Home Page
cover of kinhdaibatnha (408)
kinhdaibatnha (408)

kinhdaibatnha (408)

00:00-51:09

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech
0
Plays
0
Downloads
0
Shares

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 17 Quyện 408 6. Phẩm Thiện Hiện 03 Lại nữa, này Thiện Hiện Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-Tát? Khái niệm về địa giới là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là thường là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là thường là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là vô thường là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vô thường là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là vui là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vui là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là khổ là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là khổ là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là ngã là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là ngã là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là vô ngã là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vô ngã là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là tịnh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tịnh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là bất tịnh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là bất tịnh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là không là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là bất không là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là bất không là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là hữu tướng là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là hữu tướng là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là vô tướng là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vô tướng là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là hữu nguyện là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là hữu nguyện là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là vô nguyện là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vô nguyện là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là tịch tịnh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tịch tịnh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là bất tịch tịnh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là bất tịch tịnh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là viễn ly là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là viễn ly là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là bất viễn ly là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là bất viễn ly là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là tạp nhiễm là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tạp nhiễm là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là thanh tịnh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là thanh tịnh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là sanh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là sanh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về địa giới là việc là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là việc là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Lại nữa, này thiện hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-Tát? Khái niệm về vô minh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành, thức, danh sách, lục sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là thường là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là thường là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là vô thường là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là vô thường là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là vui là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là vui là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là khổ là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là khổ là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là ngã là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là ngã là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là vô ngã là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là vô ngã là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là tịnh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là tịnh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là bất tịnh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là bất tịnh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là không là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là không là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là bất không là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là bất không là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là hữu tướng là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là hữu tướng là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là vô tướng