Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 13, Quyển 325, XLVII, Phẩm B.U.T.A.T. An Trụ 02 Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tổ, thì nên từ sợi pháp không quên mất, cũng khuyên người sát sợi pháp không quên mất, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp không quên mất, hoan hỷ xem nợ người sợi pháp không quên mất, nên từ sợi tánh luôn luôn xả, cũng khuyên người sát sợi tánh luôn luôn xả, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp sợi tánh luôn luôn xả, hoan hỷ xem nợ người sợi tánh luôn luôn xả. Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tổ, thì nên từ nhiếp thọ tuổi thọ viên mãng, cũng khuyên người sát nhiếp thọ tuổi thọ viên mãng, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp nhiếp thọ tuổi thọ viên mãng, hoan hỷ xem nợ người nhiếp thọ tuổi thọ viên mãng. Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tổ, thì nên từ chuyển pháp luôn, cũng khuyên người sát chuyển pháp luôn, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp chuyển pháp luôn, hoan hỷ xem nợ người chuyển pháp luôn. Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tổ, thì nên từ nhiếp thọ chuyển chánh pháp tồn tại, cũng khuyên người sát nhiếp thọ chuyển chánh pháp tồn tại, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp nhiếp thọ chuyển chánh pháp tồn tại, hoan hỷ xem nợ người nhiếp thọ chuyển chánh pháp tồn tại. Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tổ, thì lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên an trụ như vậy. Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nên học phương tiện thiện xảo của Bát Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thế, nếu học như vậy thì mới có khả năng an trụ pháp an trụ, nếu học như vậy, an trụ như vậy, thì đối với sát không bị chứng ngại, đối với thọ, tưởng, hành, thức không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ không bị chứng ngại, đối với sát xứ không bị chứng ngại, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ được không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nh xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đ đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhã đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhãn xứ không bị chứng ngại, đối với nhã Đối với Pháp Môn Đà-La-Ni được không bị chứng ngại, đối với mười lực Phật không bị chứng ngại, đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng không bị chứng ngại, đối với việc quán mười hai chi duyên khởi theo chiều thuần, nghịch không bị chứng ngại, đối với việc biết khổ, đoạn tập, chính việc, tu đạo không bị chứng ngại Đối với quả dự lưu không bị chứng ngại, đối với quả nhất lai, bất hoàng, A-La-Hán không bị chứng ngại, đối với quả vị độc giác không bị chứng ngại, đối với địa vị nhập tránh tánh ly xanh của Bồ-Tát không bị chứng ngại, đối với việc nghiêm tình cõi Phật không bị chứng ngại, đối với việc thành thục hữu tình không bị chứng ngại, đối với việc khởi thần thông Bồ-Tát không bị chứng ngại, đối với trí nhất thiết không bị chứng ngại, đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không bị chứng ngại, đối với việc đoạn tất cả tập khí phiền não tương tục không bị chứng ngại, đối với Pháp không quên mất không bị chứng ngại, đối với tánh luôn luôn xã không bị chứng ngại, đối với tuổi thọ viên mãn không bị chứng ngại, đối với việc chuyển Pháp luôn không bị chứng ngại, đối với sự tồn tại của chánh Pháp không bị chứng ngại. Vì sao? Vì Đài Bồ-Tát ấy từ đời trước đến nay chẳng nhiếp thọ sắc, chẳng nhiếp thọ thọ, tưởng, hành, thức, chẳng nhiếp thọ nhãn sướng, chẳng nhiếp thọ nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sướng, chẳng nhiếp thọ sắc sướng, chẳng nhiếp thọ thanh, hương, vị, xúc, Pháp sướng, chẳng nhiếp thọ nhãn giới, chẳng nhiếp thọ nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới, chẳng nhiếp thọ sắc giới, chẳng nhiếp thọ thanh, hương, vị, xúc, Pháp giới, chẳng nhiếp thọ nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng nhiếp thọ nhãn sướng, chẳng nhiếp thọ nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sướng, chẳng nhiếp thọ các thọ do nhãn sướng làm duyên sanh ra, chẳng nhiếp thọ các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sướng làm duyên