Home Page
cover of kinhdaibatnha (337)
kinhdaibatnha (337)

kinhdaibatnha (337)

Phuc Tien

0 followers

00:00-39:51

Nothing to say, yet

Podcastspeechbeepbleeptelephonespeech synthesizer
0
Plays
0
Shares

Audio hosting, extended storage and much more

AI Mastering

Transcription

Kinh đại Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa tập 14 Quyển 337 L.V. Phẩm học phương tiện thiện xảo 01 Lúc bấy giờ, trời đế thích bạch Phật. Bạch Thế Tôn Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa như thế vô cùng sâu xa, khó thấy, khó biết, chẳng thể suy tìm, vượt cảnh suy tìm, sở chứng của bậc trí thông tuệ sâu sắc, rốt tráo xa lịa tất cả sự phân biệt. Bạch Thế Tôn Nếu các hữu tình đối với Kinh Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa này thường ưa lắng nghe, thọ trì độc tụng, rốt tráo thông lợi, nhiều lý tư duy, y giáo tu hành, vì người khác nói, cho đến quả vị giác ngộ cao tột, nhưng chẳng lì các tâm và tâm sở khác, thì nên biết các hữu tình ấy chắc chắn chẳng thành tựu một chút thiện căng nào. Bấy giờ, Phật bảo trời đế thích. Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Này Kiều Thi Ca! Nếu các hữu tình đối với Kinh Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa này thường ưa lắng nghe, thọ trì độc tụng, rốt tráo thông lợi, nhiều lý tư duy, y giáo tu hành, vì người khác nói, cho đến quả vị giác ngộ cao tột mà chẳng sen lẫn các tâm và tâm sở khác thì nên biết các hữu tình ấy quyết định thành tựu thiện căng to lớn. Này Kiều Thi Ca! Giả sử tất cả hữu tình trong châu thiện bộ này đều thành tựu vô lượng công đức của 10 thiện nghiệp đạo và 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 5 thần thông v.v. có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào đó đối với Kinh Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa này thường ưa lắng nghe, thọ trì độc tụng, rốt tráo thông suốt, nhiều lý tư duy, y giáo tu hành, vì người khác nói thì công đức đạt được của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy, đối với công đức đã thành tựu của các hữu tình trong châu thiện bộ đã. Nói ở trước, trăm lần hơn, ngàn lần hơn, trăm ngàn lần hơn, ước lần hơn, trăm ước lần hơn, ngàn ước lần hơn, trăm ngàn ước lần hơn, triệu lần hơn, trăm triệu lần hơn, ngàn triệu lần hơn, trăm ngàn triệu lần hơn, cũng lại hơn cả tính, hơn cả đến, hơn cả kể, hơn cả dụ cho đến hơn cả cực số. Bây giờ, trong Pháp hội có một bí sô bảo với trời để thích. Này Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân nào đối với kinh điển bát nhã Palamata sâu xa này, nhiếc tâm bất loạn, thường ưa lắng nghe, thọ trì độc tụng, vô cùng thông suốt, như lý tư duy, y giáo tu hành, vì người khác nói, cho đến quả vị giác ngộ cao tột mà chẳng sen lẫn tâm và tâm sở khác, thì công đức đạt được hơn vô lượng công đức mà các loại hữu tình ở châu thiện bộ đã nói trước thanh tựu tất cả mười thiện nhiệt đạo và bốn tình lựu, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông v.v. Trời để thích nói! Thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy, khi mới phát một niềm tương ưng trí nhất thiết trí, thì công đức đạt được đã hơn vô lượng công đức mà các loại hữu tình trong châu thiện bộ đã nói trước thanh tựu tất cả mười thiện nhiệt đạo và bốn tình lựu, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông v.v. Nhiều hơn trăm ngàn lần, huống gì đối với kinh điển bác nhã Palamata sâu xa này, nhất tâm bất loạn, thường ưa lắng nghe, họ trì đọc tụng, vô cùng thông suốt, như lý tư duy, y giáo tu hành, viên người. Khác nói, cho đến quả vị giác ngộ cao tột chẳng xen lẫn các tâm và tâm sở khác, thì công đức đạt được nếu có thể so sánh thì bí sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy, chẳng phải chỉ hơn các loại hữu tình trong châu thiện bộ thanh tựu mười thiện nhiệt đạo v.v. mà còn hơn tất cả trời, người, à tố lạc v.v. trong thế gian. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy, mau chính đắt quả vị giác ngộ cao tột, lợi lạc cho vô lượng hữu tình. Bí sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy, chẳng những chỉ hơn trời, người, à tố lạc v.v. trong thế gian kia mà cũng còn hơn tất cả dự lưu, nhất lai, bất hoàng, à la hãng, độc giác nữa. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy, mau chính đắt quả vị giác ngộ cao tột, lợi lạc cho vô lượng hữu tình. Bí sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy, chẳng những chỉ hơn tất cả dự lưu, nhất lai, bất hoàng, à la hãng, độc giác nữa. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy, mau chính đắt quả vị giác ngộ cao tột, lợi lạc cho vô lượng hữu tình. Bí sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy, cũng hơn Đại Bồ-Tát-Xa-Lê-Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa và phương tiện thiện xảo, an trụ Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nỉa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không rốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đổi khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không cộng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt. Được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy mau chứng quả vị giác ngộ trao tột, lợi lạc vô lượng hữu tình. Bí sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy cũng hơn đại Bồ Tát nào mà xa lịa bát nhã ba la mật đa và phương tiện thiện xảo, an trụ chân như Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, Pháp định, Pháp trụ, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghi. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy mau chứng quả vị giác ngộ trao tột, lợi lạc vô lượng hữu tình. Bí sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy cũng hơn đại Bồ Tát nào mà xa lịa bát nhã ba la mật đa và phương tiện thiện xảo, an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy mau chứng quả vị giác ngộ trao tột, lợi lạc vô lượng hữu tình. Bí sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy cũng hơn đại Bồ Tát nào mà xa lịa bát nhã ba la mật đa và phương tiện thiện xảo, tu hành bốn tịnh lử, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy mau chứng quả vị giác ngộ trao tột, lợi lạc vô lượng hữu tình. Bí sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy cũng hơn đại Bồ Tát nào mà xa lịa bát nhã ba la mật đa và phương tiện thiện xảo, tu hành tám giải thoát, tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy mau chứng quả vị giác ngộ trao tột, lợi lạc vô lượng hữu tình. Bí sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy cũng hơn đại Bồ Tát nào mà xa lịa bát nhã ba la mật đa và phương tiện thiện xảo, tu hành bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy mau chứng quả vị giác ngộ trao tột, lợi lạc vô lượng hữu tình. Bí sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy cũng hơn đại Bồ Tát nào mà xa lịa bát nhã ba la mật đa và phương tiện thiện xảo, tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy mau chứng quả vị giác ngộ trao tột, lợi lạc vô lượng hữu tình. Bí sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy cũng hơn đại Bồ Tát nào mà xa lịa bát nhã ba la mật đa và phương tiện thiện xảo, tu hành vật cực khỉ, vật ly cấu, vật phát quan, vật diện tuệ, vật cực nang thắng, vật khiện tiền, vật viễn hành, vật bất động, vật thiện tuệ, vật pháp vân. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy mau chứng quả vị giác ngộ trao tột, lợi lạc vô lượng hữu tình. Bí sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy cũng hơn đại Bồ Tát nào mà xa lịa bát nhã ba la mật đa và phương tiện thiện xảo, tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy mau chứng quả vị giác ngộ trao tột, lợi lạc vô lượng hữu tình. Bí sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy cũng hơn đại Bồ Tát nào mà xa lịa bát nhã ba la mật đa và phương tiện thiện xảo, tu hành mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất động. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy mau chứng quả vị giác ngộ trao tột, lợi lạc vô lượng hữu tình. Bí sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy cũng hơn đại Bồ Tát nào mà xa lịa bát nhã ba la mật đa và phương tiện thiện xảo, tu hành Pháp không quên mất, tánh lung lung xã. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy mau chứng quả vị giác ngộ trao tột, lợi lạc vô lượng hữu tình. Bí sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy cũng hơn đại Bồ Tát nào mà xa lịa bát nhã ba la mật đa và phương tiện thiện xảo, tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy mau chứng quả vị giác ngộ trao tột, lợi lạc vô lượng hữu tình. Bí sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy cũng hơn đại Bồ Tát nào mà xa lịa bát nhã ba la mật đa và phương tiện thiện xảo, tu hành Pháp môn đa la ni, Pháp môn tam ma địa. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy mau chứng quả vị giác ngộ trao tột, lợi lạc vô lượng hữu tình. Bí sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy cũng hơn đại Bồ Tát nào mà xa lịa bát nhã ba la mật đa và phương tiện thiện xảo, tu hành Quán duyên tánh duyên khởi. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy mau chứng quả vị giác ngộ trao tột, lợi lạc vô lượng hữu tình. Bí sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy cũng hơn đại Bồ Tát nào mà xa lịa bát nhã ba la mật đa và phương tiện thiện xảo mà nghiêm tịnh cõi Phật, thành thuộc hữu tình. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy mau chứng quả vị giác ngộ trao tột, lợi lạc vô lượng hữu tình. Bí sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy cũng hơn đại Bồ Tát nào mà xa lịa bát nhã ba la mật đa và phương tiện thiện xảo mà tu cắt hành đại Bồ Tát và tu quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy mau chứng quả vị giác ngộ cao tột, lợi lạc vô lượng hữu tình. Bí sô nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy cũng hơn đại Bồ Tát nào xa lịa bát nhã ba la mật đa và phương tiện thiện xảo mà tu hành bát nhã ba la mật đa. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy mau chứng quả vị giác ngộ cao tột, lợi lạc vô lượng hữu tình. Lại nữa, bí sô nên biết, thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy tức là đại Bồ Tát. Bí sô nên biết, đại Bồ Tát ấy như thuyết tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, nên tất cả trời, người, a tố lạc v, v, và các thanh văn, độc giác, Bồ Tát chẳng hơn được. Bí sô nên biết, đại Bồ Tát ấy như thuyết tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, nên có khả năng tiếp nối giống Phật, không để đoạn tuyệt. Bí sô nên biết, đại Bồ Tát ấy như thuyết tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, nên thường chẳng xa lì thiện hữu tốt nhất là Bồ Tát và như lại ứng chánh đẳng giác. Bí sô nên biết, đại Bồ Tát ấy như thuyết tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, nên chẳng bao lâu sẽ mồi tòa bồ đệ màu nhịm, hàng phục quân ma, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp lung nhịm màu, cứu nổi khổ sanh tử to lớn của hữu tình. Bí sô nên biết, đại Bồ Tát ấy như thuyết tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, nên thường học pháp nên học của các chúng đại Bồ Tát, chẳng học hành mà thanh văn và độc giác phải học. Bí sô nên biết, đại Bồ Tát ấy tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, thường học điều phải học của chúng đại Bồ Tát, nên bốn thiên vương hộ thế thống lãnh chúng trời bốn đại thiên vương đi đến chỗ Bồ Tát ấy cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói thế này, hay lắm đại sĩ. Nên xuyên năng tinh tấn học pháp nên học của chúng đại Bồ Tát, chớ học hành phải học của thanh văn và độc giác. Nếu học như vậy thì sẽ mau an tọa tòa bồ đề màu nhịm, chống chứng quả vị giác ngộ cao tột. Như như Lai ứng chánh đẳng giác đời trước đã nhận bốn cái bát của bốn thiên vương dân cúng, Ngài cũng sẽ nhận. Như sư bốn đại thiên vương hộ thế đã dân cúng bốn cái bát, chúng tôi cũng sẽ dân cúng. Bí sô nên biết, đại Bồ Tát ấy tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, thường học các điều nên học của chúng đại Bồ Tát, nên thiên đế chúng tôi thống lãnh chúng trời ba mươi ba đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói như thế này, hay lắm đại sĩ. Nên xuyên năng tinh tấn học các pháp phải học của chúng đại Bồ Tát, chớ học hành phải học của thanh văn và độc giác. Nếu học như vậy sẽ mau an tọa tòa bồ đệ màu nhịm, chống chính quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luôn nhịm màu, đổ vô lượng chúng sanh. Bí sô nên biết, đại Bồ Tát ấy tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, thường học các điều nên học của chúng đại Bồ Tát, nên thiên đế chúng tôi thống lãnh chúng trời ba mươi ba đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói như thế này, hay lắm đại sĩ. Nên xuyên năng tinh tấn học các pháp phải học của chúng đại Bồ Tát, chớ học hành phải học của thanh văn và các độc giác. Nếu học như vậy sẽ mau an tọa tòa bồ đệ màu nhịm, chống chính quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luôn nhịm màu, đổ vô lượng chúng sanh. Bí sô nên biết, đại Bồ Tát ấy tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, thường học các điều nên học của chúng đại Bồ Tát, nên thiên đế chúng tôi thống lãnh chúng trời ba mươi ba đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói như thế này, hay lắm đại sĩ. Nên xuyên năng tinh tấn học các pháp phải học của chúng đại Bồ Tát, chớ học hành phải học của thanh văn và các độc giác. Nếu học như vậy sẽ mau an tọa tòa bồ đệ màu nhịm, chống chính quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luôn nhịm màu, đổ vô lượng chúng sanh. Bí sô nên biết, đại Bồ Tát ấy tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, thường học các điều nên học