là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là vô tướng là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là hữu nguyện là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là hữu nguyện là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là vô nguyện là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là vô nguyện là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là tịch tịnh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là tịch tịnh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là bất tịch tịnh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là bất tịch tịnh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là viễn ly là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là viễn ly là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là bất viễn ly là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là bất viễn ly là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là tạp nhiễm là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là tạp nhiễm là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là thanh tịnh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là thanh tịnh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là sanh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là sanh là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về vô minh là diệt là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Khái niệm về hành cho đến lão tử là diệt là Đại Bồ-Tát phải không? Bạch Thế Tôn Không Lúc bấy giờ, Phật bảo cụ Thọ Thiện Hiện Ông xem xét nghĩa nào mà nói như vậy, khái niệm về các Pháp sắc V, V Không phải là Đại Bồ-Tát Lại xem xét nghĩa nào mà nói như vậy, khái niệm về các Pháp sắc V, V Hoặc thường, hoặc vô thường, hoặc vui, hoặc khổ, hoặc ngã, hoặc vô ngã, hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, hoặc không, hoặc bất không, hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng, hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện, hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh, hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh, hoặc sanh, hoặc diệt cũng không phải là Đại Bồ-Tát Khi ấy, cụ Thọ Thiện hiện thưa Bạch Thế Tôn Các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, húng là có khái niệm về các Pháp sắc V, V, các Pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về các Pháp sắc V, V là Đại Bồ-Tát Bạch Thế Tôn Thường của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, húng là có vô thường của các Pháp sắc V, V Thường, vô thường của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, húng là có khái niệm về thường, vô thường các Pháp sắc V, V Khái niệm về các Pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về thường, vô thường của các Pháp sắc V, V là Đại Bồ-Tát Bạch Thế Tôn Lạc của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, húng là có khổ của các Pháp sắc V, V, lạc Khổ của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, húng là có khái niệm về lạc, khổ của các Pháp sắc V, V Khái niệm về các Pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về lạc, khổ của các Pháp sắc V, V là Đại Bồ-Tát Bạch Thế Tôn Ngã của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, húng là có vô ngã của các Pháp sắc V, V, ngã Vô ngã của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, húng là có khái niệm về ngã, vô ngã của các Pháp sắc V, V Khái niệm về các Pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về ngã, vô ngã của các Pháp sắc V, V là Đại Bồ-Tát Bạch Thế Tôn Tỉnh của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, húng là có bất tỉnh của các Pháp sắc V, V Tỉnh, bất tỉnh của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, húng là có khái niệm về tỉnh, bất tỉnh của các Pháp sắc V, V Khái niệm về các Pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về tỉnh, bất tỉnh của các Pháp sắc V, V là Đại Bồ-Tát được Bạch Thế Tôn Bất không của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, húng là có không của các Pháp sắc V, V Không, bất không của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, húng là có khái niệm về không, bất không của các Pháp sắc V, V Khái niệm về các Pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về không, bất không của các Pháp sắc V, V là Đại Bồ-Tát được Bạch Thế Tôn Hữu tướng của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, húng là có vô tướng của các Pháp sắc V, V Hữu tướng, vô tướng của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, húng là có khái niệm về hữu tướng, vô tướng của các Pháp sắc V, V Khái niệm về các Pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về hữu tướng, vô tướng của các Pháp sắc V, V là Đại Bồ-Tát được Bạch Thế Tôn Tịch tịnh của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, húng là có vô tướng của các Pháp sắc V, V Hữu tướng, vô tướng của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, húng là có khái niệm về hữu tướng, vô tướng của các Pháp sắc V, V Khái niệm về các Pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về hữu tướng, vô tướng của các Pháp sắc V, V là Đại Bồ-Tát được Bạch Thế Tôn Tịch tịnh của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, húng là có bất tịch tịnh của các Pháp sắc V, V Tịch tịnh, bất tịch tịnh của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, húng là có khái niệm về tịch tịnh, bất tịch tịnh của các Pháp sắc V, V Khái niệm về các Pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về tịch tịnh, bất tịch tịnh của các Pháp sắc V, V là Đại Bồ-Tát được Bạch Thế Tôn Viện ly của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, húng là có bất viện ly của các Pháp sắc V, V Viện ly, bất viện ly của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, húng là có khái niệm về viện ly, bất viện ly của các Pháp sắc V, V Khái niệm về các Pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về viện ly, bất viện ly của các Pháp sắc V, V là Đại Bồ-Tát được Bạch Thế Tôn Tạp nhiễm của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, húng là có thanh tịnh của các Pháp sắc V, V Tạp nhiễm, thanh tịnh của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, húng là có khái niệm về tạp nhiễm, thanh tịnh của các Pháp sắc V, V Khái niệm về các Pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về tạp nhiễm, thanh tịnh của các Pháp sắc V, V là Đại Bồ-Tát được Bạch Thế Tôn Thanh của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, húng là có diệt của các Pháp sắc V, V Thanh, diệt của các Pháp sắc V, V, rốt ráo còn bất khả đắc, húng là có khái niệm về thanh, diệt của các Pháp sắc V, V Khái niệm về các Pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về thanh, diệt của các Pháp sắc V, V là Đại Bồ-Tát được Phật dạy Này Thiện Hiện, lành thay, lành thay, đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói Này Thiện Hiện, các Pháp sắc V, V, và thường, vô thường V, V, bất khả đắc nên khái niệm về các Pháp sắc V, V, và khái niệm về thường, vô thường V, V, cũng bất khả đắc Vì Pháp và khái niệm về bất khả đắc, nên các Đại Bồ-Tát cũng bất khả đắc. Vì các Đại Bồ-Tát bất khả đắc, nên tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa nên học như vậy Lại nữa, này Thiện Hiện, trước ông đã nói, con hoàn toàn không thấy có một Pháp nào có thể gọi là Đại Bồ-Tát Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói Này Thiện Hiện, các Pháp không thấy các Pháp, các Pháp không thấy Pháp giới, Pháp giới không thấy các Pháp, Pháp giới không thấy Pháp giới Này Thiện Hiện, Pháp giới không thấy sách giới, sách giới không thấy Pháp giới, Pháp giới không thấy thọ, tưởng, hành, thức giới, thọ, tưởng, hành, thức giới không thấy Pháp giới Này Thiện Hiện, Pháp giới không thấy nhãn sứ, nhãn sứ không thấy Pháp giới, Pháp giới không thấy nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ không thấy Pháp giới Này Thiện Hiện, Pháp giới không thấy sách sứ, sách sứ không thấy Pháp giới, Pháp giới không thấy thanh, hương, vị, súc, Pháp sứ, thanh, hương, vị, súc, Pháp sứ không thấy Pháp giới Này Thiện Hiện, Pháp giới không thấy nhãn giới, nhãn giới không thấy Pháp giới, Pháp giới không thấy nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y giới, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y giới không thấy Pháp giới Này Thiện Hiện, Pháp giới không thấy sách giới, sách giới không thấy Pháp giới, Pháp giới không thấy thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, thanh, hương, vị, súc, Pháp giới không thấy Pháp giới Này Thiện Hiện, Pháp giới không thấy nhãn thức giới, nhãn thức giới không thấy Pháp giới, Pháp giới không thấy nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y giới, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y giới không thấy Pháp giới Này Thiện Hiện, Pháp giới không thấy địa giới, địa giới không thấy Pháp giới, Pháp giới không thấy thủy, hỏa, phòng, không, thức giới, thủy, hỏa, phòng, không, thức giới không thấy Pháp giới Này Thiện Hiện, Pháp giới không thấy vô minh, vô minh không thấy Pháp giới, Pháp giới không thấy hành, thức, danh sách, luật sứ, súc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, hành cho đến lão tử không thấy Pháp giới Này Thiện Hiện, giới hữu vi không thấy giới vô vi, giới vô vi không thấy giới hữu vi Này Thiện Hiện, chẳng phải liều hữu vi mà lập vô vi, chẳng phải liều vô vi mà lập hữu vi Như vậy, này Thiện Hiện, các đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Balamudda, đối với tất cả Pháp đều không thấy. Vì không thấy nên tâm không kinh khiếp, không e ngại, không sợ hãi, đối với tất cả Pháp tâm không chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, ăn năng. Không thấy Bồ Tát và Pháp Bồ Tát, không thấy chư Phật và Pháp chư Phật, không thấy vô thượng chánh đẳng chánh giác. Không thấy Bồ Tát và Pháp Bồ Tát, không thấy chư Phật và Pháp chư Phật, không thấy vô thượng chánh đẳng chánh giác. Như vậy, này Thiện Hiện, các đại Bồ Tát đối với tất cả Pháp đều không thấy. Vì