sanh ra, chẳng nhiếp thọ địa giới, chẳng nhiếp thọ thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng nhiếp thọ vô minh, chẳng nhiếp thọ hành, thức, danh sách, luật sứ, sức, thọ, ái, thủ, hữu, sanh chẳng nhiếp thọ việc xa lì sát hại sanh mạng, chẳng nhiếp thọ việc xa lì sự chẳng cho mà lấy, dâm dục, tà hạnh, lời nói hư dối, lời nói thôi ác, lời nói chia rẽ, lời nói hỗn tạp, tham dục, sân dận, tà kiến, chẳng nhiếp thọ bốn tịnh lự, chẳng nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng nhiếp thọ bố thí ba la mật đa, chẳng nhiếp thọ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã ba la mật đa, chẳng nhiếp thọ pháp không nội, chẳng nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Chẳng nhiếp thọ chân như, chẳng nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhị, chẳng nhiếp thọ bốn niệm trụ, chẳng nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thanh đạo, chẳng nhiếp thọ thanh đế khổ, chẳng nhiếp thọ thanh đế tập, diệt, đạo, chẳng nhiếp thọ tám giải thoát, chẳng nhiếp thọ tám thắng sướng, chính định thứ đệ, 10. Biến sướng, chẳng nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, chẳng nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng nhiếp thọ bật cực khỉ, chẳng nhiếp thọ bật ly cấu, bật phát quan, bật dịm tuệ, bật cực nan thắng, bật hiện tiện, bật viễn hành, bật bất động, bật thiện tuệ, bật pháp vân, chẳng nhiếp thọ 5 loại mắt, chẳng nhiếp thọ 6 phép thần thông, chẳng nhiếp thọ pháp môn Tamadea, chẳng nhiếp thọ pháp môn Dalani. Chẳng nhiếp thọ 10 lực Phật, chẳng nhiếp thọ 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp Phật bất cộng, chẳng nhiếp thọ việc quán 12 chi duyên khởi theo chiều thuần, nghịch, chẳng nhiếp thọ việc biết khổ, đoạn tập, chính việc, tu đạo, chẳng nhiếp thọ quả dự lưu, chẳng nhiếp thọ quả nhất lai, bất hoàng, A-la-háng, chẳng nhiếp thọ quả vị độc giác, chẳng nhiếp thọ địa vị nhập tránh tánh ly xanh của Bồ-Tát, chẳng nhiếp thọ việc nghiêm tình cõi. Phật, chẳng nhiếp thọ việc thành thuộc hữu tình, chẳng nhiếp thọ thần thông của Bồ-Tát, chẳng nhiếp thọ trí nhất thiết, chẳng nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng nhiếp thọ việc đoạn trừ tất cả tập khí phiền não tương tục, chẳng nhiếp thọ pháp không quên mất, chẳng nhiếp thọ tánh lung lung xã, chẳng nhiếp thọ tội viên mãn, chẳng nhiếp thọ việc chuyển pháp luân, chẳng nhiếp thọ sự tồn tại của chánh pháp. Vì sao? Này Thiên Hiện! Vì sắc chẳng thể nhiếp thọ, nếu sắc chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là sắc, thọ, tướng, hành, thức chẳng thể nhiếp thọ, nếu thọ, tướng, hành, thức chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là thọ, tướng, hành, thức. Này Thiên Hiện! Nhãn sứ chẳng thể nhiếp thọ, nếu nhãn sứ chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là nhãn sứ, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ chẳng thể nhiếp thọ, nếu nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ. Này Thiên Hiện! Sắc sứ chẳng thể nhiếp thọ, nếu sắc sứ chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là sắc sứ, thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ chẳng thể nhiếp thọ, nếu thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ. Này Thiên Hiện! Nhãn giới chẳng thể nhiếp thọ, nếu nhãn giới chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là nhãn giới, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới chẳng thể nhiếp thọ, nếu nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới. Này Thiên Hiện! Sắc giới chẳng thể nhiếp thọ, nếu sắc giới chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là sắc giới, thanh, hương, vị, xuất, pháp giới chẳng thể nhiếp thọ, nếu thanh, hương, vị, xuất, pháp giới chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xuất, pháp giới. Này Thiên Hiện! Nhãn thức giới chẳng thể nhiếp thọ, nếu nhãn thức giới chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là nhãn thức giới, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới chẳng thể nhiếp thọ, nếu nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới. Này Thiên Hiện! Nhãn xuất chẳng thể nhiếp thọ, nếu nhãn xuất chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là nhãn xuất, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất chẳng