cứ, nên được an ổn an trụ vào chỗ không lo, không sợ, tự xưng ta ở ngôi vị của bậc đại tiên, ở giữa đại chúng trống tiếng sư tử, chuyển bánh xe dịu pháp. Pháp luôn ấy thanh tịnh, chánh chơn, vô thường mà tất cả Samôn, hoặc Bà La Môn, hoặc Thiên, Ma, Phạm Vương, hoặc người trong thế gian đều không có thể chuyển được. Đó là thứ nhất! Này thiện hiện! Bồ-Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tự xưng ta đã đoàn hẳn các lậu. Nếu có Samôn, hoặc Bà La Môn, hoặc Thiên, Ma, Phạm Vương, hoặc người khác trong thế gian nương vào Pháp đặt ra câu hỏi rằng, làm ta nhớ nghĩ, các lậu như vậy chưa được đoàn hẳn. Đối với câu hỏi ấy, ta thấy rõ là không có căn cứ. Vì thấy rằng câu hỏi của vị ấy là không có căn cứ, nên được an ổn an trụ vào chỗ không lo, không sợ, tự xưng ta ở ngôi vị của bậc đại tiên, ở trong đại chúng trống tiếng sư tử, chuyển bánh xe dịu pháp. Pháp luôn ấy thanh tịnh, chánh chân, vô thường mà tất cả Samôn, hoặc Bà La Môn, hoặc Thiên, Ma, Phạm Vương, hoặc người ở thế gian đều không có thể chuyển được. Đó là thứ hai. Này thiện hiện! Bồ-Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, nói Pháp chứng đạo cho các đệ tử. Nếu có Samôn, hoặc Bà La Môn, hoặc Thiên, Ma, Phạm Vương, hoặc người trong thế gian nương vào Pháp và đặt ra câu hỏi, làm cho ta nghĩ tu tập Pháp này không thể chứng đạo. Đối với câu hỏi ấy, ta thấy rõ không có căn cứ. Vì thấy rằng câu hỏi của vị ấy là không có căn cứ, nên được an ổn an trụ vào chỗ không lo, không sợ, tự xưng ta ở ngôi vị của bậc đại tiên, ở trong đại chúng trống tiếng sư tử, chuyển bánh xe dịu pháp. Pháp luôn ấy thanh tịnh, chánh chơn, vô thượng mà tất cả Samôn, hoặc Bà La Môn, hoặc Thiên, Ma, Phạm Vương, hoặc người trong thế gian đều không có thể chuyển được. Đó là thứ ba. Này thiện hiện! Bồ-Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, thuyết Pháp giấc trừ khổ cho các đệ tử. Nếu có Samôn, hoặc Bà La Môn, hoặc Thiên, Ma, Phạm Vương, hoặc người trong thế gian nương vào giáo Pháp đặt ra câu hỏi, làm cho ta nghĩ tu đạo này không thể hết khổ. Đối với câu hỏi ấy, ta thấy rõ là không có căn cứ. Vì thấy rằng câu hỏi của vị ấy là không có căn cứ, nên được an ổn an trụ vào chỗ không lo, không sợ, tự xưng ta ở ngôi vị của bậc đại tiên, ở trong đại chúng trống tiếng sư tử, chuyển bánh xe dịu pháp. Pháp luôn ấy thanh tịnh, chánh chân, vô thường mà tất cả Samôn, hoặc Bà La Môn, hoặc Thiên, Ma, Phạm Vương, hoặc người trong thế gian đều không có ai chuyển được Pháp như thế. Đó là thứ tư. Này thiện hiện! Nên biết, đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, này thiện hiện! Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là bốn sự hiểu biết thông suốt. Thế nào là bốn? Một là nghĩa vô ngại giải, hai là Pháp vô ngại giải, ba là từ vô ngại giải, bốn là biện vô ngại giải. Này thiện hiện! Bốn sự hiểu biết thông suốt như vậy, nếu đem vô sở đắc làm phương tiện, nên biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, này thiện hiện! Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là mười tám Pháp Phật bất cộng. Thế nào là mười tám? Này thiện hiện! Nghĩa là các như lai ứng chắn đẳng giác thường không làm lỗi, không hấp tấp, không mất giọng nói, không nhớ nghĩ, tưởng không bất định, tầm không chọn bỏ, chỉ muốn không lui, tinh tấn không lui, niềm không lui, tuệ không lui, giải thoát không lui, giải thoát tri kiến không lui. Tất cả thân nghiệp trí là dẫn đầu, tùy theo trí mà chuyển. Tất cả ngữ nghiệp trí là dẫn đầu, tùy theo trí mà chuyển. Tất cả ý nghiệp trí là dẫn đầu, tùy theo trí mà chuyển. Đối với tri kiến phát sanh ở đời quá khứ không chấp trước, không chứa ngại. Đối với tri kiến phát sanh ở đời vị lai không chấp trước, không chứa ngại. Đối với tri kiến phát sanh ở đời hiện tại không chấp trước, không chứa ngại. Này thiện hiện! Mười tám pháp Phật bất cộng như vậy không có pháp nào không lấy vô sở đắc làm phương tiện. Nên biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Lại nữa, này thiện hiện! Tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát là Môn Đà-La-Ni. Những gì là Môn Đà-La-Ni? Nghĩa là tánh chữ bình đẳng, tánh ngôn ngữ bình đẳng, vào môn các chữ. Thế nào là tánh chữ bình đẳng, tánh ngôn ngữ bình đẳng, vào môn các chữ? Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-La-Mật-Đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, vào môn chữ ả, ngộ tất cả pháp vốn không sanh, vào môn chữ lạc, ngộ tất cả pháp xa lì trần tố, vào môn chữ bả, ngộ giáo lý thắng nghĩa của tất cả pháp, vào môn chữ giả, ngộ tất cả pháp không có tử sanh, vào môn chữ na, ngộ tất cả pháp xa lì danh tướng không có được mất, vào môn chữ lả, ngộ tất cả pháp suốt thế gian, ưu thích duyên cảnh nhánh nên vĩnh viễn bị hại. Vào môn chữ đa, ngộ tất cả pháp, điều phục tịch, tịnh, chân như bình đẳng không phân biệt, vào môn chữ bà, ngộ tất cả pháp, xa lì ràng buộc giải thoát, vào môn chữ trà, ngộ tất cả pháp, xa lì nóng nảy, giả dối, ô quế được thanh tịnh, vào môn chữ sa, ngộ tất cả pháp, không chứa ngại, vào môn chữ vực, ngộ tất cả pháp, bạc dứt ngôn ngữ, vào môn chữ đả, ngộ tất cả pháp, chân như bất động, vào môn chữ giả, ngộ tất cả pháp. Ngộ tất cả pháp, như thật không sanh, vào môn chữ sát tra, ngộ tất cả pháp, chế phục giữ dinh tướng bất khả đắc, vào môn chữ ca, ngộ tất cả pháp, người làm bất khả đắc, vào môn chữ bà, ngộ tất cả pháp, thời tánh bình đẳng bất khả đắc, vào môn chữ ma, ngộ tất cả pháp, tánh chấp ngã sở bất khả đắc, vào môn chữ già, ngộ tất cả pháp, tánh chấp hành động bất khả đắc, vào môn chữ tha, ngộ tất cả pháp, tánh chỗ nương tựa bất khả đắc, vào môn chữ xa, độ, ngộ tất cả pháp, năng sở sanh khởi bất khả đắc, vào môn chữ thấp vượt, ngộ tất cả pháp, tánh an ổn bất khả đắc, vào môn chữ đạt, ngộ tất cả pháp, tánh hay chấp Các cõi bất khả đắc, vào môn chữ xã, ngộ tất cả pháp, tánh tịch tịnh bất khả đắc, vào môn chữ hư, ngộ tất cả pháp, tánh như hư không bất khả đắc, vào môn chữ săn, ngộ tất cả pháp, tánh cùng tận bất khả đắc, vào môn chữ đả, ngộ tất cả pháp, nhằm trì xứ phi xứ làm cho tánh không động chuyển bất khả đắc, vào môn chữ nhã, ngộ tất cả pháp chỗ tánh biết rõ bất khả đắc, vào môn chữ thứ tha, ngộ tất cả pháp, tánh nghĩa chấp trước nghĩa bất khả đắc vào môn chữ a, ngộ tất cả pháp, tánh hay làm nhân bất khả đắc, vào môn chữ bạc, ngộ tất cả pháp, tánh có thể phá hoại bất khả đắc, vào môn chữ phược, ngộ tất cả pháp, tánh ưa muốn che đậy bất khả đắc, vào môn chữ tạp ma, ngộ tất cả pháp, tánh có thể nhớ nghĩa bất khả đắc, vào môn chữ hạt phược, ngộ tất cả pháp, tánh có thể gọi tên bất khả đắc, vào môn chữ tha, ngộ tất cả pháp, tánh mạnh mẽ bất khả đắc, vào môn chữ xã, ngộ tất cả pháp, tánh rất bình đẳng bất khả đắc, vào môn chữ noa, ngộ tất cả pháp, tánh chứa nhóm bất khả