black friday sale

Big christmas sale

Premium Access 35% OFF

Home Page
cover of kinhdaibatnha (332)
kinhdaibatnha (332)

kinhdaibatnha (332)

Phuc Tien

0 followers

00:00-42:19

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech

Audio hosting, extended storage and much more

AI Mastering

Transcription

The text is about the practice of the Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, a deep meditation technique. The practitioner should strive to be close to the Three Realms, abide in the Three Realms, and cultivate the Three Realms, but should not seek realization through them. The text also mentions the importance of cultivating various virtues and practices, such as the Four Immeasurable Minds, the Four Noble Truths, and the Eightfold Path. The goal is to attain the highest level of enlightenment. However, the text emphasizes that the Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa practice alone is not enough to achieve this, and practitioners should also cultivate other virtues and practices. The text compares the practice of the Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa to shooting arrows, where each arrow builds upon the previous one, leading to the ultimate realization. The text concludes by stating that the Bồ Tát practitioner should not abandon sentient beings and Kinh Đại Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa Tập 14, Quyển 332, LII Phẩm Khéo Học 02 Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát ấy tu hành sâu xa Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, nên tập gần Tam-ma-địa không, nên an trụ Tam-ma-địa không, nên tu hành Tam-ma-địa không nhưng đối với thực tế chẳng nên chứng đắc. Nên tập gần Tam-ma-địa vô tướng, vô nguyện, nên an trụ Tam-ma-địa vô tướng, vô nguyện, nên tu hành Tam-ma-địa vô tướng, vô nguyện nhưng đối với thực tế chẳng nên chứng đắc. Nên tập gần 4 niệm trụ, nên an trụ 4 niệm trụ, nên tu hành 4 niệm trụ, nhưng đối với thực tế chẳng nên chứng đắc, nên tập gần 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, nên an trụ 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo, nên tu hành 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo, nhưng đối với thực tế chẳng nên chứng đắc. Như vậy cho đến nên tập gần 10 lực Phật, nên hướng đến 10 lực Phật, nên tu hành 10 lực Phật, nhưng đối với thực tế chẳng nên chứng đắc. Nên tập gần 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 Pháp Phật bất cộng, nên hướng đến 4 điều không sợ cho đến 18 Pháp Phật bất cộng, nên tu hành 4 điều không sợ cho đến 18 Pháp Phật bất cộng, nhưng đối với thực tế chẳng nên chứng đắc. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy tuy tập gần Tam-ma-địa không, an trụ Tam-ma-địa không, tu hành Tam-ma-địa không, nhưng chẳng chứng quả dữ lưu, cũng chẳng chứng quả nhất lai, bất hoàng, à-la-hán, cũng lại chẳng chứng quả vị độc giác. Tuy tập gần Tam-ma-địa vô tướng, vô nguyện, an trụ Tam-ma-địa vô tướng, vô nguyện, tu hành Tam-ma-địa vô tướng, vô nguyện, nhưng chẳng chứng quả dữ lưu, cũng chẳng chứng quả nhất lai, bất hoàng, à-la-hán, cũng lại chẳng chứng quả vị độc giác. Tuy tập gần 4 niệm trụ, an trụ 4 niệm trụ, tu hành 4 niệm trụ, nhưng chẳng chứng quả dữ lưu, cũng chẳng chứng quả nhất lai, bất hoàng, à-la-hán, cũng lại chẳng chứng quả vị độc giác. Tuy tập gần 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, an trụ 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo, tu hành 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo, nhưng chẳng chứng quả dữ lưu, cũng chẳng chứng quả nhất lai, bất hoàng, à-la-hán, cũng lại chẳng chứng quả vị độc giác. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy, do nhân duyên này, chẳng rơi vào địa vị thanh văn và độc giác, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Này thiện hiện! Thí như vị tráng sĩ, oai dũng mạnh mẽ, tướng mạo đoan nhiên, người thấy hoan hỷ, đầy đủ quyến thuộc, rất thanh tịnh viên mãng, đối với các binh pháp, học đến chỗ rốt cáo, khéo cầm khí trường, vững chắc bất động, 64 tài năng, 18 loại kinh thư, tất cả kỹ thuật đều lầu thông, mọi người nhìn vào thấy đều kính phục, vì việc làm khéo léo nên công ít mà lợi nhiều. Do đó mà mọi người cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Bây giờ, người ấy càng thêm vui mừng, phấn khởi tự bằng lòng với mình. Vì có duyên sự, người ấy dẫn đưa người già yếu và thân quyến đi đến địa phương khác, giữa đường ngang qua cánh đồng hoang vắng đầy hiểm nạn, nơi ấy có nhiều ác thú, giặc cước, oan gia, tìm phục các việc khiếp sợ. Thân quyến lớn nhỏ đều sợ hại kinh hoàng. Người ấy tự trông cậy vào sức mạnh quy mạnh của mình, có nhiều kỹ thuật nên thân ý thư thái, an ủi cha mẹ cùng thân quyến chớ lo sợ, sẽ làm cho hết khổ. Khi ấy, người ấy dùng xảo thuật khéo léo, đưa các thân quyến đến chỗ an ổn. Đã thoát nạn hiểm rồi, mừng vui thọ lạc, nhưng vì tráng sĩ ấy, ở nơi chống đồng hoang, ác thú oán tặc không có ý làm hại. Vì sao? Vì tự trông cậy vào sức mạnh, đủ các kỹ thuật không hề sợ sệt. Các Đại Bồ-Tát cũng lại như thế, vì thương yêu các hữu tình bị khổ sanh tử, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, duyên khắp hữu tình, khởi bốn vô lượng, an trụ tâm câu hành với bốn vô lượng, tinh cần tu tập bố thí, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lựu, bác nhã-ba-la-mật-đa, khiến mau viên mãn. Đại Bồ-Tát ấy đối với sáu phép ba-la-mật-đa này, ở vị chưa viên mãn, vì muốn tu học trí nhất thiết trí, nên chẳng chứng lậu tầng. Tuy an trụ pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, nhưng chẳng theo thế lực của pháp môn ấy, cũng chẳng bị dẫn dắt theo sự chứng ngại ấy, đối với pháp môn giải thoát cũng chẳng chứng đắc. Vì chẳng chứng nên chẳng rơi vào địa vị thanh văn và độc giác, chắc chắn hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Này thiện hiện! Như con chim có đôi tránh khỏe bay trên hư không, tự tại bay lượng đùa giỡn, chẳng rơi xuống đất. Tuy nương hư không đùa giỡn nhưng chẳng chiến cứu hư không, cũng chẳng bị hư không ngăn ngại. Này thiện hiện! Nên biết, các đại Bồ Tát cũng lại như vậy, tùy đối với pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện luôn luôn tập gần, an trụ, tu hành nhưng chẳng chứng đắc, do chẳng chứng đắc nên chẳng rơi vào địa vị thanh văn và độc giác. Tô mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết ký, nếu chưa viên mãn thì chẳng bao giờ nương ba pháp tama địa không, vô tướng, vô nguyện mà chứng lậu tận. Này thiện hiện! Thí như người khỏe mạnh thông thạo nghệ thuật bắn cung, muốn biểu diễn tài nghệ của mình, ngứt bắn lên hư không, vì muốn mũi tên ở trên không, không rơi xuống đất, nên dùng mũi tên sau bắn mũi tên trước. Cứ như vậy, lần lượt trải qua nhiều thời gian, mũi tên này nối đuôi mũi tên kia chẳng cho rơi xuống, nếu muốn cho rơi xuống thì dừng mũi tên sau, khi ấy, các tên liền rơi xuống đất. Này thiện hiện! Nên biết, các Đại Bồ-Tát cũng giống như thế, vì tu hành sâu sắc Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, dùng phương tiện thiện xảo nhất họ, cho đến quả vị giác ngộ cao tột, nhưng tu hành căng lành chưa thành thuộc, nên chẳng bao giờ nửa chừng mà chứng thật tế. Nếu muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì nhân tu hành căng lành, tất cả đều thành thuộc, bây giờ Bồ-Tát mới chứng thật tế, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này thiện hiện! Các Đại Bồ-Tát tu hành sâu sắc Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, đều nên quán khét kỹ lưỡng về thật tướng của các Pháp như trước đã nói. Bây giờ, cụ thọ thiện hiện Bạch Phật, Bạch Thế Tôn. Các Đại Bồ-Tát thường làm việc khó làm, tuy học các Pháp chân như Pháp Giới, Pháp Tánh, Tánh Chẳng Hư Vọng, Tánh Chẳng Đội Khác, Tánh Bình Đẳng, Tánh Ly Xanh, Pháp Định, Pháp Trụ, Thật Tế, Cảnh Giới Hư Không, Cảnh Giới Bất Tương Nghị, tuy học các Pháp Sông Nội, Sông Ngoại, Sông Nội Ngoại, Sông Sông, Sông Lớn, Sông Thắng