thể nhiếp thọ, nếu nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất. Này Thiên Hiện! Các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra chẳng thể nhiếp thọ, nếu các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra, các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất làm duyên sanh ra chẳng thể nhiếp thọ, nếu các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất làm duyên sanh ra chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xuất làm duyên sanh ra. Này Thiên Hiện! Địa giới chẳng thể nhiếp thọ, nếu địa giới chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là địa giới, thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể nhiếp thọ, nếu thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Này Thiên Hiện! Vô minh chẳng thể nhiếp thọ, nếu vô minh chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là vô minh, hành, thức, danh sách, luật sướng, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử chẳng thể nhiếp thọ, nếu hành cho đến lão tử chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là hành cho đến lão tử. Này Thiên Hiện! Việc xa lì giết hại sanh mạng chẳng thể nhiếp thọ, nếu việc xa lì giết hại sanh mạng chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là việc xa lì giết hại sanh mạng, việc xa lì sự chẳng cho mà lấy, dâm dục, tà hành chẳng thể nhiếp thọ, nếu xa lì việc chẳng cho mà lấy, dâm dục, tà hành chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là việc xa lì sự chẳng cho mà lấy, dâm dục, tà hành. Này Thiên Hiện! Việc xa lì lời nói hư dối chẳng thể nhiếp thọ, nếu việc xa lì lời nói hư dối chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là việc xa lì lời nói hư dối, việc xa lì lời nói thôi ác, lời nói chia rẽ, lời nói hỗn tạp chẳng thể nhiếp thọ, nếu việc lì lời nói thôi ác, lời nói chia rẽ, lời nói hỗn tạp chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là việc lì lời nói thôi ác, lời nói chia rẽ, lời nói hỗn tạp. Này Thiên Hiện! Việc xa lì tham dục chẳng thể nhiếp thọ, nếu việc xa lì tham dục chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là việc xa lì tham dục, việc xa lì sân dần, tà kiến chẳng thể nhiếp thọ, nếu việc xa lì sân dần, tà kiến chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là việc xa lì sân dần, tà kiến. Này Thiên Hiện! Sơ thiền chẳng thể nhiếp thọ, nếu sơ thiền chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là sơ thiền, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền chẳng thể nhiếp thọ, nếu đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền. Này Thiên Hiện! Từ vô lượng chẳng thể nhiếp thọ, nếu từ vô lượng chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là từ vô lượng, bi, hi, xã vô lượng chẳng thể nhiếp thọ, nếu bi, hi, xã vô lượng chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là bi, hi, xã vô lượng. Này Thiên Hiện! Không vô biên xứ chẳng thể nhiếp thọ, nếu không vô biên xứ chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ chẳng thể nhiếp thọ, nếu thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ. Này Thiên Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nhiếp thọ, nếu bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể nhiếp thọ, nếu tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã Ba-la-mật-đa. Này Thiên Hiện! Pháp không nội chẳng thể nhiếp thọ, nếu Pháp không nội chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là Pháp không nội, Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không đốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không nội khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không trọng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự... Tánh, Pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nhiếp thọ, nếu Pháp không ngoại cho đến Pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là Pháp không ngoại cho đến Pháp không không tánh tự tánh. Này thiện hiện! Chân như chẳng thể nhiếp thọ, nếu chân như chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là chân như Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi xác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, Pháp định, Pháp trụ, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhì chẳng thể nhiếp thọ, nếu Pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nhì chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là Pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nhì. Này thiện hiện! 4 niệm trụ chẳng thể nhiếp thọ, nếu 4 niệm trụ chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là 4 niệm trụ, 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo chẳng thể nhiếp thọ, nếu 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo. Này thiện hiện! Thánh đế khổ chẳng thể nhiếp thọ, nếu thánh đế khổ chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là thánh đế khổ, thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể nhiếp thọ, nếu thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là thánh đế tập, diệt, đạo. Này thiện hiện! 8 giải thoát chẳng thể nhiếp thọ, nếu 8 giải thoát chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là 8 giải thoát, 8 tháng xứ, 9 đình thứ đệ, 10 biến xứ chẳng thể nhiếp thọ, nếu 8 tháng xứ, 9 đình thứ đệ, 10 biến xứ chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là 8 tháng xứ, 9 đình thứ đệ, 10 biến xứ. Này thiện hiện! Pháp môn giải thoát không chẳng thể nhiếp thọ, nếu Pháp môn giải thoát không chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là Pháp môn giải thoát là không, Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể nhiếp thọ, nếu Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Này thiện hiện! Bật cực khỉ chẳng thể nhiếp thọ, nếu bật cực khỉ chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là bật cực khỉ, bật ly cấu, bật phát quan, bật diện tuệ, bật cực nan thắng, bật hiện tiện, bật viễn hành, bật bất động, bật thiện tuệ, bật pháp vân chẳng thể nhiếp thọ, nếu bật ly cấu cho đến bật pháp vân chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là bật ly cấu cho đến bật pháp vân. Này thiện hiện! Năm loại mắt chẳng thể nhiếp thọ, nếu năm loại mắt chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là năm loại mắt, sáu phép thần thông chẳng thể nhiếp thọ, nếu sáu phép thần thông chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là sáu phép thần thông. Này thiện hiện! Pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nhiếp thọ, nếu Pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là Pháp môn Tam-ma-địa, Pháp môn Đa-la-ni chẳng thể nhiếp thọ, nếu Pháp môn Đa-la-ni chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là Pháp môn Đa-la-ni. Này thiện hiện! Mười lực Phật chẳng thể nhiếp thọ, nếu mười lực Phật chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là mười lực Phật. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Phả, mười tám Pháp Phật bất cộng chẳng thể nhiếp thọ, nếu bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Này thiện hiện! Mười hai chi duyên khởi quán theo chiều thuần, nghịch chẳng thể nhiếp thọ, nếu mười hai chi duyên khởi quán theo chiều thuần, nghịch chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là mười hai chi duyên khởi quán theo chiều thuần, nghịch. Này thiện hiện! Biết khổ, đoạn tập, chính việc, tu đạo chẳng thể nhiếp thọ, nếu biết khổ, đoạn tập, chính việc, tu đạo chẳng có thể nhiếp thọ thì chẳng nên biết khổ, đoạn tập, chính việc, tu đạo. Này thiện hiện! Quả dự lưu chẳng thể nhiếp thọ, nếu quả dự lưu chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là quả dự lưu, quả nhất lai, bất hoàng, A-la-hán chẳng thể nhiếp thọ, nếu quả nhất lai, bất hoàng, A-la-hán chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là quả nhất lai, bất hoàng, A-la-hán. Này thiện hiện! Quả vị độc giác chẳng thể nhiếp thọ, nếu quả vị độc giác chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là quả vị độc giác. Này thiện hiện! Địa vị nhập chánh tánh ly xanh của Bồ Tát chẳng thể nhiếp thọ, nếu địa vị nhập chánh tánh ly xanh của Bồ Tát chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là địa vị nhập chánh tánh ly xanh của Bồ Tát. Này thiện hiện! Việc nghiêm tình cõi Phật chẳng thể nhiếp thọ, nếu việc nghiêm tình cõi Phật chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là việc nghiêm tình cõi Phật. Này thiện hiện! Việc thành thuộc hữu tình chẳng thể nhiếp thọ, nếu việc thành thuộc hữu tình chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là việc thành thuộc hữu tình. Này thiện hiện! Thần thông của Bồ Tát