không thấy nên tâm không kinh khiếp, không e ngại, không sợ hãi. Đối với tất cả Pháp tâm không chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, ăn năng. Bây giờ, Cụ Thọ Thiền Hiền Thưa, Bạch Thế Tôn, lại do nhân duyên nào, các đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả Pháp tâm không chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, ăn năng. Phật bảo, này Thiện Hiện, các đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả Pháp tâm, tâm sở đều không được, không thấy. Do đó, đối với tất cả Pháp tâm không chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, ăn năng. Cụ Thọ Thiền Hiền lại Thưa, Bạch Thế Tôn, các đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, do nhân nào mà đối với tất cả Pháp tâm không kinh khít, không e ngại, không sợ hãi. Phật bảo, này Thiện Hiện, các đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả ý và ý giới đều không được, không thấy. Do đó, đối với tất cả Pháp tâm không kinh khít, không e ngại, không sợ hãi. Lại nữa, này Thiện Hiện, các đại Bồ Tát đối với tất cả Pháp đều vô sở đắc, nên hành bác nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa, này Thiện Hiện, các đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả nơi và tất cả thời, không thấy đắc bác nhã Ba-la-mật-đa, không thấy đắc danh bác nhã Ba-la-mật-đa, không thấy đắc đại Bồ Tát, không thấy đắc danh đại Bồ Tát, cũng không thấy đắc tâm đại Bồ Tát. Này Thiện Hiện, nên dạy bảo, truyền trao cho các đại Bồ Tát như vậy, đối với bác nhã Ba-la-mật-đa đều làm cho được thanh tựu. 7. Phẩm Ly Xanh Bây giờ, Cụ Thọ Thiền Hiền Thưa Bạch Thế Tôn Nếu đại Bồ Tát muốn viên mãng bố thí Ba-la-mật-đa thì nên học bác nhã Ba-la-mật-đa, muốn viên mãng tịnh giới, ăn nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã Ba-la-mật-đa nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn viết hết sắc nên học bác nhã Ba-la-mật-đa, muốn viết hết thọ, tưởng, hành, thức nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn viết hết nhãn xuống nên học bác nhã Ba-la-mật-đa, muốn viết hết nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xuống nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn viết hết sắc xuống nên học bác nhã Ba-la-mật-đa, muốn viết hết thanh, hương, vị, xúc, pháp xuống nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn viết hết nhãn xuống nên học bác nhã Ba-la-mật-đa, muốn viết hết nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xuống nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn viết hết sắc xuống nên học bác nhã Ba-la-mật-đa, muốn viết hết thanh, hương, vị, xúc, pháp xuống nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn viết hết nhãn xuống nên học bác nhã Ba-la-mật-đa, muốn viết hết nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xuống nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn viết hết nhãn xuống nên học bác nhã Ba-la-mật-đa, muốn viết hết nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xuống nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn viết hết các thọ do nhãn xuống làm duyên sanh ra nên học bác nhã Ba-la-mật-đa, muốn viết hết các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xuống làm duyên sanh ra nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn viết hết địa giới nên học bác nhã Ba-la-mật-đa, muốn viết hết thủy, hỏa, phong, không, thức giới nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn viết hết vô minh nên học bác nhã Ba-la-mật-đa, muốn viết hết hành, thức, danh sắc, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn đoạn hẳn tham dục, sân dận, ngu si nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn đoạn hẳn thân kiến, giới cấm thủ, nghi, dục tham, sân dận nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn đoạn hẳn sắc tham, vô sắc tham, vô minh, mạng, trạo tử nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn đoạn hẳn tất cả các tùy niên trói buộc nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn đoạn hẳn bốn cách ăn nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn đoạn hẳn vòng xoáy của bốn dòng nước mạnh làm thân viên đảo thì nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn xa liều mười nghiệp đạo bất thiện thì nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn thọ hành trì mười nghiệp đạo thiện thì nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn tu hành bốn tình lựu thì nên học bác nhã Ba-la-mật-đa, muốn tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc thì nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn tu hành bốn niềm trụ thì nên học bác nhã Ba-la-mật-đa, muốn tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn được mười lực của Phật thì nên học bác nhã Ba-la-mật-đa, muốn được bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại phả, mười tám pháp Phật bất động nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn tự tại nhập giác Chi-ta-ma-địa nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn tự