Nghĩa, Sông Hữu Vi, Sông Vô Vi, Sông Rốt Tráo, Sông Sông Biên Giới, Sông Tạng Mạng, Sông Đội Khác, Sông Bổng Tánh, Sông Tự Tướng, Sông Tổng Tướng, Sông Tất Cả Pháp. Không chẳng thể nắm bắt được, không không Tánh, không Tự Tánh, không không Tánh Tự Tánh, tuy học Thánh Đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo, tuy học 4 Niệm Trụ, 4 Chánh Đoạn, 4 Thần Túc, 5 Căng, 5 Lực, 7 Chi Đẳng Giác, 8 Chi Thánh Đạo, tuy học Pháp Môn Giải Thoát Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, nhìn nửa chừng chẳng rơi vào địa vị thanh văn và độc giác, thối thất quả vị giác ngộ cao tột. Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Đại Bồ Tát ấy rất là hiếm có. Phật dạy, này thiện hiện, vì các Đại Bồ Tát ấy đối với các hữu tình, Thầy chẳng rời bỏ. Họ nguyện, nếu các hữu tình chưa được giải thoát, thì ta quyết chẳng bỏ gia hành đã khởi. Này thiện hiện, nguyện lực của các Đại Bồ Tát Thù Thắng, thường nghĩ, tất cả hữu tình nếu chưa giải thoát, thì ta quyết chẳng bỏ họ. Do Pháp khởi tâm trọng lớn như thế, nên nửa chừng quyết chẳng thối lui. Này thiện hiện, các Đại Bồ Tát thường nghĩ thế này, ta chẳng nên bỏ tất cả hữu tình, quyết khiến họ giải thoát. Nhưng các hữu tình làm việc bất chánh, ta vì độ họ nên luôn chỉ dẫn Pháp môn giải thoát tịch tịnh là không, vô tướng, vô nguyện. Tuy luôn luôn chỉ dẫn mà chẳng thủ chứng. Này thiện hiện, Đại Bồ Tát ấy vì thành tựu sức phương tiện thiện xảo, nên tuy luôn luôn hiện khởi ba Pháp môn giải thoát, nhưng nửa chừng chẳng chứng thật tế, cho đến chưa chứng đắc trí nhất thiết trí, cần phải chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột thì mới thủ chứng. Lại nữa, thiện hiện, các Đại Bồ Tát thường ưu quan ghép chỗ sâu xa, đó là ưu quan sát Pháp không nội, Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không trốt cháo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không nội khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh. Tự tánh, cũng ưu quan sát 4 niệm trụ, 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo và Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện V, V, đều là tự tánh không. Này Thiên Hiện! Đại Bồ Tát ấy quan sát như vậy rồi, sanh khởi ý nghĩa thế này, các loại hữu tình do sức của bạn ác, ở trong đêm dài khởi tưởng chấp ngã, tưởng chấp hữu tình, tưởng chấp dòng sanh mạng, tưởng chấp khả năng sanh khởi, tưởng chấp sự dưỡng dục, tưởng chấp sự trưởng thành, tưởng chấp chủ thể luân hồi, tưởng chấp ý sanh, tưởng chấp nho đồng, tưởng chấp khả năng làm việc, tưởng chấp khả năng thọ quả báo, tưởng chấp cái biết, tưởng chấp cái thấy. Do tưởng chấp này mà việc làm có sở đắc luân hồi sanh tử, chịu đủ các khổ. Vì dứt trừ các tưởng chấp như thế của hữu tình nên ta hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, vì các hữu tình mà nói Pháp sâu xa mau nhiệm, khiến đoạn tưởng chấp, liệt khổ sanh tử. Này Thiên Hiện! Đại Bồ Tát ấy, bây giờ, tuy tu tập Pháp môn giải thoát không, nhưng chẳng nương vào Pháp này mà chứng thật tế, tuy tu tập Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nhưng chẳng nương vào đó mà chứng thật tế, vì đối với thật tế chẳng thủ chứng, nên chẳng rơi vào quả dự lưu, nhất là, bất hoàng, à la hán, cũng lại chẳng rơi vào quả vị độc giác. Này Thiên Hiện! Đại Bồ Tát ấy do nghĩ như thế, nên tu hành sâu sắc bác ngạ ba la mật đa thành tựu căng lành, chẳng chứng thật tế, tuy đối với thật tế chưa chứng đắc ngay, nhưng chẳng từ bỏ bốn tình lự, cũng chẳng từ bỏ bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng chẳng từ bỏ bốn niệm trụ, cũng chẳng từ bỏ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, cũng chẳng từ bỏ tám giải thoát, cũng chẳng từ bỏ tám tháng sướng, chính định thứ đệ, mười biến xứ, cũng chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát, không, cũng chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, cũng chẳng từ bỏ pháp không nội, cũng chẳng từ bỏ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không trốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đội khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng chẳng từ bỏ chơn. Nhưng, cũng chẳng từ bỏ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tiêu nghị, cũng chẳng từ bỏ thánh đế khổ, cũng chẳng từ bỏ thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chẳng từ bỏ bố thí ba-la-mật-đa, cũng chẳng từ bỏ tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã ba-la-mật-đa, cũng chẳng từ bỏ năm loại mắt, cũng chẳng từ bỏ sáu phép cũng chẳng từ bỏ tất cả pháp môn-đa-la-ni, cũng chẳng từ bỏ tất cả pháp môn-ta-ma-địa, cũng chẳng từ bỏ mười lực phật, cũng chẳng từ bỏ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp phật bất cộng, cũng chẳng từ bỏ đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, cũng chẳng từ bỏ pháp không quên mất, cũng chẳng từ bỏ tánh luôn luôn xã, cũng chẳng từ bỏ trí nhất thiết, cũng chẳng từ bỏ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy, bấy giờ, thành tựu tất cả pháp phần bồ đệ, cho đến chính đắc quả vị giác ngộ cao tột, đối với các công đức chẳng hề suy giảm Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy tu hành sâu sắc bát nhã ba-la-mật-đa vì dùng phương tiện thiện xảo nhiếp họ, cho nên trông tưởng sát na, bạch pháp tăng trưởng, các căng lanh lợi, vượt qua tất cả thanh văn, độc giác Lại nữa, thiện hiện! Hoặc Đại Bồ-Tát thường nghĩ thế này, các loại hữu tình ở trong đêm dài, tâm họ thường bị bốn món đảo làm điên đảo, đó là thường, tâm điên đảo, kiến điên đảo, hoặc tưởng điên đảo lạc, tâm điên đảo, kiến điên đảo, hoặc tưởng điên đảo ngã, tâm điên đảo, kiến điên đảo, hoặc tưởng điên đảo tình, tâm điên đảo, kiến điên đảo, tưởng điên đảo Ta vì các hữu tình như vậy, nên hướng đến quả vị giác ngộ, tu các hành Đại Bồ-Tát. Khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, vì các hữu tình nói pháp không điên đảo, nói sanh tử là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tình, chỉ có nuyết bàn là tịch tịnh vi diệu, đầy đủ các loại công đức chân thật thường, lạc, ngã, tình. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy thành tự niệm này, tu hành sâu sắc Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Vì dùng phương tiện thiện xảo nhiếp thọ, nên đối mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất động, nếu chưa viên mãn thì chẳng bao giờ nhập thắng định của Như Lai. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy, bấy giờ, tuy tu tập pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện nhập sức tự tại, nhưng đối với thật tế, chưa chính đắc ngay, cho đến quả vị giác ngộ cao tột, vì công đức tu hành chưa hoàn toàn viên mãn, nên chẳng chính đắc thật tế và các công đức khác, khi cầu chính đắc quả vị giác ngộ cao tột mới chính đắc. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy, bấy giờ, tuy đối với các công đức khác, tu chưa viên mãn, nhưng đối với pháp môn Tam-ma-địa vô nguyện, tu đã viên mãn. Lại nữa, thiện hiện! Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy, bấy giờ, tuy đối với các công đức khác, tu đã viên mãn, nhưng đối với pháp môn Tam-ma-địa vô nguyện, tu đã viên mãn. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy, bấy giờ, tu chưa viên mãn, nhưng đối với pháp môn Tam-ma-địa vô nguyện, tu đã viên mãn. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy, bấy giờ, tu chưa viên mãn, nhưng đối với pháp môn Tam-ma-địa vô nguyện, tu đã viên mãn. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy thành tựu tâm niệm này, tu hành sâu sắc bát nhã Ba-la-mật-đa, vì dùng phương tiện thiện xảo nhiết thọ nên đối với mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng nếu chưa viên mãn thì chẳng chứng thực tế. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy, bấy giờ, tùy đối với pháp môn Tam-ma-địa vô tướng, vô nguyện, chẳng phải chẳng tu tập nhưng chỉ đối với pháp môn Tam-ma-địa không, tu đã viên mãn. Lại nữa, thiện hiện! Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy thành tựu tâm niệm này, tu hành sâu sắc bát nhã Ba-la-mật-đa, vì dùng phương tiện thiện xảo nhiết thọ nên đối với mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng nếu chưa viên mãn thì chẳng chứng thực tế. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy, bấy giờ, tuy đối với pháp môn Tam-ma-địa không, vô nguyện, chẳng phải chẳng tu tập nhưng đối với pháp môn Tam-ma-địa vô tướng, tu đã viên mãn. Lại nữa, thiện hiện! Pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, đã an trụ hoàn hảo chân như pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhị, đã an trụ hoàn hảo thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, đã tu học hoàn hảo bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần trúc, năm căng, năm lực, bất tương nhị, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, đã tu tập hoàn hảo pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, đã tu học hoàn hảo cho đến 10 lực Phật, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp Phật bất cộng và vô lượng, vô biên Phật Pháp khác. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy thành tựu công đức trí tuệ như thế, nếu đối với sanh tự phát khởi ý tưởng ưa thích, hoặc nói là ưa thích, hoặc đối với ba cõi, chấp trước an trụ thì không có việc đó. Này thiện hiện! Nếu Đại Bồ Tát đã tu học hoàn hảo pháp bồ đề phần, thì tất cả như Lai ứng chánh đẳng giác và các chúng Đại Bồ Tát đáng lẽ nên hỏi thử, nếu Đại Bồ Tát muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, làm thế nào tu học pháp bồ đề phần mà chẳng chứng không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tác, vô vi, vô tánh, thật tế. Do chẳng chứng nên chẳng rơi vào quả dự lưu, nhất Lai, bất hoàng, A-la-háng, quả vị độc giác mà xuyên năng tu bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thường không chấp trước. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy khi được hỏi câu này, nếu trả lời thế này, các Đại Bồ Tát muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, chỉ nên tư duy không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tác, vô vi, vô tánh, thật tế, tất cả pháp bồ đề phần khác, chẳng nên tu học, thì này thiện hiện! Nên biết, Đại Bồ Tát ấy chưa được như Lai ứng chánh đẳng giác họ ký quả vị giác ngộ cao tột bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì Đại Bồ Tát ấy chưa có thể khai thì ký điệt, và biểu lộ rõ là Đại Bồ Tát trụ ở địa vị bất thối chuyển tu học pháp tướng. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy khi được hỏi câu này, nếu trả lời là các Đại Bồ Tát muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột nên tư duy đúng đắn không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tác, vô vi, vô tánh, thật tế và tất cả pháp bồ đề phần khác, cũng nên phương tiện thiện xảo như trước đã nói mà tu học nhưng chẳng chứng đắc thì này thiện hiện! Nên biết, Đại Bồ Tát ấy đã được như lai ứng chánh đẳng giác thò ký quả vị giác ngộ cao tột bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì Đại Bồ Tát ấy đã có khả năng khai thì ký điệt, biểu lộ rõ là Đại Bồ Tát trụ ở địa vị bất thối chuyển tu học pháp tướng. Này thiện hiện! Nếu Đại Bồ Tát chưa có khả năng khai thì ký điệt biểu lộ rõ là Đại Bồ Tát trụ địa vị bất thối chuyển tu học pháp tướng, thì nên biết Đại Bồ Tát ấy chưa tu học hoàn hảo bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã-ba-la-mật-đa, pháp bồ đề phần, chưa nhập địa vị bạc, chưa giống như các Đại Bồ Tát trụ địa vị bất thối chuyển khác, khai thì ký điệt, biểu lộ rõ là an trụ địa vị bất thối chuyển. Này thiện hiện! Nếu Đại Bồ Tát có khả năng khai thì ký điệt biểu lộ rõ là Đại Bồ Tát trụ ở địa vị bất thối chuyển tu học pháp tướng, thì nên biết Đại Bồ Tát ấy đã tu học hoàn hảo bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã-ba-la-mật-đa, pháp bồ đề phần, đã nhập địa vị bạc, đã giống như các Đại Bồ Tát trụ địa vị bất thối chuyển khác, khai thì ký điệt, biểu lộ rõ là đã an trụ địa vị bất thối