của chúng đại Bồ Tát, nên thiên đế chúng tôi thống lãnh chúng trời ba mươi ba đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói như thế này, hay lắm đại sĩ. Nên xuyên năng tinh tấn học các pháp phải học của chúng đại Bồ Tát, chớ học hành phải học của thanh văn và các độc giác. Nếu học như vậy sẽ mau an tọa tòa bồ đệ màu nhịm, chống chính quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luôn nhịm màu, đổ vô lượng chúng sanh. Bí sô nên biết, đại Bồ Tát ấy tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, thường học các điều nên học của chúng đại Bồ Tát, nên thiên đế chúng tôi thống lãnh chúng trời ba mươi ba đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói như thế này, hay lắm đại sĩ. Nên xuyên năng tinh tấn học các pháp phải học của chúng đại Bồ Tát, chớ học hành phải học của thanh văn và các độc giác. Nếu học như vậy thì sẽ mau an tọa tòa bồ đệ màu nhịm, chống chính quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luôn nhịm màu, đổ vô lượng chúng sanh. Bí sô nên biết, đại Bồ Tát ấy tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, thường học các điều nên học của chúng đại Bồ Tát, nên thiên đế chúng tôi thống lãnh chúng trời ba mươi ba đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói như thế này, hay lắm đại sĩ. Nên xuyên năng tinh tấn học các pháp phải học của chúng đại Bồ Tát, chớ học hành phải học của thanh văn và các độc giác. Nếu học như vậy thì sẽ mau an tọa tòa bồ đệ màu nhịm, chống chính quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luôn nhịm màu, đổ vô lượng chúng sanh. Bí sô nên biết, đại Bồ Tát ấy tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, thường học các điều nên học của chúng đại Bồ Tát, nên trời cực quan tình thống lãnh thiên chúng trời quan, trời thiểu quan, trời vô lượng quan, đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói như thế này, hay lắm đại sĩ. Nên xuyên năng tinh tấn học các pháp nên học của chúng đại Bồ Tát, chớ học hành phải học của thanh văn và các độc giác. Nếu học như vậy thì sẽ mau an tòa tòa bồ đệ màu nhịm, chống chính quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luôn nhịm màu, đổ vô lượng chúng sanh. Bí sô nên biết, đại Bồ Tát ấy tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, thường học các điều nên học của chúng đại Bồ Tát, nên trời biến tình thống lãnh thiên chúng trời thiểu tình, trời vô lượng tình, đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói như thế này, hay lắm đại sĩ. Nên xuyên năng tinh tấn học các pháp nên học của chúng đại Bồ Tát, chớ học hành phải học của thanh văn và các độc giác. Nếu học như vậy thì sẽ mau an tòa tòa bồ đệ màu nhịm, chống chính quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luôn nhịm màu, đổ vô lượng chúng sanh. Bi sô nên biết, đại Bồ Tát ấy tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, thường học các điều nên học của chúng đại Bồ Tát, nên trời quảng quả thống lãnh thiên chúng trời quảng, trời thiểu quảng, trời vô lượng quảng, đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói như thế này, hay lắm đại sĩ. Nên xuyên năng tinh tấn học các pháp nên học của chúng đại Bồ Tát, chớ học hành phải học của thanh văn và các độc giác. Nếu học như vậy thì sẽ mau an tòa tòa bồ đệ màu nhịm, chống chính quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luôn nhịm màu, đổ vô lượng chúng sanh. Bi sô nên biết, đại Bồ Tát ấy tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, thường học các điều nên học của chúng đại Bồ Tát, nên trời xác cứu cánh thống lãnh thiên chúng trời vô phiền, trời vô nhiệt, trời thiện hiện, trời thiện kiến, đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nói như thế này, hay lắm đại sĩ. Nên xuyên năng tinh tấn học các pháp nên học của chúng đại Bồ Tát, chớ học hành phải học của thanh văn và các độc giác. Nếu học như vậy thì sẽ mau an tỏa tòa bồ đề màu nhịm, chống chính quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luôn nhịm màu, đổ vô lượng chúng sanh. Bi sô nên biết, vì đại Bồ Tát ấy như thuyết tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, nên tất cả như lai ứng chánh đẳng giác và các chúng đại Bồ Tát cùng các trời, đồng, a tố lạc v, v, thường theo hộ niệm. Do nhân duyên này tất cả hiểm nạn trong thế gian làm thân tâm sầu khổ đều chẳng xâm hại Bồ Tát ấy được. Bi sô nên biết, đại Bồ Tát ấy như thuyết tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, vì chư Phật, Bồ Tát và các trời, đồng, a tố lạc v, v, thường hộ niệm, nên các bệnh khởi lên do các đại chủng thế gian chống trái nhau đều