đắc, vào môn chữ nã, ngộ tất cả pháp, xa lìa tranh cãi, huyên náo không đến không lại, đi, đứng, ngồi, nằm bất khả đắc, vào môn chữ phả, ngộ tất cả pháp, quả báo đầy khắp bất khả đắc, vào môn chữ tắc ca, ngộ tất cả pháp, tánh tích tụ chứa nhóm bất khả đắc, vào môn chữ giật xa, ngộ tất cả pháp, tánh tướng dạ suy bất khả đắc, vào môn chữ trước, ngộ tất cả pháp, chứa nhóm giấu vết bất khả đắc, vào môn chữ ra, ngộ tất cả pháp, tánh xô rủi nhau bất khả đắc, vào môn chữ trạch, ngộ tất cả pháp, xứ sở rốt tráo bất khả đắc. Này thiện hiện! Môn chữ trạch này có thể ngộ nhập tận cùng pháp không? Ngoài các chữ này ra biểu thì các pháp không lại bất khả đắc. Vì sao? Vì nghĩa các chữ này không thể giảng nói, không thể chỉ rõ, không thể ghi chết, thọ trì, không thể chấp lấy, không thể quan sát, xa lì các tướng. Này thiện hiện! Vĩ như hư không là nơi tất cả các vật nương tựa, môn các chữ này cũng vậy. Nghĩa không của các pháp đều dựa vào môn này mới được hiện rõ. Này thiện hiện! Vào chữ á này V, V, gọi là vào môn các chữ. Này thiện hiện! Nếu các Đại Bồ Tát đối với việc vào môn các chữ này được trí thiện xảo, thì đối với các ngôn ngữ âm thanh nói ra nêu rõ đều không chứng ngại. Đối với tánh không bình đẳng của tất cả pháp đều có thể chứng đắc phụng tri. Đối với các ngôn ngữ âm thanh đều được khéo léo. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào có thể nghe như vậy, vào môn các chữ ấn tướng, ấn cú, nghe rồi thọ trì, đọc tụng thông suốt, giải nói cho người khác mà không mong cầu danh dự, lợi dưỡng, sự cung kính, do đó được hai mươi tông đức thù thắng. Những gì là hai mươi? Này thiện hiện! Đó là hai mươi tông đức thù thắng. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Palamudda, đem vô sở đắc làm phương tiện được các môn Đà-La-Ni như vậy, nên biết đó là tướng Đại Thư của Đại Bồ Tát. Lại nữa, này thiện hiện! Ông hỏi làm thế nào biết được Đại Bồ Tát phát tâm hướng đến Đại Thư? Đại Bồ Tát nào khi tu hành sáu pháp Palamudda từ địa này đến địa khác, bằng cách này sẽ biết Đại Bồ Tát phát tâm hướng đến Đại Thư? Thế nào là Đại Bồ Tát khi tu hành sáu pháp Palamudda từ địa này đến địa khác? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát biết tất cả pháp không từ đâu đến cũng không đến đâu. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tất cả pháp không đi, không đến, không có nơi xuất phát, không có nơi không hướng đến. Do các pháp đó không có biến hoại. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát này đối với nơi xuất phát hướng đến không ý lại, không tư duy, tuy tu nghiệp trị địa nhưng không thấy địa ấy. Đó là Đại Bồ Tát khi tu hành sáu pháp Palamudda từ địa này đến địa khác. Thế nào là Đại Bồ Tát tu nghiệp trị địa? Này thiện hiện! Các Đại Bồ Tát khi trụ sơ địa nên khéo tu trị 10 tháng nghiệp. Những gì là 10? Một là đem vô sở đắc làm phương tiện tu trị nghiệp tăng thượng ý lạc, sự tướng lợi ích bất khả đắc. Hai là đem vô sở đắc làm phương tiện tu trị nghiệp tâm bình đẳng với tất cả hữu tình, tất cả hữu tình bất khả đắc. Ba là đem vô sở đắc làm phương tiện tu trị nghiệp bố thí, vì người cho, người nhận và vật cho bất khả đắc. Bốn là đem vô sở đắc làm phương tiện tu trị nghiệp thân cận bạn lành, đối với các bạn lành không chấp trước. Năm là đem vô sở đắc làm phương tiện tu trị nghiệp cầu Pháp, vì các Pháp sở cầu bất khả đắc. Sáu là đem vô sở đắc làm phương tiện tu trị nghiệp thường muốn xuất gia, vì xã bỏ gia đình bất khả đắc. Bảy là đem vô sở đắc làm phương tiện tu trị nghiệp ưa thích thân Phật, nhưng tốt theo nhau bất khả đắc. Tám là đem vô sở đắc làm phương tiện tu trị nghiệp xiển dương giáo Pháp, vì Pháp phân biệt bất khả đắc. Chính là đem vô sở đắc làm phương tiện tu trị nghiệp phá kiêu mạng, vì các Pháp hưng thành bất khả đắc. Mười là đem vô sở đắc làm phương tiện tu trị nghiệp lời nói chân thật, vì tất cả ngôn ngữ bất khả đắc. Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ sơ địa nên khéo tu trị người thắng nghiệp này. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ hai nên đối với tám Pháp tư duy, tu tập làm cho mau được viên mãng. Những gì là tám? Một là giới thanh tịnh, hai là kỳ ơn báo ơn, ba là an trụ lực nhẫn nhục, bốn là thọ nhận nhiều hoang hỷ, năm là không bỏ hữu tình, sáu là thường sanh lòng đại bi, bảy là đối với các bậc sư trưởng đem tâm tin tưởng, cung kính, phụng sự, cúng dựng như chiêu Phật, tám là siêng năng mong cầu tu tập Pháp ba là mật đa. Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ hai đối với tám Pháp này nên tư duy, học tập làm cho mau được viên mãng. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ ba nên an trụ năm Pháp. Những gì là năm? Một là siêng năng mong cầu nghe nhiều thường không nhảm chán, đối với Pháp được nghe không chấp văn tự. Hai là đem tâm không nhiễm thường hành Pháp thí, tuy giáo hóa nhiều nhưng không tự cao. Ba là làm trang nghiêm tỏi tịnh độ, gieo trồng các thiện căng, tuy hồi hướng nhưng không tự cao. Bốn là vì giáo hóa hữu tình, tuy không nhảm chán vô biên sanh tử nhưng không kiêu mạng, buồn lung. Năm là tuy an trụ tạm quý nhưng không chấp trước. Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ ba nên thường an trụ năm Pháp như vậy. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ tư nên đối với mười Pháp thỏ trị không xả bỏ. Những gì là mười? Một là sống nơi vắng lặng thường không lì bỏ. Hai là thường ư thiểu dục. Ba là thường ư biết đủ. Bốn là thường không lì bỏ công đức đầu đà. Năm là đối với các học sứ thường không xả bỏ. Sáu là đối với các dục lạc sanh lòng rất nhảm chán. Bảy là thường ư phát sanh tâm câu hữu với tịch diệt. Tám là xả bỏ tất cả vật. Chính là tâm không trầm trễ. Mười là đối với tất cả vật thường không luyến tiết. Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ tư đối với mười Pháp như vậy nên thỏ trị không xả bỏ. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ năm nên xa lì mười Pháp. Những gì là mười? Một là nên xa lì nhà ở. Hai là nên xa lì bí sô ni. Ba là nên xa lì nhà kêu kiệt. Bốn là nên xa lì chúng hội canh cãi, giận dữ. Năm là nên xa lì khen mình chê người. Sáu là nên xa lì mười nhiệt bất thiện. Bảy là nên xa lì tăng thượng ngạo mạng. Tám là nên xa lì điên đảo. Chính là nên xa lì do dữ. Mười là nên xa lì tham, sân, si. Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ năm nên thường xa lì mười Pháp như vậy. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ sáu nên viên mạng sáu Pháp. Những gì là sáu? Nghĩa là sáu Pháp ba la mật đa, tức là bố thí cho đến bát nhã. Lại nên xa lì sáu Pháp. Những gì là sáu? Một là tâm thanh văn. Hai là tâm độc giác. Ba là tâm nóng nảy. Bốn là tâm không vui và buồn bực khi thấy người hạnh khắc đến. Năm là tâm ưu buồn luyến tiếc khi xả bỏ vật sở hữu. Sáu là tâm đối với người đến sinh, tiền cách dối gạt. Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ sáu thường nên viên mạng sáu Pháp nói trước và nên xa lì sáu Pháp nói sau. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ bảy nên xa lì hai mươi Pháp. Những gì là hai mươi? Một là nên xa lì chấp ngã cho đến chấp người thấy. Hai là nên xa lì chấp đoạn. Ba là nên xa lì chấp thương. Bốn là nên xa lì chấp tướng. Năm là nên xa lì chấp chiến. Sáu là nên xa lì chấp tên danh sách. Bảy là nên xa lì chấp quẩn. Tám là nên xa lì chấp xứ. Chính là nên xa lì chấp giới. Mười là nên xa lì chấp đế. Mười một là nên xa lì chấp duyên khởi. Mười hai nên xa lì chấp đắm trước trong ba cõi. Mười ba nên xa lì chấp tất cả Pháp. Mười bốn nên xa lì chấp tất cả Pháp như lý, bất như lý. Mười bốn nên xa lì chấp tất cả Pháp như lý, bất như lý. Mười lăm nên xa lì kiến chấp lệ thuộc Phật. Mười sáu nên xa lì kiến chấp lệ thuộc Pháp. Mười bảy nên xa lì kiến chấp lệ thuộc Tăng. Mười tám nên xa lì kiến chấp lệ thuộc giới. Mười chín nên xa lì kiến chấp lệ thuộc không. Hai mươi nên xa lì nhảm chán lo sợ tánh không. Lại nên viên mãng hai mươi Pháp. Những gì là hai mươi? Một là nên viên mãng thông đạt không? Hai là nên viên mãng chính vô tướng? Ba là nên viên mãng biết vô nguyện? Bốn là nên viên mãng ba luôn thanh tịnh? Năm là nên viên mãng thương khóc hữu tình và đối với hữu tình không chấp trước? Sáu là nên viên mãng thấy tất cả Pháp bình đẳng và đối với điều này không chấp trước? Bảy là nên viên mãng thấy tất cả hữu tình bình đẳng và đối với điều này không chấp trước? Tám là nên viên mãng thông đạt nghĩa lý chân thật và ở trong đó không chấp trước? Chính là nên viên mãng trí vô sanh nhẫn? Mười là nên viên mãng thuyết tất cả Pháp nghĩa lý nhất tướng? Mười một nên viên mãng diệt trừ phân biệt? Mười hai nên viên mãng xa lì các tưởng? Mười ba nên viên mãng xa lì các kiến? Mười bốn nên viên mãng xa lì phiền não? Mười lăm nên viên mãng địa chỉ quán? Mười sáu nên viên mãng điều phục tâm tánh? Mười bảy nên viên mãng tịch tịnh tâm tánh? Mười tám nên viên mãng ký tánh vô ngại? Mười chín nên viên mãng không có ái nhiễm? Hai mươi nên viên mãng tùy theo ý muốn đến các cõi Phật, ở trong chúng hội Phật tự hiện thân mình? Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ bảy thường nên xa lì hai mươi Pháp nói như trước, và nên viên mãng hai mươi Pháp nói như sau? Lại nữa, này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ tám nên viên mãng bốn Pháp? Những gì là bốn? Một là nên viên mãng hiểu rõ tâm hành của tất cả hữu tình? Hai là nên viên mãng an trụ các thần thông? Ba là nên viên mãng thấy các cõi Phật như sở kiến của mình mà tự nghiêm tịnh các cõi Phật? Bốn là nên viên mãng phụng sự cúng dường chiêu Phật, thế tôn, đối với thân như lại quan sát như thật? Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ tám đối với bốn Pháp này nên cố gắng viên mãng? Lại nữa, này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ chính nên viên mãng bốn Pháp? Những gì là bốn? Một là nên viên mãng trí căng thắng liệt? Hai là nên viên mãng nghiêm tình cõi Phật? Ba là nên viên mãng thường nhập các định đẳng trị như huyển? Bốn là nên viên mãng tùy theo căng lành của các hữu tình đã thuận thuộc, nên vào các cõi tự hiện thân hóa sanh? Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ chính đối với bốn Pháp này nên cố gắng viên mãng? Lại nữa, này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ mười nên viên mãng mười hai Pháp? Những gì là mười hai? Một là nên viên mãng nhức thọ vô biên phiếu sở, đại nguyện, tùy theo sở nguyện đều làm cho chứng đắc? Hai là nên viên mãng trí tuệ tùy theo âm thanh các loại khác nhau, trời, rồng, dược soa V, V? Ba là nên viên mãng biện thuyết vô ngại? Bốn là nên viên mãng vào thai đầy đủ? Năm là nên viên mãng trí tuệ? Năm là nên viên mãng ra đời đầy đủ? Sáu là nên viên mãng gia tộc đầy đủ? Bảy là nên viên mãng dòng họ đầy đủ? Tám là nên viên mãng quyến thuật đầy đủ? Chính là nên viên mãng sanh thân đầy đủ? Mười là nên viên mãng xuất gia đầy đủ? Mười một nên viên mãng trang nghiêm cội bồ đề đầy đủ? Mười hai nên viên mãng tất cả công đức thành tựu đầy đủ? Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ mười nên cố gắng viên mãng mười hai pháp này? Này thiện hiện! Ông nên biết, đại Bồ Tát nào an trụ địa thứ mười rồi nên nói không khác chiêu như lai? Thế nào là đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nhiệt tăng thường ý lạc? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào đem tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí tu tập tất cả thiện trăng thù thắng? Đó là đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nhiệt tăng thường ý lạc. Thế nào là đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nhiệt tâm bình đẳng đối với tất cả hữu tình? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào đem tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí hướng đến bốn vô lượng tâm từ bi hỷ phả? Đó là đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nhiệt tâm bình đẳng với tất cả hữu tình. Thế nào là đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nhiệt bố thí? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào đối với tất cả hữu tình thực hành bố thí không phân biệt? Đó là đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nhiệt bố thí. Thế nào là đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nhiệt thân cận bạn lành? Này thiện hiện! Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào thấy các bạn lãnh khuyến hóa hữu tình làm cho họ tu tập trí nhất thiết trí, liền thân trận, cung kính, cúng dường, tôn trọng, tán thắng, thưa hỏi, lãnh thọ chánh pháp, ngày đêm phụng sự tâm không mệt mỏi, biến nhát? Đó là đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nhiệt thân trận bạn lành. Thế nào là đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nhiệt cầu pháp? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào đem tác ý tương tương với trí nhất thiết trí, siêng năng mong cầu chánh pháp vô thường của như lai, không trơi vào địa vị thanh văn, độc giác v.v.? Đó là đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nhiệt cầu pháp. Thế nào là đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nhiệt thường ưa xuất gia? Này thiện hiện! Này thiện hiện! Đại Bồ Tát sanh ở đâu cũng thường nhằm chán chỗ ở huyên náo, phức tạp khó chịu giống như lao ngục, thường thích phật pháp thanh tịnh phức gia, tịch tịnh vô vi như hư không không chứng nại. Đó là đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nhiệt thường ưa xuất gia. Thế nào là đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nhiệt ưa thích thân Phật? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào một khi trông thấy hình tướng Phật rồi, cho đến chính đắc trí nhất thiết trí, hoàn toàn không bỏ tác ý niệm Phật? Đó là đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nhiệt ưa thích thân Phật. Thế nào là đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nhiệt diễn dương giáo Pháp? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào khi Phật còn tại thế và sau khi niết bàn, vì các hữu tình diễn dương giáo Pháp đầu, giữa, sau đều thiện, văn nghĩa thiện xảo, thuần nhất viên mãn thanh bạch phạm hành, nghĩa là từ khế kinh cho đến luận nghị? Đó là đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nhiệt diễn dương giáo Pháp. Thế nào là đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nhiệt phá bỏ kiêu mạng? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào thường ông lòng kính nhường, đều phục tâm kiêu mạng, do đó không sanh vào dòng họ thấp hèn? Đó là đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nhiệt phá bỏ kiêu mạng. Thế nào là đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nhiệt lời nói chân thật? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào nói đúng theo hiểu biết của mình, lời nói, hành động hợp nhau? Đó là đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu trị nhiệt lời nói chân thật. Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ sơ địa nên khéo tu trị 10 tháng nhiệt này. Thế nào là đại Bồ Tát giới thanh tịnh? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào không phát sanh tác ý đến thanh văn, độc giác và các điều phá giới chứng ngại Pháp Bồ Đề? Đó là đại Bồ Tát giới thanh tịnh. Thế nào là đại Bồ Tát truy ơn báo ơn? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào khi thực hành hành thù thắng của Bồ Tát, chịu ơn nhỏ của người còn phải báo đáp nhiều, hủn chi là ơn lớn mà không báo đáp? Đó là đại Bồ Tát truy ơn báo ơn. Thế nào là đại Bồ Tát an trụ lực nhẫn nhục? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào giả sử tất cả hữu tình đều làm hại mà có thể đối với họ không có tâm giận giữ làm hại? Đó là đại Bồ Tát an trụ lực nhẫn nhục. Thế nào là đại Bồ Tát được sự rất hoan hỉ? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào thấy các hữu tình thực hành ba thừa rồi được thành thuộc, tâm rất vui mừng? Đó là đại Bồ Tát được sự rất hoan hỉ. Thế nào là đại Bồ Tát không xả bỏ hữu tình? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào muốn cứu giúp khắp tất cả hữu tình? Đó là đại Bồ Tát không xả bỏ hữu tình. Thế nào là đại Bồ Tát phát lòng đại bi? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào khi thực hành các hành thù thắng của Bồ Tát, thường nghĩ như vầy, ta làm lợi ích cho tất cả hữu tình, giả sự trải qua vô lượng, vô số hàng hà sa kiếp ở trong địa ngục lớn, chịu các khổ nặng, hoặc đốt, hoặc nấu, hoặc mổ, hoặc xẻ, hoặc đâm, hoặc treo, hoặc xây, hoặc giả, chịu vô lượng các khổ như vậy, cho đến làm cho các loại hữu tình kia nương vào Phật Thừa mà viết được. Như vậy tất cả cõi hữu tình cung tận, nhưng tầm đại bi của ta cũng không lười bỏ. Đó là đại Bồ Tát thường phát lòng đại bi. Thế nào là đại Bồ Tát đối với các bậc sư trưởng đem lòng tin tưởng, cung kính, thăm hỏi, phụng sự, cũng dường như là phụng sự chiêu Phật? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào vì mong cầu vô thượng chánh đẳng chánh giác, nên cung kính hiếu thuận với sư trưởng không luyến tiếc? Đó là đại Bồ Tát đối với các bậc sư trưởng đem lòng tin tưởng, cung kính, thăm hỏi, phụng sự, cũng dường như là phụng sự chiêu Phật? Thế nào là đại Bồ Tát siêng năng mong cầu tu tập Pháp Ba La Mật Đa? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào đối với tất cả Ba La Mật Đa chuyên tâm cầu học, không nghĩ đến các việc khác? Đó là đại Bồ Tát siêng năng mong cầu tu tập Pháp Ba La Mật Đa? Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ hai đối với tám Pháp này nên suy nghĩ học tập làm cho mau viên mãn. Thế nào là đại Bồ Tát siêng năng mong cầu nghe nhiều, thường không nhằm chán đối với Pháp đã nghe không chấp văn tự? Này thiện hiện! Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào nỗ lực tinh tấn, suy nghĩ như vậy, hoặc ở cõi Phật này, hoặc ở mười phương thế giới tất cả như lai ứng chánh đẳng giác thuyết giảng chánh Pháp tôi sẽ lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tu học trốt tráo, làm cho không thiếu sót, mà ở trong chánh Pháp đó không chấp văn tự? Đó là đại Bồ Tát siêng năng mong cầu nghe nhiều, thường không nhằm chán đối với Pháp đã nghe không chấp văn tự? Thế nào là đại Bồ Tát đem tâm không nhiễm thường hành Pháp thí, tuy giáo hóa nhiều nhưng không tự cao? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào giảng thuyết chánh Pháp cho các hữu tình còn không đem thiện căng này hồi hướng quả bồ đệ cho mình huống là mong cầu việc khác, tuy giáo hóa nhiều nhưng không tự thị? Đó là đại Bồ Tát đem tâm không nhiễm thường hành Pháp thí, tuy giáo hóa nhiều nhưng không tự cao? Thế nào là đại Bồ Tát làm trang nghiêm cõi tịnh độ, gieo trồng các căng lành, tuy có hồi hướng nhưng không tự cao? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào dũng mãnh tinh tấn tu tập các thiện căng, vì muốn làm trang nghiêm các cõi Phật và làm thanh tịnh cõi tâm mình, người, tuy làm việc này nhưng không tự cao? Đó là đại Bồ Tát trang nghiêm cõi tịnh độ, gieo trồng các căng lành, tuy có hồi hướng nhưng không tự cao? Thế nào là đại Bồ Tát giáo hóa hữu tình, tuy không nhảm chán vô biên sanh tử nhưng không kêu mạng, buông lung? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào vì muốn giáo hóa tất cả hữu tình gieo trồng các căng lành, làm nghiêm tịnh cõi Phật, cho đến chư viên mạng trí nhất thiết trí, tuy chịu vô biên khổ nhọc sanh tử nhưng không nhảm chán, cũng không tự cao? Đó là đại Bồ Tát giáo hóa hữu tình, tuy không nhảm chán vô biên sanh tử nhưng không kêu mạng, buông lung? Thế nào là đại Bồ Tát tuy an trụ tạm quý mà không chấp trước? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát chuyên mong cầu quả vô thường chánh đẳng chánh giác, vì có tạm quý nên hoàn toàn không bao giờ khởi niệm tác ý về thanh văn, độc giác, mà ở trong đó cũng không chấp trước? Đó là đại Bồ Tát tuy an trụ tạm quý mà không chấp trước? Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ ba nên thường an trụ năm Pháp như vậy? Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ ba nên thường an trụ năm Pháp như vậy? Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ ba nên thường an trụ năm Pháp như vậy? Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ ba nên thường an trụ năm Pháp như vậy? Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ ba nên thường an trụ năm Pháp như vậy? Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát khi an trụ địa thứ ba nên thường an trụ năm Pháp như vậy?

Listen Next

Other Creators