chuyển. Khi ấy cụ thọ thiện hiện bạch Phật, bạch Thế Tôn, có vị nào chưa đắc Đại Bồ Tát bất thối chuyển mà có khả năng trả lời đúng như thật như thế chăng? Phật dạy, này thiện hiện! Có Đại Bồ Tát tuy chưa đắc bất thối chuyển nhưng có khả năng đối với câu hỏi này trả lời đúng như thật. Này thiện hiện! Đó là Đại Bồ Tát ấy tuy chưa đắc bất thối chuyển nhưng thường tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã-ba-la-mật-đa, pháp bồ đề phần, đã đắc tuệ giác thành thục sát bén, hoặc nghe hoặc chẳng nghe có khả năng trả lời đúng như thật như Đại Bồ Tát ở địa vị bất thối chuyển. Cụ thọ thiện hiện lại bạch Phật, bạch Thế Tôn. Có nhiều Đại Bồ Tát tu hành quả vì giác ngộ cao tột, có số ít có khả năng trả lời đúng như thật như Đại Bồ Tát ở địa vị bất thối chuyển vì đã tu hoàn hảo bật trị, hay chưa tu hoàn hảo bật trị mà an trụ. Phật dạy, này thiện hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Vì sao? Này thiện hiện! Vì có số ít Đại Bồ Tát được thọ ký trí tuệ vi diệu ở địa vị bất thối chuyển như thế. Nếu có vị nào được thọ ký như thế thì đều có khả năng đối với câu hỏi này trả lời đúng như thật. Này thiện hiện! Nếu vị nào có khả năng trả lời đúng như thật thì nên biết Đại Bồ Tát ấy căng lạnh lanh lợi, thiên, nhân, à tố lạc v.v. trong thế gian chẳng thể phá hoại được. Lại nữa, thiện hiện! Nếu Đại Bồ Tát ngay trong mồng cũng chẳng ưa thích khen ngợi địa vị thanh văn và độc giác, đối với Pháp tàm giới cũng chẳng để tâm ưa thích khen ngợi, thường quán các Pháp như mồng, như huyển, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò ảo thuật, như ảo thành. Vì quán sát như vậy nhưng chẳng chứng thật tế thì này thiện hiện! Nên biết, đó là tướng bất thối chuyển của Đại Bồ Tát. Lại nữa, thiện hiện! Nếu Đại Bồ Tát mộng thấy như lai ứng chánh đẳng giác đầy đủ 32 tướng đại trường phu và 80 vẻ đẹp phụ thuộc viên mãn trang nghiêm, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, h quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào quán, hào Hoặc ta từ lâu phát ý thanh tịnh cầu chứng quả vị giác ngộ cao tột xa lìa ý thích thanh văn, độc giác, chẳng dùng tác ý thanh văn, độc giác mà cầu chứng quả vị giác ngộ cao tột. Hoặc tương lai, ta sẽ chắc chắn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, tận cùng đời vị lai, lợi ích an lạc cho các loài hữu tình. Hoặc vô lượng như lai ứng chánh đẳng giác hiện tại thật có trong khắp mười phương thế giới, thuyết pháp nghiệp màu, lợi lạc hữu tình, chứ như lai ứng chánh đẳng giác kia, không có gì mà chẳng thấy, không có gì mà chẳng biết, không có gì mà chẳng hiểu, không có gì mà chẳng chứng, hiện biết, thấy hiểu ý muốn sai biệt của tất cả loài hữu tình, nguyện xót thương chiếu dám tâm niệm và lời chân thành của con. Nếu con có khả năng tu hành Bồ Tát thì quyết chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, cứu vớt nỗi khổ sanh tử của hữu tình. Nguyện cho nam tử ấy, hoặc nữ nhân này chẳng bị loài phi nhân quấy nhiễu, loài phi nhân ấy theo lời công bảo liền bỏ đi. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy, khi nói lời này, nếu loài phi nhân kia chẳng bỏ đi thì nên biết Đại Bồ Tát ấy chưa từng được như lai ứng chánh đẳng giác họ ký quả vị giác ngộ cao tột bất thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy, khi nói lời này, nếu loài phi nhân kia tức thời bỏ đi thì nên biết Đại Bồ Tát ấy đã được như lai ứng chánh đẳng giác họ ký quả vị giác ngộ cao tột bất thối chuyển. Này thiện hiện! Nếu Đại Bồ Tát thành tựu các hành, trạng, tướng như thế thì nên biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện! Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh, chưa an trụ hoàn hảo chân nhân, chưa an trụ hoàn hảo Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, Pháp định, Pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghi, chưa an trụ hoàn hảo thánh đế khổ, chưa an trụ hoàn hảo thánh đế tập, diệt, đạo. Chưa tu học hoàn hảo bốn niệm trụ, chưa tu học hoàn hảo bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chưa tu học hoàn hảo bốn tỉnh lự, chưa tu học hoàn hảo bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chưa tu học hoàn hảo tám giải thoát, chưa tu học hoàn hảo tám tháng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng, chưa tu học hoàn hảo Pháp môn giải thoát không, chưa tu học hoàn hảo Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chưa tu học hoàn hảo bốn tránh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bốn định vô sắc, chưa tu học hoàn hảo Pháp môn Đà-la-Ni, chưa tu học hoàn hảo Pháp môn Tam-ma-địa, chưa nhập tránh tánh ly xanh của Bồ-Tát, chưa tu tập đầy đủ tất cả Phật Pháp, xa liệt phương tiện quyền xảo của Bồ-Tát, chưa thoát khỏi sự não loạn của ác ma, đối với các ma sự chưa có thể hiểu hết, chẳng tự đo lường thiện căng dày mỏng, học nói lời chân thật của các Bồ-Tát, liền bị ác ma dối hoặc nầy thiện hiện, đại Bồ-Tát ấy thấy có nam tử hoặc có nữ nhân đang bị phi nhân dự nhập, liền phát lời thành thật, nếu ta đã từ chiêu Phật quá khứ được thọ ký quả vị giác ngộ cao tộc bất thối chuyển, thì khiến cho nam tử hoặc nữ nhân ấy chẳng bị phi nhân nhũ loạn, phi nhân ấy theo lời ta hãy mau bỏ đi, này thiện hiện, đại Bồ-Tát ấy nói như thế rồi, khi ấy vì ác ma làm hoạt loạn, nên liền đuổi được phi nhân bỏ đi, vì sao, này thiện hiện, vì ác ma bai lực hơn phi nhân kia, cho nên phi nhân nghe lời ác ma liền bỏ đi, này thiện hiện, đại Bồ-Tát ấy thấy sự việc ấy rồi, vui mừng nhảy nhóc, nghĩ thế này, phi nhân này bỏ đi là do oai lực của ta, vì sao, vì phi nhân theo sự phát nguyện của ta liền xả bỏ nam tử nữ nhân này, chứ không có lý do nào khác, này thiện hiện, đại Bồ-Tát ấy chẳng có thể biết đó là việc làm của ác ma, mà cho lại do sức mình, vọng sanh hoan hỷ, ý vào việc này mà xem thường các Bồ-Tát khác, nói ta đã từ chư Phật trong quá khứ được thọ ký quả vị giác ngộ cao tộc bất thối chuyển, những điều đã phát nguyện đều không hư dối, các người chưa được chư Phật thọ ký, chẳng nên học Pháp lời thành thật tương ưng, dù cho tha thiết mong cầu chắc chắn là trỏng không, không có kết quả, này thiện hiện, đại Bồ-Tát ấy vì xem thường chơi bay các Bồ-Tát khác nên vọng ý vào chút ít công năng, vì đối với các công đức sanh trưởng nhiều thứ tăng thường mạng nên xa lị quả vị giác ngộ cao tộc, chẳng có thể chứng đắc trí nhất thiết trí, này thiện hiện, đại Bồ-Tát ấy vì không có sức phương tiện thiện xảo, vì sanh trưởng nhiều thứ tăng thường mạng, vì khinh miệt chơi bay các Bồ-Tát khác nên tuy siêng năng tinh tấn nhưng bị rơi vào địa vị thanh văn hoặc độc giác, này thiện hiện, đại Bồ-Tát ấy vì Phước Đức cạn mỏng nên thiện nhiệt đã làm, phát lời thành thật đều khởi ma sự, này thiện hiện, đại Bồ-Tát ấy chẳng thường thân trận cúng dường, cung chính, tôn trọng ngợi khen các thiện tri thức, chẳng có thể thỉnh vấn hành tướng Bồ-Tát đắc bất thối chuyển, chẳng có thể thăm hỏi nhận lãnh sự nhiệt đã tạo tác của quân ác ma, do sự trói bụt của ma này nên càng trở nên kiên cố. Vì sao? này thiện hiện, đại Bồ-Tát ấy vì tu hành bố thí, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã ba la mật đa chẳng bao lâu cho đến xa liều phương tiện quyền xảo cho nên bị ác ma nhiễu loạn. Vì vậy, này thiện hiện, các đại Bồ-Tát nên hiểu biết hoàn toàn các loại ma sự. Bây giờ, cụ thọ thiện hiện liền bạch Phật, bạch Thế Tôn. Tại sao đại Bồ-Tát tu hành bố thí, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã ba la mật đa chẳng bao lâu? An trụ Pháp không nội, Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không rốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đội khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh chẳng bao lâu. An trụ chân như Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, Pháp định, Pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhị chẳng bao lâu, an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo chẳng bao lâu. Tu hành 4 niệm trụ, 