chẳng làm tổn hại, đó là bệnh mắt, bệnh tai, bệnh ngũi, bệnh lưỡi, bệnh thân, bệnh các chi, đau thân, đau tim, đau đầu, đau răng, đau hông, đau lưng, đau vai, đau bụng, đau các lóng đốt, có 404 bệnh như thế này. 404 bệnh như thế đều vĩnh viễn không còn trong thân, chỉ trường nhịp nặng nhưng khi nhận chịu cũng chuyển thành nhẹ. Bi sô nên biết, đại Bồ Tát ấy như thuyết tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, nên đạt được vô lượng, vô biên công đức đời hiện tại, đời vị lai như thế. Lúc bấy giờ, cụ thọ Anang thầm nghĩ thế này, hôm nay, để thích dùng biện tại của mình khen ngợi công đức thù thắng của bát nhã ba la mật đa sâu xa như thế, đó là nhờ sức quai thần của Như Lai. Khi ấy, trời để thích liền biết tâm niệm Anang nên thưa với Anang. Tôi đã khen ngợi công đức thù thắng của bát nhã ba la mật đa sâu xa, đều là nhờ sức quai thần của Như Lai. Bấy giờ, Phật bảo Ananda. Đúng vậy. Đúng vậy. Này trời để thích khen ngợi công đức hy hữu của bát nhã ba la mật đa sâu xa, nên biết, đều là do thần lực của Như Lai, chẳng phải là biện tại của mình. Vì sao? Vì công đức hy hữu của bát nhã ba la mật đa sâu xa, chẳng phải người, trời V, V, có thể biết được. Anang nên biết, nếu Đại Bồ-Tát khi tập học bát nhã ba la mật đa sâu xa như thế, tư duy bát nhã ba la mật đa sâu xa như thế, tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa như thế, thì thế giới tam thiên đại thiên này, tất cả ác ma đều sanh nghi hoặc. Cùng nghĩ thế này, Đại Bồ-Tát này có phải chính thật tế, thối lui thủ quả dự lưu, nhất là, Bất Hoàng, A-La-Hán, quả vị độc giác, hay là hướng đến quả vị giác ngộ cao tột? Lại nữa, Anang. Nếu Đại Bồ-Tát chẳng lìa bát nhã ba la mật đa sâu xa như thế, thì khi ấy các ác ma rất trầu khổ, thân tâm rung sợ như bị trúng tên độc. Lại nữa, Anang. Nếu Đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, thì có ác ma, đến chỗ vị ấy, hóa làm đủ các hiện hiện tượng đáng sợ, đó là đau, kiếm, ác thú, rắn độc, lửa giữ bừng cháy, bốn phương đều phát cháy, muốn làm cho thân tâm Bồ-Tát sợ hãi, mê mùi, mất tâm Đại Bồ-đệ vô thường. Đối với việc tu hành, tâm sanh thối lui cho đến phát khởi một niệm loạn ý, chứng ngại quả vị giác ngộ cao tột. Bây giờ, cụ thọ Anang bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Có phải các Đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, đều bị ác ma nhiễu loạn, hay là có vị bị nhiễu loạn, có vị không bị nhiễu loạn? Phật bảo Anang. Chẳng phải các Đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa đều bị ác ma nhiễu loạn, mà có vị bị nhiễu loạn, có vị không bị nhiễu loạn. Cụ thọ Anang bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Những Đại Bồ-Tát nào khi tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa bị ác ma làm nhiễu loạn? Những Đại Bồ-Tát nào khi tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa chẳng bị ác ma nhiễu loạn? Phật bảo Anang. Nếu Đại Bồ-Tát nào đời trước nghe bát nhã ba la mật đa sâu xa này, tâm chẳng tin, chẳng hiểu, lại xanh phị bán, thì Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, liền bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Đại Bồ-Tát nào đời trước nghe bát nhã ba la mật đa sâu xa này, tâm tin hiểu sâu sắc, chẳng xanh phị bán, thì Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, chẳng bị ác ma nhiễu loạn. Lại nữa, Anang. Nếu Đại Bồ-Tát đời trước nghe bát nhã ba la mật đa này, tâm sanh do dự là thật có bát nhã ba la mật đa sâu xa này, hay là không thật có bát nhã ba la mật đa sâu xa này, thì Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, liền bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Đại Bồ-Tát đời trước nghe bát nhã ba la mật đa sâu xa này, chẳng sanh nghi hoặc quyết định tin có bát nhã ba la mật đa sâu xa thì Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, không bị ác ma nhiễu loạn. Lại nữa, Anang. Nếu Đại Bồ-Tát Sa Lì Thiện Hữu bị cách ác hữu chi phối, chẳng nghe bát nhã ba la mật đa sâu xa như thế, do chẳng nghe nên chẳng có thể hiểu rõ, vì chẳng hiểu rõ nên chẳng có thể tu tập, vì chẳng tu tập nên chẳng có thể như thật chứng đắc bát nhã ba la mật đa sâu xa như thế thì Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, liền bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Đại Bồ-Tát gần gũi Thiện Hữu, chẳng bị ác hữu trang buộc, được nghe bát nhã ba la mật đa sâu xa như thế, do được nghe nên có thể hiểu rõ, do hiểu rõ nên thường tu tập, do thường tu tập nên như thật chứng đắc bát nhã ba la mật đa sâu xa thì Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, không bị ác ma