chẳng thể nhiếp thọ, nếu thần thông của Bồ Tát chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là thần thông của Bồ Tát. Này thiện hiện! Trí nhất thiết chẳng thể nhiếp thọ, nếu trí nhất thiết chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng thể nhiếp thọ, nếu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Này thiện hiện! Việc đoạn tất cả tập khí phiền não tương tục chẳng thể nhiếp thọ, nếu việc đoạn tất cả tập khí phiền não tương tục chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là việc đoạn tất cả tập khí phiền não tương tục. Này thiện hiện! Pháp không quên mất chẳng thể nhiếp thọ, nếu Pháp không quên mất chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả chẳng thể nhiếp thọ, nếu tánh luôn luôn xả chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả. Này thiện hiện! Tuổi thọ viên mãn chẳng thể nhiếp thọ, nếu tuổi thọ viên mãn chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là tuổi thọ viên mãn. Này thiện hiện! Chuyển Pháp luôn chẳng thể nhiếp thọ, nếu chuyển Pháp luôn chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là chuyển Pháp luôn. Này thiện hiện! Chánh Pháp tồn tại chẳng thể nhiếp thọ, nếu chánh Pháp tồn tại chẳng thể nhiếp thọ thì chẳng phải là chánh Pháp tồn tại. Khi nói Phẩm Bồ Tát An Trụ ấy, có một vạn hai ngàn Đại Bồ Tát đắc vô sanh Pháp nhẫn. XLIX Phẩm Bất Thối Chuyển 01 Lúc bấy giờ, cụ thọ thiện hiện Bạch Phật, Bạch Thế Tôn. Đại Bồ Tát Bất Thối Chuyển có hành gì, có trạng gì, có tướng gì? Chúng con làm sao biết là Đại Bồ Tát Bất Thối Chuyển? Phật dạy, này thiện hiện! Nếu Đại Bồ Tát có khả năng biết như thật các bậc Phạm Phu, các bậc Thanh Văn, các bậc Độc Giác, các bậc Bồ Tát, các bậc như Lai, trong chân như của các Pháp, các bậc như Thế không đổi khác, không phân biệt, đều không hai, không hai phần. Đại Bồ Tát ấy tuy như thật ngộ nhập chân như của các Pháp nhưng đối với chân như của các Pháp không có sự phân biệt. Vì dùng vô sở đắc làm phương tiện nên Đại Bồ Tát ấy đã như thật ngộ nhập chân như của các Pháp rồi, tuy nghe chân như cùng với tất cả Pháp không hai, không khác nhưng không nghi ngờ vướng mắt. Vì sao? Vì chân như cùng tất cả Pháp, chẳng thể nói một hoặc khác, cùng hay chẳng cùng. Đại Bồ Tát ấy phát ra lời nói không bao giờ khinh suất, những lời nói ra đều mang ý nghĩa lợi ích, nếu không có ý nghĩa lợi ích thì chẳng bao giờ nói. Đại Bồ Tát ấy chẳng quán xem sự tốt xấu trường đoạn của người khác mà bình đẳng thương yêu vì họ nói Pháp. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát bất thối chuyển có các hành, trạng, tướng như thế nên theo các hành, trạng, tướng như thế biết là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Cụ thọ thiện hiện lại bạch Phật, bạch Thế Tôn. Lại căn cứ vào hành nào, trạng nào, tướng nào để biết là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Phật dạy, này thiện hiện! Nếu Đại Bồ Tát có khả năng quán tất cả Pháp là không hành, không trạng, không tướng thì nên biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Cụ thọ thiện hiện lại bạch Phật, bạch Thế Tôn. Nếu tất cả Pháp là không hành, không trạng, không tướng thì Đại Bồ Tát ấy đối với Pháp nào thối chuyển mà gọi là bất thối chuyển. Phật dạy, này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với sắc thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với thọ, tướng, hành, thức thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của sắc không sở hữu, tự tánh của thọ, tướng, hành, thức cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với nhãn sứ thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của nhãn sứ không sở hữu, tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với sắc sứ thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với thanh, hương, vị, súc, pháp sứ thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của sắc sứ không sở hữu, tự tánh của thanh, hương, vị, súc, pháp sứ cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với nhãn giới thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của nhãn giới không sở hữu, tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với sắc giới thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với thanh, hương, vị, súc, pháp giới thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của