tại du hí với sáu loại thần thông nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn đối với bốn tịnh lự, bốn vô sắc, diệt tận định, thứ lớp vượt qua thuận nghịch tự tại thì nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn đối với tất cả môn Đà-la-ni, môn Ta-ma-địa đều được tự tại thì nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn đối với tất cả sư tử du hí Ta-ma-địa cho đến sư tử phấn tấn Ta-ma-địa nhập xuất tự tại thì nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Nếu đại Bồ Tát muốn đối với nhập, xuất, kiện hành Ta-ma-địa, bảo ấn Ta-ma-địa, dự nguyệt Ta-ma-địa, nguyệt tràng tướng Ta-ma-địa, nhất thiết pháp ấn Ta-ma-địa, quán ấn Ta-ma-địa, pháp giới quyết định Ta-ma-địa, quyết định tràng tướng Ta-ma-địa, kim cương dụ Ta-ma-địa, nhập nhất thiết pháp môn Ta-ma-địa, Ta-ma-địa vương Ta-ma-địa, vương ấn Ta-ma-địa, lực thanh tịnh Ta-ma-địa, b Ta-ma-địa, quán sát thập phương Ta-ma-địa, nhất thiết pháp Đạ-la-ni môn ấn Ta-ma-địa, nhất thiết pháp vô vòng thất Ta-ma-địa, nhất thiết pháp đẳng thú hành tướng ấn Ta-ma-địa, trụ hư không xứ Ta-ma-địa, tạm luân thanh tịnh Ta-ma-địa, bất thối thần thông Ta-ma-địa, khí dũng Ta-ma-địa, thắng định tràng tướng Ta-ma-địa và vô lượng Ta-ma-địa thù thắng khác đều được tự tại thì nên học bác nhã Ba-la-mật-đ Nếu Đại Bồ-Tát muốn làm viên mãn thiện căn thù thắng như vậy, do thiện căn này được viên mãn, nên không đọa vào các đường ác, không sanh vào nhà bần tiện, không chơi vào địa vị thanh văn và độc giác, đối với ngôi vị Bồ-Tát hoàn toàn không thối lui thì nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Bây giờ, xá lợi tử hỏi thiện hiện Thế nào gọi là Bồ-Tát bị thối đọa? Thiện hiện đáp Nếu các Bồ-Tát không có phương tiện thiện xảo mà thực hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo mà an trụ ba môn giải thoát, thì bị thối lui ở địa vị thanh văn, độc giác, không vào được chánh tánh ly sanh của Bồ-Tát. Như vậy, gọi là Bồ-Tát bị thối đọa. Khi ấy, xá lợi tử hỏi thiện hiện Thế nào gọi là sanh? Thiện hiện đáp Sanh là pháp ái Xá lợi tử hỏi Thế nào là pháp ái? Thiện hiện đáp Nếu Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa an trụ sắc là không của sắc mà sanh tưởng chấp trước, an trụ thọ, tưởng, hành, thức là không mà sanh tưởng chấp trước. An trụ sắc là vô tướng mà sanh tưởng chấp trước, an trụ thọ, tưởng, hành, thức là vô tướng mà sanh tưởng chấp trước. An trụ sắc là vô nguyện mà sanh tưởng chấp trước, an trụ thọ, tưởng, hành, thức là vô nguyện mà sanh tưởng chấp trước. An trụ sắc là tịch tịnh mà sanh tưởng chấp trước, an trụ thọ, tưởng, hành, thức là tịch tịnh mà sanh tưởng chấp trước. An trụ sắc là viễn ly mà sanh tưởng chấp trước, an trụ thọ, tưởng, hành, thức là viễn ly mà sanh tưởng chấp trước. An trụ sắc là vô tướng mà sanh tưởng chấp trước, an trụ thọ, tưởng, hành, thức là vô tướng mà sanh tưởng chấp trước. An trụ sắc là khổ mà sanh tưởng chấp trước, an trụ thọ, tưởng, hành, thức là khổ mà sanh tưởng chấp trước. An trụ sắc là vô ngã mà sanh tưởng chấp trước, an trụ thọ, tưởng, hành, thức là vô ngã mà sanh tưởng chấp trước. An trụ sắc là bất tịnh mà sanh tưởng chấp trước, an trụ thọ, tưởng, hành, thức là bất tịnh mà sanh tưởng chấp trước. Này xá lợi tử! Đó là Đại Bồ Tát tùy thuận pháp ái, tức pháp ái này gọi là sanh. Lại nữa, này xá lợi tử! Nếu Đại Bồ Tát nghĩ như vầy, sắc này nên đoạn, thọ, tưởng, hành, thức này nên đoạn, do đó nên sắc được đoạn, do đó nên thọ, tưởng, hành, thức được đoạn, khổ này nên biết hết, do đó nên khổ được biết trọng vẹn, tập này nên đoạn hẳn, do đó nên tập được đoạn hẳn, việc này nên chứng, do đó nên việc được chứng, đạo này nên tu tập, do đó nên đạo được tu tập, đây là tập nhiễm, đây là thanh tịnh, đây nên thân trận, đây không nên thân trận, điều này nên làm, điều này nên làm, điều này nên làm, điều này nên làm, điều này nên làm, điều này nên làm, điều này nên làm, điều này nên làm, điều này không nên làm, đây là đạo, đây chẳng phải là đạo, điều này nên học, điều này không nên học, đây là bố thí Balamudda, đây chẳng phải là bố thí Balamudda, đây là tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lựu, bát nhã Balamudda, đây chẳng phải là tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lựu, bát nhã Balamudda, đây là phương tiện thiền xảo, đây chẳng phải là phương tiện thiền xảo, đây là Bồ Tát xanh, đây là Bồ Tát ly xanh. Này xá lợi tử, nếu Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Balamudda, an trụ các pháp môn này mà sanh tưởng đắm trước, thì đó là Đại Bồ Tát tùy thuận pháp ái, tức pháp ái này gọi là sanh, như thức ăn để cách đêm hay sanh ra bệnh hoạn. Lúc bấy giờ, cụ thọ xá lợi tử hỏi cụ thọ thiện hiện, thế nào là nhập chánh tánh ly xanh của Đại Bồ Tát? Thiện hiện đắt. Này xá lợi tử, nếu Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Balamudda, không thấy pháp không nội, không nương vào pháp không nội mà quán pháp không ngoại, không thấy pháp không ngoại, không nương vào pháp không ngoại