Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 16 Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 16, từ quyển 376 đến quyển 400 Hán Dịch, Tàm Tạng Pháp Sư Huyền Trang Việt Dịch, Hòa Thượng Thích Trí Nhiêm Khảo Dịch, Hòa Thượng Thích Quảng Độ Quyển 376 LXVI Phẩm Vô Tướng Vô Đắc 04 Ngày Thiện Hiện Đại Bồ Tát ấy vì tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa nên khi an trụ Pháp không nội, thì an trụ tâm vô lậu mà an trụ Pháp không nội, hoặc khi an trụ Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không đốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đổi khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh thì an trụ tâm vô lậu mà an trụ Pháp không nội cho đến Pháp không không tánh tự tánh. Vì vậy, tuy an trụ Pháp không ngoại cho đến Pháp không không tánh tự tánh nhưng không có hai tưởng. Ngày Thiện Hiện Đại Bồ Tát ấy vì tu hành bác nhã ba la mật đa nên khi an trụ chân như, thì an trụ tâm vô lậu mà an trụ chân như, hoặc khi an trụ Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, Pháp định, Pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhì thì an trụ tâm vô lậu mà an trụ Pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nhì. Vì vậy, tuy an trụ chân như cho đến cảnh giới bất tương nhì nhưng không có hai tưởng. Ngày Thiện Hiện Đại Bồ Tát ấy vì tu hành bác nhã ba la mật đa nên khi tu năm loại mắt, thì an trụ tâm vô lậu mà tu năm loại mắt, hoặc khi tu sáu phép thần thông thì an trụ tâm vô lậu mà tu sáu phép thần thông. Vì vậy, tuy tu năm loại mắt, sáu phép thần thông nhưng không có hai tưởng. Ngày Thiện Hiện Đại Bồ Tát ấy vì tu hành bác nhã ba la mật đa nên khi tu mười lực Phật, thì an trụ tâm vô lậu mà tu mười lực Phật, hoặc khi tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám Pháp Phật bất cộng thì an trụ tâm vô lậu mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám Pháp Phật bất cộng. Vì vậy, tuy tu mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám Pháp Phật bất cộng nhưng không có hai tưởng. Ngày Thiện Hiện Đại Bồ Tát ấy vì tu hành bác nhã ba la mật đa nên khi tu đại tử, thì an trụ tâm vô lậu mà tu đại tử, hoặc khi tu đại bi, đại hỉ, đại xã thì an trụ tâm vô lậu mà tu đại bi, đại hỉ, đại xã. Vì vậy, tuy tu đại tử, đại bi, đại hỉ, đại xã nhưng không có hai tưởng. Ngày Thiện Hiện Đại Bồ Tát ấy vì tu hành bác nhã ba la mật đa nên khi tu Pháp không quên mất, thì an trụ tâm vô lậu mà tu Pháp không quên mất, hoặc khi tu Tánh luôn luôn xã thì an trụ tâm vô lậu mà tu Tánh luôn luôn xã. Vì vậy, tuy tu Pháp không quên mất, Tánh luôn luôn xã nhưng không có hai tưởng. Ngày Thiện Hiện Đại Bồ Tát ấy vì tu hành bác nhã ba la mật đa nên khi tu Trí nhất thiết, thì an trụ tâm vô lậu mà tu Trí nhất thiết, hoặc khi tu Trí đạo tướng, Trí nhất thiết tướng thì an trụ tâm vô lậu mà tu Trí đạo tướng, Trí nhất thiết tướng. Vì vậy, tuy tu Trí nhất thiết, Trí đạo tướng, Trí nhất thiết tướng nhưng không có hai tưởng. Ngày Thiện Hiện Đại Bồ Tát ấy vì tu hành bác nhã ba la mật đa nên khi dẫn Pháp 32 tướng đại sĩ, thì an trụ tâm vô lậu mà dẫn Pháp 32 tướng đại sĩ, hoặc khi dẫn Pháp 80 vẻ đẹp phụ thuộc thì an trụ tâm vô lậu mà dẫn Pháp 80 vẻ đẹp phụ thuộc. Vì vậy, tuy dẫn Pháp 32 tướng đại sĩ, 80 vẻ đẹp phụ thuộc nhưng không có hai tưởng. Cụ Thọ Thiện Hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát vì tu hành bác nhã ba la mật đa nên khi hành bố thí ba la mật đa, thì an trụ tâm vô lậu mà hành bố thí ba la mật đa, khi hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã ba la mật đa thì an trụ tâm vô lậu mà hành tịnh giới cho đến bác nhã ba la mật đa? Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát vì tu hành bác nhã ba la mật đa nên khi tu bốn tịnh lự thì an trụ tâm vô lậu mà tu bốn tịnh lự, khi tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc thì an trụ tâm vô lậu mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc? Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát vì tu hành bác nhã ba la mật đa nên khi tu bốn niệm trụ thì an trụ tâm vô lậu mà tu bốn niệm trụ, khi tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo thì an trụ tâm vô lậu mà tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo? Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát vì tu hành bác nhã ba la mật đa nên khi tu pháp môn giải thoát không thì an trụ tâm vô lậu mà tu pháp môn giải thoát không, khi tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thì an trụ tâm vô lậu mà tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện? Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát vì tu hành bác nhã ba la mật đa nên khi an trụ thánh đế khổ thì an trụ tâm vô lậu mà an trụ thánh đế khổ, khi an trụ thánh đế tập, diệt, đạo thì an trụ tâm vô lậu mà an trụ thánh đế tập, diệt, đạo? Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát vì tu hành bác nhã ba la mật đa nên khi tu tám giải thoát thì an trụ tâm vô lậu mà tu tám giải thoát, khi tu tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng thì an trụ tâm vô lậu mà tu tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng? Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát vì tu hành bác nhã ba la mật đa nên khi tu tất cả pháp môn tama địa thì an trụ tâm vô lậu mà tu tất cả pháp môn tama địa, khi tu tất cả pháp môn đa la ni thì an trụ tâm vô lậu mà tu tất cả pháp môn đa la ni? Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát vì tu hành bác nhã ba la mật đa nên khi an trụ pháp không nội thì an trụ tâm vô lậu mà an trụ pháp không nội, khi an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không đốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đội khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được? Pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thì an trụ tâm vô lậu mà an trụ pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh. Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát vì tu hành bát nhã ba la mật đa nên khi an trụ chân như thì an trụ tâm vô lậu mà an trụ chân như, khi an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhì thì an trụ tâm vô lậu mà an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nhì? Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát vì tu hành bát nhã ba la mật đa nên khi tu năm loại mắt thì an trụ tâm vô lậu mà tu năm loại mắt, khi tu sáu phép thần thông thì an trụ tâm vô lậu mà tu sáu phép thần thông? Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát vì tu hành bát nhã ba la mật đa nên khi tu mười lực Phật thì an trụ tâm vô lậu mà tu mười lực Phật, khi tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng thì an trụ tâm vô lậu mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng? Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát vì tu hành bát nhã ba la mật đa nên khi tu đại tử thì an trụ tâm vô lậu mà tu đại tử, khi tu đại bi, đại hỉ, đại xã thì an trụ tâm vô lậu mà tu đại bi, đại hỉ, đại xã? Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát vì tu hành bát nhã ba la mật đa nên khi tu pháp không quên mất thì an trụ tâm vô lậu mà tu pháp không quên mất, khi tu tánh luôn luôn xã thì an trụ tâm vô lậu mà tu tánh luôn luôn xã? Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát vì tu hành bát nhã ba la mật đa nên khi tu trí nhất thiết thì an trụ tâm vô lậu mà tu trí nhất thiết, khi tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thì an trụ tâm vô lậu mà tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng? Bạch Thế Tôn Thế nào là Đại Bồ Tát vì tu hành bát nhã ba la mật đa nên khi dẫn pháp 32 tướng đại sĩ thì an trụ tâm vô lậu mà dẫn pháp 32 tướng đại sĩ, khi dẫn pháp 80 vẻ đẹp phụ thuộc thì an trụ tâm vô lậu mà dẫn pháp 80 vẻ đẹp phụ thuộc? Phật dạy Nếu Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã ba la mật đa, dùng tâm lì tướng mà tu bố thí ba la mật đa, nghĩa là chẳng thấy ta có thể hành bố thí, ta có thể xả việc này, đối với việc này mà hành bố thí, do việc này mà bố thí, vì việc này mà bố thí, thì hành bố thí như thế là an trụ tâm vô lậu lì tướng, lì ái, lì sang mà hành bố thí ba la mật đa. Khi ấy, chẳng thấy sở hành là việc bố thí, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này cho đến chẳng thấy tất cả phật pháp, như thế là Đại Bồ Tát an trụ tâm vô lậu mà hành bố thí ba la mật đa. Ngày Thiện Hiện Nếu Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã ba la mật đa, dùng tâm lì tướng tu hành tịnh giới ba la mật đa, nghĩa là chẳng thấy ta có thể trì giới, ta có thể xả việc này, đối với việc này mà trì giới, do việc này mà trì giới, vì việc này mà trì giới, thì trì