sắc giới không sở hữu, tự tánh của thanh, hương, vị, súc, pháp giới cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với nhãn giới thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của nhãn giới không sở hữu, tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với nhãn giới thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của nhãn giới không sở hữu, tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với nhãn giới thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của nhãn giới không sở hữu, tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của nhãn giới không sở hữu, tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với nhãn giới thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của nhãn giới không sở hữu, tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với vô minh thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với hành, thức, danh sách, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của vô minh không sở hữu, tự tánh của hành cho đến lão tử cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với bố thí Ba-la-mật-đa thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã Ba-la-mật-đa thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa không sở hữu, tự tánh của tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã Ba-la-mật-đa cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với Pháp không nội thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không trốt cháo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đổi khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không... Không tánh tự tánh thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của Pháp không nội không sở hữu, tự tánh của Pháp không ngoại cho đến Pháp không không tánh tự tánh cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với chân như thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, Pháp định, Pháp trụ, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghị thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của chân như không sở hữu, tự tánh của Pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nghị cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với 4 niệm trụ thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của 4 niệm trụ không sở hữu, tự tánh của 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với thánh đế khổ thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với thánh đế tập, diệt, đạo thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của thánh đế khổ không sở hữu, tự tánh của thánh đế tập, diệt, đạo cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với 4 tình lựu thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với 4 vô lượng, 4 định vô sắc thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của 4 tình lựu không sở hữu, tự tánh của 4 vô lượng, 4 định vô sắc cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với 8 giải thoát thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với 8 tháng thứ, 9 định thứ đệ, 10 điến phứ thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của 8 giải thoát không sở hữu, tự tánh của 8 tháng thứ, 9 định thứ đệ, 10 điến phứ cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với Pháp môn giải thoát không thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của Pháp môn giải thoát không không sở hữu, tự tánh của Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với 5 loại mắt thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với 6 phép thần thông thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của 5 loại mắt không sở hữu, tự tánh của 6 phép thần thông cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với Pháp môn Tama Địa thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với Pháp môn Đà La Nị thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Tự tánh của Pháp môn Tama Địa không sở hữu, tự tánh của Pháp môn Đà La Nị cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với 10 lực Phật thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Phả, 18 Pháp Phật bất tổng thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của 10 lực Phật không sở hữu, tự tánh của 4 điều không sợ cho đến 18 Pháp Phật bất cộng cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với