mà quán pháp không nội, không nương vào pháp không ngoại mà quán pháp không nội ngoại, không thấy pháp không nội ngoại, không nương vào pháp không nội ngoại mà quán pháp không ngoại, không nương vào pháp không nội ngoại mà quán pháp không không, không thấy pháp không không, không nương vào pháp không. Không mà quán pháp không nội ngoại, không nương vào pháp không không mà quán pháp không lớn, không thấy pháp không lớn, không nương vào pháp không lớn mà quán pháp không không, không nương vào pháp không lớn mà quán pháp không thắng nghĩa, không thấy pháp không thắng nghĩa, không nương vào pháp không thắng nghĩa mà quán pháp không lớn, không nương vào pháp không thắng nghĩa mà quán pháp không hữu vi. Không thấy pháp không hữu vi, không nương vào pháp không hữu vi mà quán pháp không thắng nghĩa, không nương vào pháp không hữu vi mà quán pháp không vô vi, không thấy pháp không vô vi, không nương vào pháp không vô vi mà quán pháp không hữu vi, không nương vào pháp không vô vi mà quán pháp không đốt tráo, không thấy pháp không đốt tráo, không nương vào pháp không đốt tráo mà quán pháp không vô vi, không nương vào pháp không đốt tráo mà quán pháp không không biên giới, không thấy pháp không không. Biên giới, không nương vào pháp không không biên giới mà quán pháp không đốt tráo, không nương vào pháp không không biên giới mà quán pháp không tán vô tán, không thấy pháp không tán vô tán, không nương vào pháp không tán vô tán mà quán pháp không không biên giới, không nương vào pháp không tán vô tán mà quán pháp không bỗng tánh, không thấy pháp không bỗng tánh, không nương vào pháp không bỗng tánh mà quán pháp không tán vô tán, không nương vào pháp không bỗng tánh mà quán pháp không tự tổng tướng. Không thấy pháp không tự tổng tướng, không nương vào pháp không tự tổng tướng mà quán pháp không bỗng tánh, không nương vào pháp không tự tổng tướng mà quán pháp không tất cả pháp, không thấy pháp không tất cả pháp, không nương vào pháp không tất cả pháp mà quán pháp không tự tổng tướng, không nương vào pháp không tất cả pháp mà quán pháp không bất khả đắc, không thấy pháp không bất khả đắc, không nương vào pháp không bất khả đắc mà quán pháp không tất cả pháp, không nương vào pháp không bất khả. Đắc mà quán pháp không không tánh, không thấy pháp không không tánh, không nương vào pháp không không tánh mà quán pháp không bất khả đắc, không nương vào pháp không không tánh mà quán pháp không tự tánh, không thấy pháp không tự tánh, không nương vào pháp không tự tánh mà quán pháp không không tánh, không nương vào pháp không tự tánh mà quán pháp không không tánh tự tánh, không thấy pháp không không tánh tự tánh, không nương vào pháp không không tánh tự tánh mà quán pháp không tự tánh. Này xá lợi tử! Đại Bồ-Tát này khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa quán như vậy gọi là nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát. Lại nữa, này xá lợi tử! Các Đại Bồ-Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa nên học như vầy, biết như thật về sắc không nên chấp, biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức không nên chấp. Biết như thật về nhãn xứ không nên chấp, biết như thật về nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ không nên chấp. Biết như thật về sắc xứ không nên chấp, biết như thật về thanh, hương, vị, xuất, pháp xứ không nên chấp. Biết như thật về nhãn giới không nên chấp, biết như thật về nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới không nên chấp. Biết như thật về sắc giới không nên chấp, biết như thật về thanh, hương, vị, xuất, pháp giới không nên chấp. Biết như thật về nhãn thức giới không nên chấp, biết như thật về nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới không nên chấp. Biết như thật về bố thí Ba-la-mật-đa không nên chấp, biết như thật về tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã Ba-la-mật-đa không nên chấp. Biết như thật về bốn tịnh lự không nên chấp, biết như thật về bốn vô lượng, bốn định vô sắc không nên chấp. Biết như thật về bốn niệm trụ không nên chấp, biết như thật về bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không nên chấp. Biết như thật về mười lực của Phật không nên chấp, biết như thật về bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng không nên chấp. Như vậy, này xá lợi tử! Các đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, có thể biết như thật tâm Bồ Đệ không nên chấp, tâm vô đẳng đẳng không nên chấp, tâm rộng lớn không nên chấp. Vì sao? Này xá lợi tử! Vì tâm này chẳng phải tâm, bản tánh thanh tịnh. Khi ấy, xá lợi tử hỏi thiện hiện. Tại sao tâm này bản tánh thanh tịnh? Thiện hiện đáp. Bản tánh tâm này chẳng tương ưng với tham, chẳng phải không tương ưng. Chẳng tương ưng với sân, chẳng phải không tương ưng. Chẳng tương ưng với si, chẳng phải không tương ưng. Không tương ưng với các tùy nguyên trói buộc, chẳng phải không tương ưng. Không tương ưng với các kiến thú lậu, chẳng phải không tương