giới như thế là an trụ tâm vô lậu lì tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà hành tịnh giới ba la mật đa. Khi ấy, chẳng thấy sở hành là tịnh giới, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả phật pháp, như thế là Đại Bồ Tát an trụ tâm vô lậu mà hành tịnh giới ba la mật đa. Này thiện hiện, nếu Đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã ba la mật đa, dùng tâm lì tướng tu hành an nhẫn ba la mật đa, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu nhẫn, ta có thể xả việc này, đối với việc này mà tu nhẫn, do việc này mà tu nhẫn, vì việc này mà tu nhẫn, thì tu nhẫn như thế là an trụ tâm vô lậu lì tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà hành an nhẫn ba la mật đa. Khi ấy, chẳng thấy sở hành là an nhẫn, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả phật pháp, như vậy là Đại Bồ Tát an trụ tâm vô lậu mà hành an nhẫn ba la mật đa. Này thiện hiện! Nếu Đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã ba la mật đa, dùng tâm lì tướng mà tu hành tinh tấn ba la mật đa, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tinh tấn, ta có thể xả việc này, đối với việc này mà tinh tấn, do việc này mà tinh tấn, vì việc này mà tinh tấn, thì tinh tấn như thế là an trụ tâm vô lậu lì tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà hành tinh tấn ba la mật đa. Khi ấy, chẳng thấy sở hành là tinh tấn, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả phật pháp, như thế là Đại Bồ Tát an trụ tâm vô lậu mà hành tinh tấn ba la mật đa. Này thiện hiện! Nếu Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã ba la mật đa, dùng tâm lì tướng tu hành tinh tấn ba la mật đa, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu tinh, ta có thể xả việc này, đối với việc này mà tu tinh, do việc này mà tu tinh, vì việc này mà tu tinh, thì tu tinh như thế là an trụ tâm vô lậu lì tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà tu tinh tấn ba la mật đa. Khi ấy, chẳng thấy sự tu hành tinh lự, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả phật pháp, như thế là Đại Bồ Tát an trụ tâm vô lậu mà hành tinh lự ba la mật đa. Nếu Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã ba la mật đa, dùng tâm lì tướng tu hành bát nhã ba la mật đa, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu tuệ, ta có thể xả việc này, đối với việc này mà tu tuệ, do việc này mà tu tuệ, vì việc này mà tu tuệ, thì tu tuệ như thế là an trụ tâm vô lậu lì tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà hành bát nhã ba la mật đa. Khi ấy, chẳng thấy việc hành bát nhã, lại cũng chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả phật pháp, như thế là Đại Bồ Tát an trụ tâm vô lậu mà hành bát nhã ba la mật đa. Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã ba la mật đa, dùng tâm lì tướng tu hành bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, và tâm lì tướng tu hành bát nhã ba la mật đa, nếu Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã ba la mật đa, dùng tâm lì tướng tu hành bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, và tâm lì tướng tu hành bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này, thì tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo như thế là an trụ trong tâm vô lậu lì tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, khi ấy, chẳng thấy sở tu là bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, cũng lại chẳng thấy thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật Pháp, như thế là Đại Bồ Tát an trụ tâm vô lậu mà tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, dùng tâm lì tướng an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, nghĩa là chẳng thấy ta có thể an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, nghĩa là chẳng thấy ta có thể an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, nghĩa là chẳng thấy ta có thể an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, nghĩa là chẳng thấy ta có thể an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, nghĩa là chẳng thấy ta có thể an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, nghĩa là chẳng thấy ta có thể an trụ thánh đế kh khổ, tập, diệt, đạo, nghĩa là chẳng thấy ta có thể an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, nghĩa là chẳng thấy ta