nhiễu loạn. Lại nữa, Anang. Nếu Đại Bồ-Tát xa liệt bát nhã ba la mật đa, thâu nạp, khen ngợi Pháp chẳng phải chân thật màu nhịm thì Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, liền bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Đại Bồ-Tát nào gần gũi bát nhã ba la mật đa, chẳng thâu nạp, chẳng khen ngợi Pháp chẳng phải chân thật màu nhịm thì Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, chẳng bị ác ma nhiễu loạn. Lại nữa, Anang. Nếu Đại Bồ-Tát xa liệt bát nhã ba la mật đa đối với Pháp chân thật nhịm màu vị bán chê bai, khi ấy ác ma nghĩ thế này, này Bồ-Tát này cùng với ta làm bạn, do vị ấy hủy bán Pháp chân thật màu nhịm, nền có vô lượng thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ Bồ-Tát thưa, đối với Pháp chân thật nhịm màu, cũng sanh hủy bán. Do nhân duyên này, ý nguyện của ta viên mãn. Các thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ Bồ-Tát thưa ấy, dù siêng năng tinh tấn tu các Pháp lành nhưng bị rơi vào bậc thanh văn hay độc giác, cũng khiến cho người khác rơi vào, thì Anang nên biết, Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, liền bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Đại Bồ-Tát gần gũi bát nhã ba la mật đa, đối với Pháp màu chân thật, tin tưởng, thọ trì, khen nợi cũng làm cho vô lượng thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ Bồ-Tát thưa, tin tưởng, thọ trì, khen nợi, do đó ác ma kinh sợ sầu khổ, các thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ Bồ-Tát thưa ấy, dù chẳng tinh trần tu tập các Pháp lành, nhưng quyết định chẳng để mình và người rơi vào địa vị thanh văn hay độc giác, quyết chính quả vị giác ngộ cao tột, thì A-Nan nên biết, Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, chẳng bị ác ma nhiễu loạn. Lại nữa, A-Nan, nếu Đại Bồ-Tát khi nghe nói kinh bát nhã ba la mật đa sâu xa, nói như thế này, bát nhã ba la mật đa như thế rất là sâu xa, khó thấy, khó biết, huống là tuyên thuyết, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, thiêu duy, tin cần tu tập, sao chép truyền bá. Ta còn chẳng có thể đạt được cội nguồn của nó, huống là các kẻ trí cạn khác. Khi ấy, có vô lương thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ Bồ-Tát thường nghe lời nói ấy, tâm sanh kim sợ, đều thối tâm đối với quả vị giác ngộ cao tột, thì A-Nan nên biết, Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, bị ác nhiễu loạn. Còn nếu Đại Bồ-Tát nào khi nghe kinh bát nhã ba la mật đa sâu xa, nói thế này, bát nhã ba la mật đa như thế rất là sâu xa, khó thấy, khó biết, nếu chẳng tuyên thuyết, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tin cần tu tập, sao chép truyền bá mà có thể chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì chắc chắn không có việc đó. Khi ấy, có vô lượng thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ Bồ-Tát thừa, nghe lời nói ấy, vui mừng nhảy nhót, đều đối với bát nhã ba la mật đa thường ưa lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, vô cùng thông lợi, nhiều lý tư duy, tin cần tu hành, vì người diễn nói, sao chép truyền bá, mau hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, thì A-Nan nên biết, Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, bị ác nhiễu loạn, khó thấy, nếu chẳng tu tập, sao chấp truyền bá mà có thể chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, bát nhã ba la mật đa sâu xa, chẳng bị ác ma nhiễu loạn. Lại nữa, A-Nan, nếu Đại Bồ-Tát ý lại vào thiện trăng công đức của mình, xin thường các Đại Bồ-Tát khác, nói thế này, ta có thể tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã ba la mật đa, còn các ngươi chẳng có thể tu tập. Ta có thể an trụ Pháp không đội, Pháp không ngoại, Pháp không đội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không trốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đội khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh, còn các ngươi chẳng có thể an trụ. Ta có thể an trụ chân như Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, Pháp định, Pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghi, còn các ngươi chẳng có thể an trụ. Ta có thể an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, còn các ngươi chẳng có thể. Ta có thể tu tập bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, còn các ngươi chẳng có thể. Ta có thể tu tập tám giải thoát, tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ, còn các ngươi chẳng có thể. Ta có thể tu tập bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, còn các ngươi chẳng có thể. Ta có thể tu