Quả Dự Lưu thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển, vì đối với Quả Nhất Lai, Bất Hoàng, A-La-Hán thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của Quả Dự Lưu không sở hữu, tự tánh của Quả Nhất Lai, Bất Hoàng, A-La-Hán cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với Quả Vị Độc Giác thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của Quả Vị Độc Giác không sở hữu, Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với Trí Nhất Thiết thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì đối với Trí Đạo Tướng, Trí Nhất Thiết Tướng thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của Trí Nhất Thiết không sở hữu, tự tánh của Trí Đạo Tướng, Trí Nhất Thiết Tướng cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với địa vị Phạm Phu thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì đối với địa vị Thanh Văn, địa vị Độc Giác, địa vị Bồ Tát, địa vị Như Lai thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của địa vị Phạm Phu không sở hữu, tự tánh của địa vị Thanh Văn, địa vị Độc Giác, địa vị Bồ Tát, địa vị Như Lai cũng không sở hữu. Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì đối với quả vị Giác ngộ cao tộc thối chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao? Này thiện hiện! Vì tự tánh của quả vị Giác ngộ cao tộc không sở hữu, Đại Bồ Tát nào chẳng an trụ trong đó thì gọi là thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện! Nếu Đại Bồ Tát ở địa vị bất thối chuyển thì chẳng bao giờ thích xem hình tướng, ngôn thuyết của sa môn, bà la môn ngoại đạo. Các sa môn, bà la môn ấy, đối với pháp sở tri mà thật tri, thật kiến, hoặc có thể kiến lập pháp môn chánh kiến thì chắc chắn không có việc ấy. Này thiện hiện! Nếu thanh tựu các hành, trạng, tướng như thế thì nên biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện! Nếu Đại Bồ Tát ở địa vị bất thối chuyển thì đối với pháp tỉ nại gia mà Phật đã dạy, phát sanh sự tin, hiểu sâu sắc, quyết không nghi hoặc, không chấp thủ giới cấm, chẳng rơi vào tà kiến, chẳng chấp vào các điểm tốt của thế tục cho là thanh tịnh, không bao giờ lệ kính các thiên thần, như các sự thờ cúng của thế gian ngoại đạo, cũng chẳng bao giờ dùng các loại tràng hoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phang, bão trái, kỹ nhạc, đèn đuốt cúng dường thiên thần và các ngoại đạo. Này thiện hiện! Nếu thanh tựu các hành, trạng, tướng như thế thì nên biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện! Nếu Đại Bồ Tát ở địa vị bất thối chuyển thì chẳng sanh vào trong địa ngục, bàn sanh, quỷ giới, à tối lạc, cũng chẳng sanh vào dòng giói ti tiện, như là Chiên Đồ Lạ, Bổ Yết Ta V, V, cũng chẳng bao giờ thọ sanh huỳnh môn, vô hình, nhị hình và thân nữ nhân, cũng chẳng bao giờ thọ thân bị đuôi, điết, căm, ngọng, tay chân co quắc, hủy lát, luồng xấu, cũng chẳng bao giờ sanh vào trốn không có thì giờ rảnh. Này thiện hiện! Nếu thanh tựu các hành, trạng, tướng như thế thì nên biết đó là Đại Bồ Tát bất thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện! Nếu Đại Bồ Tát ở địa vị bất thối chuyển thì thường ưa thọ trị mười thiện nghiệp đạo, tự sa lì việt giết hại sanh mạng, cũng khuyên người khác sa lì việt giết hại sanh mạng, thường xuyên chính thức tuyên dương Pháp sa lì việt giết hại sanh mạng, hoan hỉ khen nợ người sa lì việt giết hại sanh mạng, tự sa lì việt không cho mà lấy, cũng khuyên người khác sa lì việt không cho mà lấy, thường xuyên chính thức tuyên dương Pháp sa lì việt không cho mà lấy, hoan hỉ khen nợ người sa lì việt Không cho mà lấy, tự sa lì giam dục, tà hạnh, cũng khuyên người khác sa lì giam dục, tà hạnh, thường xuyên chính thức tuyên dương Pháp sa lì giam dục, tà hạnh, hoan hỉ khen nợ người sa lì giam dục, tà hạnh, tự sa lì lợi nói hư dối, cũng khuyên người khác sa lì lợi nói hư dối, thường xuyên chính thức tuyên dương Pháp sa lì lợi nói hư dối, hoan hỉ khen nợ người sa lì lợi nói hư dối. Tự sa lì lợi nói thôi ác, cũng khuyên người khác sa lì lợi nói thôi ác, thường xuyên chính thức tuyên dương Pháp sa lì lợi nói thôi ác, hoan hỉ khen nợ người sa lì lợi nói thôi ác, tự sa lì lợi nói chia rẽ, cũng khuyên người khác sa lì lợi nói chia rẽ, thường xuyên chính thức tuyên dương Pháp sa lì lợi nói