có thể an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, nghĩa là chẳng thấy ta có thể an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, nghĩa là chẳng thấy ta có thể an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, nghĩa là chẳng thấy ta có thể an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, nghĩa là chẳng thấy ta có thể an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, nghĩa là chẳng thấy ta có thể an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đ Này thiện hiện! Nếu Đại Bồ-Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, dùng tâm lì tướng tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, dùng tâm lì tướng tu tám giải thoát, tám tháng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu tám giải thoát, tám tháng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này, thì tu tám giải thoát, tám tháng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng như thế là an trụ trong tâm vô lậu lì tướng, không nhiễm ô, không chấp trước Nếu Đại Bồ-Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, dùng tâm lì tướng tu tám giải thoát, tám tháng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu tám giải thoát, tám tháng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật Pháp như thế là Đại Bồ-Tát an trụ tâm vô lậu mà tu tám giải thoát, tám tháng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng Nếu Đại Bồ-Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, dùng tâm lì tướng tu tất cả Pháp-môn-ta-ma-địa, Pháp-môn-đa-la-ni, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu tất cả Pháp-môn-ta-ma-địa, Pháp-môn-đa-la-ni, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này, thì tu tất cả Pháp-môn-ta-ma-địa, Pháp-môn-đa-la-ni như thế là an trụ trong tâm vô lậu lì tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà tu tất cả Pháp-môn-ta-ma-địa, Ph Pháp-môn-ta-ma-địa, Pháp-môn-đa-la-ni, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật Pháp, như thế là Đại Bồ-Tát an trụ tâm vô lậu mà tu tất cả Pháp-môn-ta-ma-địa, Pháp-môn-đa-la-ni. Này thiện hiện, nếu Đại Bồ-Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, dùng tâm lì tướng an trụ Pháp không nội, Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nỉa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không rốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đổi khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh, nghĩa là chẳng thấy ta có thể an trụ Pháp không nội cho đến Pháp không không tánh tự tánh, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này, thì an trụ Pháp không nội cho đến Pháp không không tánh tự tánh như thế là an trụ trong tâm vô lậu lì tướng không nhịn ô, không chấp trước mà an trụ Pháp không nội cho đến Pháp không không tánh tự tánh. Khi ấy chẳng thấy sở an trụ Pháp không nội cho đến Pháp không không tánh tự tánh, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật Pháp, như thế là Đại Bồ Tát an trụ tâm vô lậu mà an trụ Pháp không nội cho đến Pháp không không tánh tự tánh. Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, dùng tâm lì tướng tu năm loại mắt, sáu phép thần thông, nghĩa là tâm vô lậu lì tướng không không tánh tự tánh, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật Pháp, như thế là Đại Bồ Tát an trụ tâm vô lậu mà an trụ Pháp không không tánh tự tánh. Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Này Thiện Hiện! Nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này, tu Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả như thế là an trụ trong tâm vô lậu lì tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà tu Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, khi ấy, chẳng thấy sợ tu Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, cũng lại chẳng. Thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật Pháp, như thế là Đại Bồ Tát an trụ tâm vô lậu mà tu Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, dùng tâm lì tướng tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, nghĩa là chẳng thấy ta có thể tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này, tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng như thế là an trụ trong tâm vô lậu lì tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, khi ấy, chẳng thấy sợ tu