tập Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, còn các ngươi chẳng có thể. Ta có thể tu tập mười địa Bồ Tát, còn các ngươi chẳng có thể. Ta có thể nghiên tịnh cõi Phật, thành thuộc hữu tình, còn các ngươi chẳng có thể. Ta có thể quán mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận nghịch, còn các ngươi chẳng có thể. Ta có thể tu tập năm loại mắt, sáu phép thần thông, còn các ngươi chẳng có thể. Ta có thể tu tập mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại phả, mười tám Pháp Phật bất cộng, còn các ngươi chẳng có thể. Ta có thể tu tập Samatha, Tibaxana, còn các ngươi chẳng có thể. Ta có thể tu tập Pháp không quên mất, đánh luôn luôn xã, còn các ngươi chẳng có thể. Ta có thể tu tập Pháp Môn Đà-La-Ni, Pháp Môn Tam-Ma-Địa, còn các ngươi chẳng có thể. Ta có thể tu tập trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, còn các ngươi chẳng có thể. Ta có thể quan sát tự tướng, cộng tướng của các Pháp, còn các ngươi chẳng có thể. Ta có thể tu tập tất cả hành Đại Bồ-Tát, còn các ngươi chẳng có thể. Ta có thể tu tập quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, còn các ngươi chẳng có thể. Khi ấy, ác ma vui mừng nhảy nhót, nói Bồ-Tát này là bạn lửa luân hồi sanh tử, chưa có khi nào thoát khỏi, thì A-Nan nên biết, Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành bát nhã Ba-La-Mật-đa sâu xa, bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Đại Bồ-Tát chẳng ý lại vào thiện căng công đức của mình mà khinh thường các Đại Bồ-Tát khác, tuy thường tinh tấn tu các Pháp lành nhưng chẳng chấp trước tướng của các Pháp lành, thì A-Nan nên biết, Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành bát nhã Ba-La-Mật-đa sâu xa, chẳng bị ác ma nhiễu loạn. Lại nữa, A-Nan. Này Bồ-Tát! Này làm cho cung điện trong quốc độ của ta chẳng rỗng không mà tăng thêm địa ngục, bàn sanh, quỷ giới, khi ấy ác ma giúp thêm thần lực cho vị ấy, làm cho oai thế biện tại tăng thêm, do đó nhiều người tin nhận lời người ấy, nhân đây khuyên phát khởi ác kiến giống như chúng, đồng với ác kiến của chúng rồi, theo tà học của chúng, theo tà học của chúng rồi, phiền não bừng cháy, tầm ý điên đảo cho nên các nghiệp thân, ngữ, ý phát khởi đều chiêu cảm quả khổ suy tổn khó chịu đựng. Do nhân duyên này, tăng thêm ba đường ác, khiến cung điện quốc độ của ma đầy ấp. Do đó ác ma vui mừng nhảy nhót, có làm việc gì cũng tự do theo ý, thì A-Nan nên biết, Đại Bồ-Tát ấy, khi tu hành bát nhã Ba-La-Mật-đa sâu xa, bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Đại Bồ-Tát chẳng ý lại vào danh tánh hư vọng của mình mà khinh mị các Bồ-Tát tu thiện pháp khác, đối với thông đức không có tăng thượng mạng, chẳng tự khen mình, cũng chẳng chê người khác, có khả năng hiểu biết việc làm của chúng ma, thì A-Nan nên biết, Đại Bồ-Tát ấy, khi tu hành bát nhã Ba-La-Mật-đa sâu xa, chẳng bị ác ma nhiễu loạn. Lại nữa, A-Nan. Nếu Đại Bồ-Tát cùng với người cầu thanh văn, độc giác thừa hủy nhục tranh cãi, phị bán nhau. Khi ấy, ác ma thấy việc này rồi nghĩ thế này, thiện nam tử này xa lì quả vị giác ngộ cao tột, gần gũi với địa ngục, bàn xanh, quỷ giới. Vì sao? Vì hủy nhục tranh cãi, phị bán nhau chẳng phải là đạo bồ đệ, chỉ là con đường của các ác thú là địa ngục, bàn xanh, quỷ giới, nghĩ như vậy rồi, vui mừng nhảy nhóc, thì A-Nan nên biết, Đại Bồ-Tát ấy, khi tu hành bát nhã Ba-La-Mật-đa sâu xa, bị ác ma làm nhiễu loạn. Còn nếu Đại Bồ-Tát cùng với người cầu thanh văn, độc giác thừa, hủy nhục, tranh cãi, phị bán nhau, mà phương tiện nhiếp hóa dẫn giác làm cho hướng về Đại Thừa, hoặc làm cho siêng tu thiện pháp của thừa mình, thì A-Nan nên biết, Đại Bồ-Tát ấy, khi tu hành bát nhã Ba-La-Mật-đa sâu xa, chẳng bị ác ma nhiễu loạn. Lại nữa, A-Nan. Nếu Đại Bồ-Tát nào cùng các thiện nam tử, thiện nữ nhân cầu quả vị giác ngộ cao tổ, hủy nhục, tranh cãi, phị bán nhau, khi ấy, ác ma thấy việc này rồi, nghĩ thế này, hai Bồ-Tát này đều xa lì quả vị giác ngộ cao tổ, cùng gần địa ngục, bàn xanh, quỷ giới. Vì sao? Vì họ hủy nhục, tranh cãi, phị bán nhau, chẳng phải đạo bồ đệ, chỉ là con đường của các ác thú là địa ngục, bàn xanh, quỷ giới, nghĩ như vậy rồi, vui mừng nhảy nhót, thì A-Nan nên biết, Đại Bồ-Tát ấy, khi tu hành bát nhã Ba-La-Mật-đa sâu xa, bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Đại Bồ-Tát nào không cùng với thiện nam tử, thiện nữ nhân cầu quả vị giác ngộ cao tổ hủy nhục, tranh cãi, phị bán nhau, mà nhắc nhũ nhau xuyên tu thiện pháp, để mau chứng đắc trí nhất thiết trí, thì A-Nan nên biết, Đại Bồ-Tát ấy, khi tu hành bát nhã Ba-La-Mật-đa sâu xa, chẳng bị