chia rẽ, hoan hỉ khen nợ người sa lì lợi nói chia rẽ, tự sa lì lợi nói hỗn tạp, cũng khuyên người khác sa lì lợi nói hỗn tạp, thường xuyên chính thức tuyên dương Pháp sa lì lợi nói hỗn tạp, hoan hỉ khen nợ người sa lì lợi nói hỗn tạp, tự sa lì tham dục, cũng khuyên người khác sa lì tham dục, thường xuyên chính thức tuyên dương Pháp sa lì tham dục, hoan hỉ khen nợ người sa lì tham dục, tự sa lì sân giận, cũng khuyên người khác sa lì sân giận, thường xuyên chính thức tuyên dương Pháp sa lì sân giận, hoan hỉ khen nợ người sa lì sân giận. Tự sa lì tạ kiến, cũng khuyên người khác sa lì tạ kiến, thường xuyên chính thức tuyên dương Pháp sa lì tạ kiến, hoan hỉ khen nợ người sa lì tạ kiến. Đại Bồ-Tát ấy ngay trong mộng cũng chẳng hiện khởi mười ác nghiệt đạo, húng là lúc tỉnh. Này thiện hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là Đại Bồ-Tát bớt thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện! Nếu Đại Bồ-Tát ở địa vị bớt thối chuyển thì vì làm lợi ích cho tất cả hữu tình mà luôn tu bố thí Ba-la-mật-đa, vì làm lợi ích cho tất cả hữu tình mà luôn tu tình giới Ba-la-mật-đa, vì làm lợi ích cho tất cả hữu tình mà luôn tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, vì làm lợi ích cho tất cả hữu tình mà luôn tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, vì làm lợi ích cho tất cả hữu tình mà luôn tu tình lự Ba-la-mật-đa, vì làm lợi ích cho tất cả hữu tình mà luôn tu bác nhã Ba-la-mật-đa. Này thiện hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là Đại Bồ-Tát bớt thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện! Nếu Đại Bồ-Tát ở địa vị bớt thối chuyển thì các giáo Pháp thanh tịnh mà họ thọ trì, tư duy, đọc tụng, gốt tráo thông lợi đó là khế kinh, ứng tụng, ký biệt, phúng tụng, tử thuyết, duyên khởi, bổn sự, bổn sanh, phương quảng, hy Pháp, thí dụ, luận nghị. Đem những Pháp như thế, thường ưa bố thí cho tất cả hữu tình, luôn nghĩ thế này, nên làm thế nào khiến cho sở nguyện cầu chánh Pháp của các loài hữu tình đều được đầy đủ. Lại đem thiện căng Pháp thí ấy ban cho các hữu tình, đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột. Này thiện hiện! Nếu thanh tựu các hành, trạng, tướng như vậy thì nên biết đó là Đại Bồ-Tát bớt thối chuyển. Lại nữa, thiện hiện! Nếu Đại Bồ-Tát ở địa vị bớt thối chuyển thì đối với Pháp môn sâu xa mà Phật đã dạy, không bao giờ sanh nghi hoặc, do dự. Khi ấy, cụ thọ thiện hiện bạch Phật, bạch Thế Tôn. Vì duyên gì mà Đại Bồ-Tát bớt thối chuyển, đối với Pháp môn sâu xa mà Phật đã dạy, không bao giờ sanh nghi hoặc, do dự. Phật dạy, này thiện hiện! Vì Đại Bồ-Tát ấy hoàn toàn không thấy có một Pháp nào có thể nghi hoặc, do dự, đó là chẳng thấy có sắc, cũng chẳng thấy có thọ, tưởng, hành, thức có thể sanh nghi hoặc, do dự, chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ có thể sanh nghi hoặc, do dự, chẳng thấy có sắc xứ, cũng chẳng thấy có thanh, hương, vị, xúc, Pháp xứ có thể sanh nghi hoặc, do dự, chẳng thấy có nhãn giới, cũng chẳng thấy có nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới có thể sanh nghi hoặc, do dự, chẳng thấy có nhãn xúc, cũng chẳng thấy có nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc có thể sanh nghi hoặc, do dự, chẳng thấy có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng thấy có các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ có thể sanh nghi hoặc, do dự, chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳ chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ, cũng chẳng thấy có nhãn xứ Chẳng thấy có mười lực Phật, cũng chẳng thấy có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng có thể sanh nghi hoặc do dự, chẳng thấy có quả dừa lưu, cũng chẳng thấy có quả nhất lai, bất hoàng, A-la-hán có thể sanh nghi hoặc do dự, chẳng thấy có quả vị độc giác có thể sanh nghi hoặc do dự, chẳng thấy có trí nhất thiết, cũng chẳng thấy có trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể sanh nghi hoặc do dự, chẳng thấy có quả vị độc giác có thể sanh nghi ho hoặc do dự, chẳng thấy có địa vị phạm phu, cũng chẳng thấy có địa vị thanh văn, địa vị độc giác, địa vị bồ tát, địa vị như lai có thể sanh nghi hoặc do dự. Này thiện hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại bồ tát bất thối chuyển.