là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả vật pháp, như thế là Đại Bồ Tát an trụ tâm vô lậu mà tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, dùng tâm lì tướng dẫn phát 32 tướng đại sĩ, 80 vẻ đẹp phụ thuộc, nghĩa là chẳng thấy ta có thể dẫn phát 32 tướng đại sĩ, 80 vẻ đẹp phụ thuộc, ta có thể xả việc này, đối với việc này, do việc này, vì việc này, dẫn phát 32 tướng đại sĩ, 80 vẻ đẹp phụ thuộc như thế là an trụ trong tâm vô lậu lì tướng, không nhiễm ô, không chấp trước mà dẫn phát 32 tướng đại sĩ, 80 vẻ đẹp phụ thuộc, khi ấy, chẳng thấy sở dẫn phát là 32 tướng đại sĩ, 80 vẻ đẹp phụ thuộc, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật Pháp, như thế là Đại Bồ Tát an trụ tâm vô lậu mà dẫn phát 32 tướng đại sĩ, 80 vẻ đẹp phụ thuộc. Lúc bấy giờ, Cụ Thọ Thiện Hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Khi Đại Bồ Tát tu hành bác nhã ba la mật đa ở trong tất cả Pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô ảnh, Bồ Tát làm sao có thể viên mạng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã ba la mật đa? Làm sao có thể viên mạng 4 niệm trụ, 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo? Làm sao có thể viên mạng Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện? Làm sao có thể viên mạng Pháp không nội, Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không trốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đổi khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không cộng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh? Làm sao có thể viên mạng chân như Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng? Tánh lý xanh, Pháp định, Pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghi? Làm sao có thể viên mạng thánh đế khổ, tập, diệt, đạo? Làm sao có thể viên mạng bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc? Làm sao có thể viên mạng tám giải thoát, tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ? Làm sao có thể viên mạng tất cả Pháp môn Tamma Địa, tất cả Pháp môn Đà La Ni? Làm sao có thể viên mạng năm loại mắt, sáu phép thần thông? Làm sao có thể viên mạng mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám Phật bất cộng? Làm sao có thể viên mạng đại từ, đại bi, đại hỷ, đại phả? Làm sao có thể viên mạng Pháp không quên mất, tảnh luôn luôn xả? Làm sao có thể viên mạng ký nhất thiết, ký đạo tướng, ký nhất thiết tướng? Làm sao có thể viên mạng ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc? Phật dạy! Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, có thể dùng tâm vô lậu lị tướng mà hành bố thí, nếu các hữu tình cần ăn thì cho ăn, cần uống cho uống, cần y phục cho y phục, cần đồ nằm cho đồ nằm, cần xe cổ cho xe cổ, cần tôi tớ cho tôi tớ, cần trân bảo cho trân bảo, cần cụ cải lúa gạo cho cụ cải lúa gạo, cần hương hoa cho hương hoa, cần nhà đất cho nhà đất, cần đồ trang sức cho đồ trang sức, cho đến tùy theo nhu cần của họ về đồ dùng đều cho hết, hoặc có người cần cái trong thân như đầu, mắt, tuổi, não, da, thịt, lóng đốt, gân, cốt, thân mạng, cũng đều cho hết, hoặc có người cần vật ngoài thân như là quốc, thành, thê tử, quyến thuộc thân yêu, các đồ trang sức cũng hoang hỷ cho hết. Trong khi bố thí như thế, giả sử có người đến trước chê cách, này đại sĩ, cần gì làm việc bố thí vô ích này, bố thí như thế thì đời này, đời sau bị nhiều khổ não. Đại Bồ-Tát ấy, vì tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nên tuy nghe lời ấy nhưng chẳng thối lui, chỉ nghĩ thế này, người ấy tuy đến chê cách ta, nhưng ta chẳng nên sanh tâm lo buồn hối hận. Ta sẽ giỗng mạnh bố thí cho các hữu tình những tài vật mà họ cần, thân tâm không mệt mỏi. Đại Bồ-Tát ấy, đem phước bố thí này cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột. Khi bố thí và hồi hướng như thế, chẳng thấy tướng ấy, nghĩa là chẳng thấy ai cho, ai nhận, bố thí vật gì, đối với cái gì mà thí, do cái gì mà thí, vì cái gì mà thí, vì sao mà thí, cũng lại chẳng thấy ai năng hồi hướng, hồi hướng về đâu, đối với cái gì mà hồi hướng, do cái gì mà hồi hướng, vì cái gì mà hồi hướng, tại sao hồi hướng, đối với tất cả sự vật như thế đều chẳng thấy. Vì sao? Vì các Pháp như thế hoặc do nội không nên không, hoặc do ngoại không nên không, hoặc do nội ngoại không nên không, hoặc do không không nên