ưng. Không tương ưng cũng chẳng phải không tương ưng với tâm các thanh văn, độc giác. Này xá lợi tử! Các đại Bồ Tát biết tâm như vậy bản tánh thanh tịnh. Khi ấy, xá lợi tử hỏi thiện hiện. Tâm này là tánh phi tâm phải không? Thiện hiện hỏi lại. Trong tánh phi tâm có tánh, không tánh có thể nắm bắt được không? Xá lợi tử đáp. Không thể nắm bắt được. Thiện hiện nói. Nếu trong tánh phi tâm có tánh không tánh là không thể nắm bắt được thì tại sao lại hỏi tâm này có tánh phi tâm không? Khi ấy, xá lợi tử hỏi thiện hiện. Thế nào gọi là tánh phi tâm? Thiện hiện đáp. Đối với tất cả pháp không biến đổi, không phân biệt, gọi là tánh phi tâm. Xá lợi tử hỏi. Chỉ có tâm không biến đổi, không phân biệt hay là sắc, thọ, tưởng, hành, thức v... cũng không biến đổi, không phân biệt. Thiện hiện đáp. Như tâm không biến đổi, không phân biệt, sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không biến đổi, không phân biệt. Như vậy, cho đến vô thượng chánh đẳng chánh giác của chư Phật cũng không biến đổi, không phân biệt. Khi ấy, xá lợi tử khen ngợi tôn giả thiện hiện. Lành thay. Lành thay. Đúng như lời ông nói. Ông đúng là Phật tử, từ tâm Phật sanh, từ miệng Phật sanh, từ pháp Phật sanh, từ pháp hóa sanh, thọ nhận phần pháp của Phật, không nhận phần tài bảo đối với các pháp tự mình chính đắc tuệ nhãn thấy rõ mới có thể giảng nói. Phật thường nói ông là đứng đầu trụ vô tránh định trong chúng thanh văn, đúng như lời Phật nói chân thật không hư vọng. Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát đối với bác nhã Ba-la-mật-đa thăm sâu nên học như vậy. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào đối với bác nhã Ba-la-mật-đa thăm sâu có thể học như vậy thì nên biết Bồ Tát đó đã trụ địa vị bất thối chuyển, không lìa bác nhã Ba-la-mật-đa. Này thiện hiện! Thiện nam tử, thiện nữ nhân nào người muốn học địa vị thanh văn thì đối với bác nhã Ba-la-mật-đa thăm sâu như vậy nên xiên lắng nghe học tập, đọc tùng, thọ trì, tư duy đúng lý, làm cho đến chỗ rốt ráo. Muốn học địa vị độc giác cũng đối với bác nhã Ba-la-mật-đa thăm sâu như vậy nên xiên năng lắng nghe, học tập, đọc tùng, thọ trì, tư duy đúng lý, làm cho đến chỗ rốt ráo. Muốn học địa vị Bồ Tát cũng đối với bác nhã Ba-la-mật-đa thăm sâu như vậy nên xiên năng lắng nghe, học tập, đọc tùng, thọ trì, tư duy đúng lý, làm cho đến chỗ rốt ráo. Vì sao? Này thiện hiện! Vì trong kinh bác nhã Ba-la-mật-đa thăm sâu như vậy đã giảng nói mở bài giáo Pháp ba thừa, Đại Bồ Tát nào có thể học bác nhã Ba-la-mật-đa tức là học hết giáo Pháp ba thừa một cách thiện xảo? Tám Phẩm Thắng Quân không một Lúc bấy giờ, cụ thọ thiện hiện thưa! Bạch Thế Tôn Đối với Đại Bồ Tát và bác nhã Ba-la-mật-đa, con đều không biết, không đắc, thì làm sao bảo con đem Pháp tương ưng với bác nhã Ba-la-mật-đa dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ Tát. Bạch Thế Tôn Đối với các Pháp hoặc tăng, hoặc giảm, con không biết, không đắc, nếu đem các Pháp dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ Tát thì con sẽ hối hận. Bạch Thế Tôn Đối với các Pháp hoặc tăng, hoặc giảm, con không biết, không đắc, làm sao có thể nói đây là Đại Bồ Tát, đây là bác nhã Ba-la-mật-đa? Bạch Thế Tôn Tên các Đại Bồ Tát và tên bác nhã Ba-la-mật-đa đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì hai nghĩa này không có, nên hai tên này đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Bạch Thế Tôn Đối với sát cho đến thức hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc, như vậy sao có thể nói đây là sát cho đến thức? Tên của sát V, V này đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của sát V, V này không có, nên tên của sát V, V này đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Bạch Thế Tôn Đối với nhãn sứ cho đến ý sứ hoặc tăng, hoặc giảm con đều không biết, không đắc, như vậy sao có thể nói đây là nhãn sứ cho đến ý sứ? Tên của nhãn sứ V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của nhãn sứ V, V không có, nên tên nhãn sứ V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Bạch Thế Tôn Đối với sát sứ cho đến pháp sứ hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc, như vậy sao có thể nói đây là sát sứ cho đến pháp sứ? Tên của sát sứ V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của sát sứ V, V không có, nên tên của sát sứ V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Bạch Thế Tôn Đối với nhãn giới cho đến ý giới hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc, như vậy sao có thể nói đây là nhãn giới cho đến ý giới? Tên của nhãn giới V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của nhãn giới V, V không có, nên tên của nhãn giới V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Bạch Thế Tôn Đối với sát giới cho đến pháp giới hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc, như vậy sao có thể nói đây là sát giới cho đến pháp giới? Tên của sát giới V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của sát giới V, V không có, nên tên của