ác ma nhiễu loạn. A-Nan nên biết, nếu Đại Bồ-Tát chưa được thọ ký quả vị giác ngộ cao tổ bất thối chuyển ở chỗ các Bồ-Tát đã được thọ ký quả vị giác ngộ cao tổ bất thối chuyển, khởi tâm tổn hại, tranh cãi, hủy nhục, xinh miệt, phị bán Đại Bồ-Tát ấy, thì tùy theo bao nhiêu tâm niệm chẳng nhiều ít đã khởi, lại bị thối thất chừng ấy kiếp tịnh tu thắng hành, trải qua chừng ấy thời gian xa lì thiện hữu, trở lại chịu chừng ấy sanh tử buộc tràng. Nhưng nếu chẳng xả bỏ tâm Đại Bồ-Đệ, thì trở lại chừng ấy kiếp xiên tu thắng hành, nhiên hậu mới bu vào công đức đã mất. Khi ấy, cụ thọ A-Nan bạch Phật Bạch Thế Tôn Đại Bồ-Tát ấy đã khởi ác tâm chịu tội khổ sanh tử, có cần phải lưu chuyển trải qua hết chừng ấy thời gian, hay là ở khoảng giữa cũng được xuất ly. Đại Bồ-Tát ấy bị thối thất thắng hành, có cần phải tinh cần trải qua chừng ấy kiếp, nhiên hậu mới bu lại hay là ở khoảng giữa có sự phục hoàng như cũ. Phật bảo A-Nan Ta sẽ vì Bồ-Tát, độc giác, thanh văn mà nói có thiện pháp xuất tội và bu lại. A-Nan nên biết, nếu Đại Bồ-Tát chưa được thọ ký quả vị giác ngộ cao tộc bất thối chuyển, mà ở chỗ các Đại Bồ-Tát đã được thọ ký quả vị giác ngộ cao tộc bất thối chuyển, khởi tâm tổn hại, tranh cãi, hủy nhục, sinh miệt, phỉ bán, lại không tàm quý, ông hận chẳng xả, chẳng thường phát lộ hối cãi đúng pháp, thì ta nói hạn người ấy, ở khoảng giữa, không có cơ hội tốt đẹp để xuất tội và bu lại, cần phải chừng A-Kiếp bị lưu chuyển sanh tử, xa lì thiền hữu, các khổ trói buộc, nếu chẳng bỏ tâm đại. Thừa, thì cần phải chừng A-Kiếp xiên tu thắng hành, nhiên hậu mới bu lại công đức đã mất. Còn nếu Đại Bồ-Tát chưa được thọ ký quả vị giác ngộ cao tộc bất thối chuyển, ở chỗ các Bồ-Tát đã được thọ ký quả vị giác ngộ cao tộc bất thối chuyển, khởi tâm tổn hại, tranh cãi, hủy nhục, sinh miệt, phỉ bán, sao sanh xấu hổ, tâm không kết quán, nhanh chóng theo pháp phát lộ cãi hối, nghĩ như thế này, ta này đã được thân người khó được, nhưng tại sao lại khởi tội ác như thế, mất lợi ích lớn? Ta đáng lẽ làm lợi ích cho tất cả hữu tình, nhưng tại sao đối với họ lại làm suy tổn? Ta đáng lẽ cung kính tất cả hữu tình, như người ở phùng sự chủ, nhưng tại sao đối với họ lại sanh kiêu mạng, hủy nhục, sinh miệt? Ta đáng lẽ nhẫn thọ tất cả hữu tình đánh đập mắng nhiết, nhưng tại sao đối với họ lại dùng thân, ngữ bạo ác mà đáp lại? Đáng lẽ ta hòa giải tất cả hữu tình làm cho thương kính nhau, tại sao bỗng dưng ta lại thốt lên lời nói ác cùng họ tranh cãi? Đáng lẽ ta nhẫn thọ sự trà đạp lâu dài của tất cả hữu tình, giống như con đường, cũng giống như cây cầu, nhưng tại sao đối với họ ta lại lăng nhục? Ta cầu quả vị giác ngộ cao tột là vì giải thoát khổ lớn sanh tử của hữu tình, khiến được miết bàn rốt tráo an lạc, thì tại sao lại muốn bồi thêm cái khổ cho họ? Đáng lẽ từ nay cho đến tận cùng đời vị lai ta như si, như căm, như biết, như đuôi, đối với các hữu tình, không có sự phân biệt. Giả sử ta bị chặt đứt đầu, chân, các bộ phận trên thân, thì đối với các hữu tình kia, không bao giờ khởi lên niềm ác, nhưng bỗng nhiên ta khởi lên niềm ác, phá hoại tâm giác ngộ cao tột, chứng ngại cho việc cầu trí nhất thiết trí, thì Anang nên biết, đại Bồ Tát ấy, ta nói khoảng thời gian giữa cũng có cơ hội tốt để xuất tột và bu lại, chẳng cần phải trải quá trình ấy số kiếp lưu chuyển sanh tử. Ác ma đối với vị ấy chẳng có thể nhiễu loạn. Anang nên biết, các đại Bồ Tát cùng với người cầu thanh văn, độc giác thừa chẳng nên giao thiệt, chẳng nên ở chung, chẳng nên cùng họ luận bàn, chọn lựa. Vì sao? Vì nếu cùng họ luận bàn chọn lựa thì hoặc sẽ phát khởi tâm sân giận, tức tối, hoặc lại phát sanh lời nói thô ác, các Bồ Tát đối với loại hữu tình chẳng nên phát khởi tâm sân giận v.v., cũng chẳng nên phát ra lời nói thô ác. Dù bị chặt đầu, chân, các bộ phận trên thân cũng chẳng nên khởi lên lời nói thô ác. Vì sao? Nên nghĩ thế này, ta cầu quả vị giác ngộ cao tột, vị cứu bạc các khổ sanh tử của hữu tình, làm cho họ được trốt tráo lợi ích an lạc, thì tại sao đối với họ ta lại khởi việc ác? Anàng nên biết, nếu Bồ Tát đối với loại hữu tình khởi tâm sân giận, phát ra lời nói thô ác thì chứng ngại trí nhất thiết trí của Bồ Tát, cũng phá hoại vô biên pháp hành thù thắng. Vì vậy, chúng đại Bồ Tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì đối với các hữu tình chẳng nên sân giận, cũng chẳng nên phát ra lời nói thô ác. Vì vậy, chúng đại Bồ Tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì đối với các hữu tình chẳng nên sân giận, cũng chẳng nên phát ra lời nói thô ác.

Listen Next

Other Creators