không, hoặc do không lớn nên không, hoặc do không thắng nhễ nên không, hoặc do không hữu vi nên không, hoặc do không vô vi nên không, hoặc do không trốt tráo nên không, hoặc do không biên giới nên không, hoặc do không tản mạng nên không, hoặc do không đổi khác nên không, hoặc do không bản tánh nên không, hoặc do không tự tướng nên không, hoặc do không cộng. Tướng nên không, hoặc do tất cả Pháp nên không, hoặc do không chẳng thể nắm bắt được nên không, hoặc do không không tánh nên không, hoặc do không không tự tánh nên không, hoặc do không tánh tự tánh nên không. Đại Bồ Tát ấy, quán tất cả Pháp đều không rồi, lại nghĩ thế này, ai năng hồi hướng, hồi hướng về đâu, đối với cái gì mà hồi hướng, do cái gì mà hồi hướng, vì cái gì mà hồi hướng, tại sao hồi hướng. Tất cả Pháp như thế đều chẳng thể nắm bắt được. Đại Bồ Tát ấy, do quán như thế và nghĩ như thế, nên việc hồi hướng đó gọi là thiện hồi hướng, lì độc hồi hướng, cũng gọi là ngộ nhập Pháp giới hồi hướng, do đó lại có thể nghiêm tình cõi Phật, thành thuộc hữu tình, cũng có thể viên mạng bố thí, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã bác nhã ba la mật đa, cũng có thể viên mạng bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, cũng có thể viên mạng Pháp môn giải thoát không, vô tư lý. Nguyện, cũng có thể viên mạng Pháp không nội, Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không rốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đổi khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh. Cũng có thể viên mạng chân như Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, Pháp định, Pháp trụ, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghi, cũng có thể viên mạng thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, cũng có thể viên mạng bốn tình lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng có thể viên mạng tám giải thoát, tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ, cũng có thể viên mạng tất cả Pháp môn tam ma địa. Pháp môn Đà-La-Ni, cũng có thể viên mạng năm loại mắt, sáu phép thần thông, cũng có thể viên mạng mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám Pháp Phật bất cộng, cũng có thể viên mạng đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, cũng có thể viên mạng Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã, cũng có thể viên mạng trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng có thể viên mạng ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc. Đại Bồ-Tát ấy, tuy có thể viên mạng bố thí Ba-la-mật-đa như thế, nhưng chẳng nhất thọ quả gì thuộc của việc bố thí, tuy chẳng nhất thọ quả gì thuộc của việc bố thí nhưng do khéo thanh tịnh bố thí Ba-la-mật-đa nên tùy ý có thể có đầy đủ tất cả tài vật. Thì như chiêu thiên tha hóa tự tại, tất cả vật nhu cầu đều tùy ý hiện ra, Đại Bồ-Tát ấy cũng như thế, có nhu cầu gì đều tùy ý có đủ. Do thế lực bố thí này tăng thượng, nên có thể dùng đủ các thứ đồ cúng thượng diệu, cùng kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chiêu vật thế tôn, cũng có thể có đầy đủ đồ dùng theo ý muốn của trời, người, à tối lạc v.v. trong thế gian. Đại Bồ-Tát ấy do bố thí Ba-la-mật-đa này nhiết thọ các hữu tình, phương tiện thiện xảo dụng pháp ba thừa mà an lập họ, khiến cho tùy theo căn cơ mà được lợi lạc. Này thiện hiện! Như vậy, Đại Bồ-Tát khi hành bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, do tâm lực vô lậu lị các tướng, mà có thể ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô ảnh, vô tác, viên mạng bố thí Ba-la-mật-đa, cũng có thể viên mạng các công đức khác. Lại nữa, thiện hiện! Làm sao Đại Bồ-Tát khi hành bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, có thể ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô ảnh, vô tác, có thể viên mạng tình giới Ba-la-mật-đa? Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát khi hành bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, có thể dùng tâm vô lậu lị tướng, thọ trị tình giới, đó là pháp sở nhất của chi thanh đạo vô lậu, khi ấy đắc giới thanh tình trọng vẹn, tình giới như thế, không khuyết, không hở, không tị vết, không ô quế, không có sự thủ trước, xứng đáng nhận cúng dương, được người trí khen nợi là thọ trị khéo léo, hiếu cánh tuyệt vời, tùy thuận thắng định, chẳng thể khuất phục, do tình giới này, đối với tất cả pháp, không có sự thủ trước, nghĩa là chẳng thủ. Trước sắc, cũng chẳng thủ trước thọ, tưởng, thành, thức, chẳng thủ trước nhãn xứ, cũng chẳng thủ trước nghĩa, tỉ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng thủ trước sắc xứ, cũng chẳng thủ trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng thủ trước nhãn giới, cũng chẳng thủ trước nghĩa, tỉ, thiệt, thân, ý giới, chẳng thủ trước sắc giới, cũng chẳng thủ trước thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng thủ trước nhãn thức giới, cũng chẳng thủ trước nghĩa, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới. Chẳng thủ trước ba mươi hai tướng đại sĩ, cũng chẳng thủ trước tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, chẳng thủ trước dòng họ lớn sát đế lời, cũng chẳng thủ trước dòng họ lớn ba la môn, dòng họ lớn trưởng giả, dòng họ lớn cư sĩ, chẳng thủ trước chúng trời tứ đại vương, cũng chẳng thủ trước trời ba mươi ba, trời giả ma, trời đổ xử đa, trời lạc biến hóa, trời tha hóa tự tại, chẳng thủ trước trời phạm chúng, cũng chẳng thủ trước trời phạm phù, trời phạm hồi, trời đại phạm, chẳng th thủ trước trời quan, cũng chẳng thủ trước trời thiểu quan, trời vô lượng quan, trời cực quan tình, chẳng thủ trước trời tình, cũng chẳng thủ trước trời thiểu tình, trời vô lượng tình, trời biến tình, chẳng thủ trước trời quản, cũng chẳng thủ trước trời thiểu quản, trời vô lượng quản, trời quản quả và trời vô tưởng, chẳng thủ trước trời vô phiền, cũng chẳng thủ trước trời vô nhiệt, trời thiện hiền, trời thiện kiến, trời sát cứu cánh, chẳng thủ trước trời không vô biên xứng, cũng chẳng thủ trước trời thức vô biên xứng, trời vô sở hữu xứng, trời phi tưởng phi phi tưởng xứng, chẳng thủ trước quả dự lưu, cũng chẳng thủ trước quả nhất lai, bất hoàng, à la háng, quả vị độc giác, chẳng thủ trước ngôi vị chuyển lung vương, cũng chẳng thủ trước các ngôi vua khác và các tể quan phú quý tự tại, mà chỉ đem sự hồ trì tình giới như thế cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, dùng vô tướng, vô đắc, vô tướng mà có sự hồi hướng, chẳng phải dùng có tướng, có đắc, có hai làm phương tiện. Tùy theo thế tục mà có hồi hướng, chứ chẳng phải thắng nghĩa. Do nhân duyên này, tất cả Phật Pháp đều được viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy, do tình giới Ba-la-mật-đa này viên mãn thanh tịnh, nên phương tiện thiện xảo khởi phát phần thắng tấn của bốn tình lựu, dùng sự không mê đắm làm phương tiện, mà khởi phát các thần thông. Đại Bồ-Tát ấy dùng thiên nhãn dị thuộc sanh thanh tịnh, thường thấy chư Phật hiện tại trong vô biên thế giới ở khắp mười phương, an ổn trụ trị, vì các hữu tình, tuyên thuyết chánh pháp, thấy rồi cho đến khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng không quên mất. Đại Bồ-Tát ấy dùng thiên nhãn thanh tịnh vượt hẳn người thường, thường nghe chư Phật trong mười phương thuyết pháp, nghe rồi cho đến khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột thường chẳng quên mất, theo Pháp đã nghe có thể làm các việc lợi lạc cho mình và người, không có việc nào là vô viên. Đại Bồ-Tát ấy dùng tha tâm trí sai biệt, để biết tâm và tâm sở Pháp của mười phương Phật và các hữu tình, biết rồi thường phát khởi các việc lợi lạc cho tất cả hữu tình. Đại Bồ-Tát ấy dùng trí túc trụ tùy niệm biết nhiệt đã tạo đời trước của các hữu tình, do nhiệt đã tạo không hoại mất nên sanh vào các chỗ như thế, như thế, họ các điều khổ, vui, biết rồi vì họ mà nói nhân duyên nhiệt cũ, khiến họ nhớ biết mà làm việc lợi ích. Đại Bồ-Tát ấy dùng trí lậu tận an lập hữu tình, hoặc khiến an trụ quả dự lưu, hoặc khiến an trụ quả nhất lai, hoặc khiến an trụ quả bất hoàng, hoặc khiến an trụ quả A-la-hán, hoặc khiến an trụ quả vị độc giác, hoặc khiến an trụ bật Đại Bồ-Tát, hoặc khiến an trụ quả vị giác ngộ cao tột. Nói tóm lại, Đại Bồ-Tát ấy ở bất cứ nơi nào tùy theo khả năng sai khác của các hữu tình mà phương tiện thiện xảo, khiến họ an trụ trong các thiện pháp. Này thiện hiện! Như vậy là Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, do tâm lực vô lậu lì các tướng mà có thể ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô ảnh, vô tác, viên mãn tình giới bác nhã Ba-la-mật-đa, cũng có thể viên mãn các công đức khác. Lại nữa, thiện hiện! Làm sao Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, có thể ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô ảnh, vô tác, viên mãn an nhẫn Ba-la-mật-đa? Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, có thể dùng tâm vô lậu lì tướng mà tu an nhẫn. Đại Bồ-Tát ấy, từ khi mới phát tâm cho đến khi an tọa tòa Bồ-đệ Mậu Nhiềm, trong khoảng thời gian ấy, giả sử tất cả các loại hữu tình đều dùng các thứ ngói, đá, dao, gậy chân nhau đến làm hại, thì Đại Bồ-Tát ấy chẳng khởi một niềm sân hận. Khi ấy, Bồ-Tát nên tu hai nhẫn. Hai nhẫn ấy là gì? Một là nên thỏi nhẫn tất cả sự nhục mạ gia hại của hữu tình, chẳng sanh sân hận, dàn dẹp sân nhuế, hay là nên khởi vô sanh pháp nhẫn. Đại Bồ-Tát ấy, nếu bị đủ các thứ lời ác nhục mạ, hoặc bị các loại dao, gậy gia hại, thì nên tư duy chính chắn, so lường quan sát là ai nhục mạ, ai gia hại, ai thỏi mạ nhục, ai thỏi gia hại, ai khởi sân hận, ai nên nhẫn chịu. Lại nên quan sát tất cả pháp tánh đều rốt tráo không, pháp còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có pháp tánh, pháp tánh còn chẳng có, huống là có hữu tình. Khi quan sát như thế thì hoặc năng nhục mạ, hoặc bị nhục mạ, hoặc năng gia hại, hoặc bị gia hại, đều chẳng thấy có, cho đến bị các xẻo thân thể ra từng phần, tâm vẫn an nhẫn, hoàn toàn không có niệm nào khác, đối với các pháp tánh quan sát như thế thì có khả năng chính đắc vô sanh pháp nhẫn. Thế nào gọi là vô sanh pháp nhẫn? Đó là khiến cho phiền não rốt tráo chẳng sanh và quán các pháp rốt tráo chẳng khởi, trí tuệ vi diệu thường không gián đoạn, như vậy gọi là vô sanh pháp nhẫn. Đại Bồ Tát ấy, an trụ trong hai pháp nhẫn như thế thì mau có thể viên mạng Bố Thí, Tịnh Giới, An Nhẫn, Tinh Tấn, Tịnh Lự, Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, cũng có thể viên mạng 4 niệm trụ, 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, cũng có thể viên mạng pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, cũng có thể viên mạng pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đổi xác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng có thể viên mạng chân như pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi xác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghi. 18 pháp phật bất cộng, cũng có thể viên mạng đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, cũng có. Thể viên mạng pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã, cũng có thể viên mạng trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng có thể viên mạng 32 tướng đại sĩ, 80 vẻ đẹp phụ thuộc. Đại Bồ Tát ấy, an trụ các phật pháp như thế rồi, đối với bậc thánh vô lậu xuất thế chẳng cùng tất cả thanh văn, độc giác thần thông đều được tự tại, an trụ thần thông thù thắng như thế rồi, Đại Bồ Tát ấy dùng thiên nhãn thanh tịnh thường thấy chư phật hiện tại trong vô biên thế giới pháp mười phương an ổn trụ trì, vì các hữu tình tuyên thuyết chánh pháp. Thấy rồi, cho đến khi chính đắc quả vị giác ngộ cao tột, khởi tùy niệm phật, thường không gián đoạn. Đại Bồ Tát ấy, dùng thiên nhãn thanh tịnh, thường nghe chư phật mười phương thuyết pháp, nghe rồi thọ trì, thường chẳng quên mất, vì các hữu tình như thật tuyên thuyết. Đại Bồ Tát ấy, dùng trí tha tâm thanh tịnh, có thể tắt lượng đúng tâm, tâm sở pháp của chư phật mười phương, cũng có thể biết đúng tâm, tâm sở pháp của tất cả Bồ Tát, độc giác, thanh văn, cũng có thể biết đúng tâm, tâm sở pháp của tất cả hữu tình, tùy theo căn cơ của họ mà vì họ nói chánh pháp. Đại Bồ Tát ấy, dùng trí túc trú tùy niệm, biết các loại căn lành đợi trước sai sát của các hữu tình, biết rồi phương tiện thị hiện, khuyên bảo, dẫn dắt, khen ngợi, khích lệ, chúc mừng, khiến đạt được lợi ích an lạc thù thắng. Đại Bồ Tát ấy, dùng trí vô lậu, tùy theo căn cơ, an lập hữu tình ở pháp ba thừa. Đại Bồ Tát ấy, tu hành bác nhã ba la mật đa, phương tiện thiện xảo thành thuộc hữu tình, nghiêm tình cõi Phật, có thể mau đầy đủ trí nhất thiết tướng, chính đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luôn màu nhịm, độ vô lượng chúng sanh. Này thiện hiện! Như vậy, Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, do tâm lực vô lậu lị các tướng, có thể ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đặc, vô ảnh, vô tác, viên mãn an nhẫn ba la mật đa, cũng có thể viên mãn các công đức khác.