sát giới V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Bạch Thế Tôn Đối với nhãn thức giới cho đến ý thức giới hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc, như vậy sao có thể nói đây là nhãn thức giới cho đến ý thức giới? Tên của nhãn thức giới V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của nhãn thức giới V, V không có, nên tên của nhãn thức giới V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Bạch Thế Tôn Đối với nhãn thức giới cho đến ý thức hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc, như vậy sao có thể nói đây là nhãn thức giới cho đến ý thức? Tên của nhãn thức giới V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của nhãn thức giới V, V không có, nên tên của nhãn thức giới V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Bạch Thế Tôn Đối với nhãn thức giới cho đến ý thức hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc, như vậy sao có thể nói đây là nhãn thức giới cho đến ý thức? Tên của nhãn thức giới V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của nhãn thức giới V, V không có, nên tên của nhãn thức giới V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Bạch Thế Tôn Đối với vô minh cho đến lão tử hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc, như vậy sao có thể nói đây là vô minh cho đến lão tử? Tên của vô minh V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của vô minh V, V không có, nên tên của vô minh V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Bạch Thế Tôn Đối với vô minh Việt cho đến lão tử Việt hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc, như vậy sao có thể nói đây là vô minh Việt cho đến lão tử Việt? Tên của vô minh Việt V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của vô minh Việt V, V không có, nên tên của vô minh Việt V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Bạch Thế Tôn Đối với tham, sân, si và các tụi miên trói buộc, kiến thú hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc, như vậy sao có thể nói đây là tham V, V? Tên của tham V, V này đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của tham V, V này không có, nên tên của tham V, V này đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Bạch Thế Tôn Đối với tham, sân, si và các tụi miên trói buộc, kiến thú hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc, như vậy sao có thể nói đây là tham V, V? Tên của tham V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của tham V, V không có, nên tên của tham V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Bạch Thế Tôn Đối với ngã cho đến người thấy hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc, như vậy sao có thể nói đây là ngã cho đến người thấy? Tên của ngã V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của ngã V, V không có, nên tên của ngã V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Bạch Thế Tôn Đối với 4 niệm trụ cho đến 8 chi thánh đạo hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc, như vậy sao có thể nói đây là 4 niệm trụ cho đến 8 chi thánh đạo? Tên của 4 niệm trụ V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của 4 niệm trụ V, V không có, nên tên của 4 niệm trụ V, V không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Bạch Thế Tôn Đối với pháp môn giải thoát không cho đến pháp môn giải thoát vô nguyện hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc, như vậy sao có thể nói đây là pháp môn giải thoát không cho đến pháp môn giải thoát vô nguyện? Tên của pháp môn giải thoát không V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của pháp môn giải thoát không V, V không có, nên tên của pháp môn giải thoát không V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Bạch Thế Tôn Đối với 4 tỉnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc, như vậy sao có thể nói đây là 4 tỉnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc? Tên của 4 tỉnh lự V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của 4 tỉnh lự V, V không có, nên tên của 4 tỉnh lự V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Bạch Thế Tôn Đối với tùy niệm Phật, tùy niệm pháp, tùy niệm tăng, tùy niệm giới, tùy niệm xã, tùy niệm thiên, tùy niệm hơi thở ra vào, tùy niệm tử hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc, như vậy sao có thể nói đây là tùy niệm Phật cho đến tùy niệm tử? Tên của tùy niệm Phật V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của tùy niệm Phật V, V không có, nên tên của tùy niệm Phật V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Bạch Thế Tôn Đối với 10 lực của Phật cho đến 18 pháp Phật Quốc Cộng hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc, như vậy sao có thể nói đây là 10 lực của Phật cho đến 18 pháp Phật Quốc Cộng? Tên của 10 lực của Phật V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của 10 lực của Phật V, V không có, nên tên của 10 lực của Phật V, V đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Listen Next

Other Creators