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căn, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo chẳng bao lâu, tu hành 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sách chẳng bao lâu, tu hành 8 giải thoát, 8 thắng sướng, 9 định thứ đệ, 10 biến sứ chẳng bao lâu, tu hành Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện chẳng bao lâu, tu hành Pháp môn Đà La Nhi, Pháp môn Tamma Địa chẳng bao lâu, chưa nhập chánh tánh ly xanh của Bồ Tát, chưa tu hành đầy đủ tất cả Phật Pháp, xa lì Tiện thiền xảo của Bồ Tát nên bị các ác ma nhiễu loạn. Phật dạy, này thiện hiện. Ác ma biến làm đủ các loại hình tượng, đến trước đại Bồ Tát này, tìm cách nói dối, này thiện nam tử. Ngươi có tự biết chăng? Chiêu Phật quá khứ đã từng thọ ký quả vị Đại Giác Ngộ cho ngươi, ngươi đối với quả vị Giác Ngộ quyết định sẽ chứng đắc, chẳng bị thối chuyển, ngươi tên như thế, cha mẹ tên như thế, anh em tên như thế, chị em tên như thế, bằng hữu quyến thuộc cho đến 7 đời cha mẹ, dòng họ đều có tên như thế. Thân ngươi sanh vào phương đó, cõi nước đó, thành đó, ốc đó, xóm làng đó, ngươi sanh vào năm đó, tháng đó, ngày đó, giờ đó, vào đời vua đó. Này thiện hiện! Ác ma ấy, nếu thấy tâm hành của Bồ Tát này yếu đuối, căng tánh chậm lục, bẹn nói dối, đời trước tâm hành của ngươi cũng yếu đuối, căng tánh chậm lục. Ác ma ấy, nếu thấy tâm hành Bồ Tát này canh cường, căng tánh lanh lợi, bẹn nói dối, đời trước tâm hành của ngươi cũng canh cường, căng tánh lanh lợi. Ác ma ấy, nếu thấy Bồ Tát này ở chống thanh vắng, hoặc ở bãi tha ma, hoặc ở chỗ trống, hoặc dưới bóng cây, hoặc thường khất thực, hoặc ăn một bữa, hoặc ngồi ăn một chỗ, hoặc ăn một bát, hoặc mặc y chằm vá, hoặc chỉ có ba y, hoặc thường ngồi không nằm, hoặc trải quạ cụ cũ, hoặc ít ham muốn, hoặc ư đủ, hoặc ư xa liệt, hoặc đầy đủ chánh niệm, hoặc ư định tĩnh, hoặc đủ dịu tuệ, hoặc chẳng coi trọng lợi dưỡng, hoặc chẳng quý trụng danh dự, hoặc thích liên khiết tiết kiệm, chẳng thoa giàu chân, hoặc ít ngủ nghỉ, hoặc chẳng trào cử, hoặc thích ít nói, hoặc ư lời nhu hòa thì ác ma ấy nói, ở đời trước, ngươi đã từng ở chỗ thanh vắng như thế, hoặc ở bãi tha ma V. V. Như đã nói ở trên, cho đến ít nói, ư lời nhu hòa. Vì sao? Vì này ngươi thành tựu các thứ công đức đầu đại như thế, thế gian đều thấy. Nhất định đời trước ngươi cũng có các loại công đức thù thắng như thế. Nên tự vui mừng đi, chớ tự coi thường mình. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy nghe ác ma này nói đời trước và đời sau của mình có công đức thù thắng và nói danh tự sai biệt của mình, của bà con ở hiện tại, cùng nơi sanh, lúc sanh, và khen nợi công đức đầu đạc, nghe thông hoan hỷ, tầm sanh kiêu mạng, khinh miệt chê bai các Bồ Tát khác. Này thiện hiện! Bây giờ, ác ma biết tâm địa của Bồ Tát này ám đồn, lại bảo, ngươi có công đức tướng trạng như thế, như lai ứng chánh đẳng giác quá khứ nhất định đã thọ ký quả vị đại giác ngộ cho ngươi, đối với quả vị giác ngộ cao tột, chắc chắn ngươi sẽ chứng đắc, chẳng bị thối chuyển. Này thiện hiện! Từ lâu đã thọ ký quả vị đại giác ngộ cho ngươi, đối với quả vị giác ngộ cao tột quyết định ngươi sẽ chứng đắc, chẳng còn thối chuyển. Vì sao? Vì các tướng trạng công đức của Đại Bồ Tát ở địa vị bất thối chuyển ngươi đều có đủ, nên tự tôn trọng, chở sanh do dự. Này thiện hiện! Như ta đã thuyết là Đại Bồ Tát thật đắc hành, chẳng tướng của Đại Bồ Tát bất thối chuyển mà còn ông lòng tăng thượng mạng thì quả thật chẳng có. Này thiện hiện! Nên biết, Đại Bồ Tát ấy đã bị ma nắm giữ, bị ma ám nhập. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát ấy đối với các hành, trạng, tướng của Đại Bồ Tát được bất thối chuyển, thật sự chưa có, chỉ nghe ác ma nói công đức và nói danh tự, chổ sanh, khi sanh của mình có đôi phần giống sự thật, liền sanh kiêu mạng, khinh thường chê bai các Bồ Tát khác. Vì vậy, này thiện hiện! Nếu Đại Bồ Tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột thì nên hiểu biết rõ ràng các ma sự như thế.

Listen Next

Other Creators