Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 12, Quyển 288, XXXVI Phẩm Trước và Chẳng Trước Tướng 02 Lại nữa, xá lợi tử, các thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ đại thừa, nếu lấy có sở đắc làm phương tiện từ lúc mới phát tâm đối với Bát Nhã Ba La Mật Đa, khởi tưởng chấp trước hành, đối với tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, Bát Nhã Ba La Mật Đa khởi tưởng chấp trước hành, hoặc đối với Pháp không nội khởi tưởng chấp trước hành, đối với Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không rốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đổi xác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh khởi tưởng chấp trước hành, hoặc đối với chân như khởi tưởng chấp trước hành, đối với Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi xác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định Pháp, trụ Pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghi khởi tưởng chấp trước hành, hoặc đối với thánh đế khổ khởi tưởng chấp trước hành, đối với thánh đế tập, diệt, đạo khởi tưởng chấp trước hành, hoặc đối với bốn tình lựu khởi tưởng chấp trước hành, đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc khởi tưởng chấp trước hành, hoặc đối với 8 tháng xứ, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ khởi tưởng chấp trước hành, hoặc đối với 4 niệm trụ khởi tưởng chấp trước hành, đối với 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo khởi tưởng chấp trước hành, hoặc đối với Pháp môn giải thoát không khởi tưởng chấp trước hành, đối với Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện khởi tưởng chấp trước hành, hoặc đối với 10 địa Bồ Tát khởi tưởng chấp trước hành, hoặc đối với 5 loại mắt khởi tưởng chấp trước hành, đối với 6 phép thần thông khởi tưởng chấp trước hành, hoặc đối với 10 lực Phật khởi tưởng chấp trước hành, đối với 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Sả, 18 Pháp Phật bất động khởi tưởng chấp trước hành, hoặc đối với Pháp không quên mắt khởi tưởng chấp trước hành, đối với Tánh Luân Luân Sả khởi tưởng chấp trước hành, hoặc đối với Trí Nhất Thiết khởi tưởng chấp trước hành, đối với Trí Đạo, Tướng, Trí Nhất Thiết Tướng khởi tưởng chấp trước hành, hoặc đối với tất cả Pháp Môn Đà La Ni khởi tưởng chấp trước hành, đối với tất cả Pháp Môn Ta Ma Địa khởi tưởng chấp trước hành, hoặc đối với Quả Dự Lưu khởi tưởng chấp trước hành, đối với Quả Nhất Lai, Bất Hoàng, A La Hán khởi tưởng chấp trước hành, hoặc đối với Quả Vị Độc Giác khởi tưởng chấp trước hành, hoặc đối với tất cả hành đại Bồ Tát khởi tưởng chấp trước hành, hoặc đối với Quả Vị Giác Ngộ Cao Tột của Chiêu Phật khởi tưởng chấp trước hành. Này xá lợi tử, khi đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, nếu không có phương tiện khéo léo, lấy hữu sở đắc làm phương tiện, khởi tưởng chấp trước các Pháp như thế thì gọi là trước tướng. Lại nữa, xá lợi tử. Như trước ông đã hỏi, thế nào là đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, không trước tướng thì này xá lợi tử, đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, có phương tiện khéo léo, đối với sắc không khởi tưởng không hay bất không, đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với nhãn xứ không khởi tưởng không hay bất không, đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với sắc xứ không khởi tưởng không hay bất không, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với nhãn giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với nhĩ giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng không khởi tưởng không hay bất không. Đối với tỉ giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với hương giới, tỉ thức giới và tỉ xúc cùng các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với thiệt giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với thân giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với ý giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với địa giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không khởi tưởng không hay bất không Đối với vô minh không khởi tưởng không hay bất không, đối với hành, thức, danh sách, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với bố thí ba la mật đa không khởi tưởng không hay bất không, đối với tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát ngã ba la mật đa cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với pháp không nội không khởi tưởng không hay bất không, đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đội khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không trọng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với chân như không khởi tưởng không hay bất không, đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhị cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với thánh đế khổ không khởi tưởng không hay bất không, đối với thánh đế tập, diệt, đạo cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với bốn tình lựu không khởi tưởng không hay bất không, đối với bốn vô lượng, bốn định vô, sắc cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với tám giải thoát không khởi tưởng không hay bất không, đối với tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến xứ cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với bốn niệm trụ không khởi tưởng không hay bất không, đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng không khởi tưởng không hay bất không. Đối với pháp môn giải thoát không không khởi tưởng không hay bất không, đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với mười địa Bồ Tát không khởi tưởng không hay bất không, đối với năm loại mắt không khởi tưởng không hay bất không, đối với sáu phép thần thông cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với mười lực Phật không khởi tưởng không hay bất không, đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tử, đại bi, đại nghĩ, đại. Xã, mười tám pháp Phật bất cộng cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với pháp không quên mất không khởi tưởng không hay bất không, đối với tánh luôn luôn xã cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với trí nhất thiết không khởi tưởng không hay bất không, đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng không khởi tưởng không hay bất không. Đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni không khởi tưởng không hay bất không, đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với quả Dự-lưu không khởi tưởng không hay bất không, đối với quả Nhất-lai, Bất-hoàng, A-la-háng cũng không khởi tưởng không hay bất không, đối với quả vị độc giác không khởi tưởng không hay bất không, đối với tất cả hành đại Bồ-Tát không khởi tưởng không hay bất không, đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không khởi tưởng không hay bất. Không, đối với pháp quá khứ không khởi tưởng không hay bất không, đối với pháp vị Lai, hiện tại không khởi tưởng không hay bất không. Lại nữa, xá lợi tử Đây là phước được gieo và quả đạt được, không nghĩ, ta nhập tránh tánh ly xanh của Bồ-Tát. Không nghĩ, ta thành thuộc hữu tình, không nghĩ, ta nghiêm tình cõi Phật, không nghĩ, ta chính đắc trí nhất thiết trí, không nghĩ, ta trụ không, chính thật tánh của pháp, không nghĩ, ta tu tập các hành Bồ-Tát, không nghĩ, ta chính đủ các công đức Phật. Này xá lợi tử Nếu Đại Bồ-Tát có phương tiện khéo léo, khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện thì không có tất cả vòng tưởng phân biệt chấp trước như thế, do khéo thông đạt pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không trốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đội khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh lên, này xá lợi tử, gọi đó là Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa có phương tiện khéo léo, lấy vô sở đắc làm phương tiện, không có tướng chấp trước. Bây giờ, thiên đế thích hỏi cụ thọ thiện hiện. Thưa Đại Đức! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ Bồ-Tát Thừa khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa trước tướng như thế nào? Thiện hiện đắc! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ Bồ-Tát Thừa khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa không có phương tiện khéo léo, lấy vô sở đắc làm phương tiện, không có tướng chấp trước tâm, không có tướng chấp trước bố thí Ba-la-mật-đa, không có tướng chấp trước tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã Ba-la-mật-đa, không có tướng chấp trước pháp không nội, không có tướng chấp trước pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa. Pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không trốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Sở tưởng chấp trước chân như, sở tưởng chấp trước pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghi, sở tượng chấp trước thánh đế khổ, sở tượng chấp trước thánh đế tập, diệt, đạo, sở tượng chấp trước bốn tình lự, sở tượng chấp trước bốn vô lường, bốn định vô sắc, sở tượng chấp trước tám giải thoát, sở tượng chấp trước tám thắng, sở tượng chấp trước tám thắng, sở t tượng chấp trước tám sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng, sở tượng chấp trước bốn niệm trụ, sở tượng chấp trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, sở tượng chấp trước pháp môn giải thoát không, sở tượng chấp trước pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, sở tượng chấp trước mười địa bồ tát, sở tượng chấp trước năm loại mắt, sở tượng chấp trước sáu phép thần thông, sở tượng chấp trước mười lực Phật, sở tượng chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất động, sở tượng chấp trước pháp không quên mất, sở tượng chấp trước cánh luôn luôn xã, sở tượng chấp trước trí nhất thiết, sở tượng chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, sở tượng chấp trước tất cả pháp môn Đà La Nhi, sở tượng chấp trước tất cả pháp môn Tam Ma Địa, sở tượng chấp trước quả dự lưu, sở tượng chấp trước quả nhất lai, bất hoàng, A-la-háng, sở tượng chấp trước quả vị độc giác, sở tượng chấp trước tất cả hành đại Bồ-Tát, sở tượng chấp trước quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, sở tượng chấp trước chư đại Bồ-Tát, sở tượng chấp trước như lai ứng chánh đẳng giác, sở tượng chấp trước về các thiện căng Phật đã gieo trồng Khởi tượng chấp trước đen các thiện căng đã gieo trồng như thế hòa hiệp hội hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này chiều thi ca, đó gọi là các thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ Bồ-Tát thừa không có phương tiện xéo léo, lấy hữu sở đắc làm phương tiện khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa, là trước tướng sở hữu. Này chiều thi ca, các thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ Bồ-Tát thừa, do tượng chấp trước nên không thể tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa không chấp trước và hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao vậy? Này chiều thi ca, Duyên sanh ra có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của nhị giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của thanh giới, nhị thức giới và nhị xuất cùng các họ do nhị xuất làm duyên sanh ra có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của tỷ giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xuất cùng các họ do tỷ xuất làm duyên sanh ra có thể hồi hướng. Chẳng phải bản tính của thiệt giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xuất cùng các họ do thiệt xuất làm duyên sanh ra có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của thân giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của xuất giới, thân thức giới và thân xuất cùng các họ do thân xuất làm duyên sanh ra có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của ý giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của pháp giới, ý thức giới và ý xuất cùng các họ do ý xuất làm duyên sanh ra có. Thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của địa giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của vô minh có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của hành, thức, danh sách, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưa, não có thể hồi hướng. Này tiêu thí ca! Pháp không bản tính, Pháp không tự tướng, Pháp không cộng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tính, Pháp không tự tính, Pháp không không tính tự tính có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của chân như có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của pháp giới, pháp tính, tính chẳng hư vọng, tính chẳng đổi khác, tính bình đẳng, tính ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghị có thể hồi hướng. Chẳng phải bản tính của thánh đế khổ có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của thánh đế tập, diệt, đạo có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của bốn tình lựu có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của tám giải thoát có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của tám tháng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của bốn niệm trụ có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của bốn chánh đoạn, b 5 căn, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của pháp môn giải thoát không có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của 10 địa Bồ Tát có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của 5 loại mắt có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của 6 phép thần thông có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của 10 lực Phật có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Xã, 18 Pháp Phật bất cộng có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của Pháp không quên mất có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của Tánh Luân Luân Xã có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của Trí Nhất Thiết có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của Trí Đạo Tướng, Trí Nhất Thiết Tướng có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của tất cả Pháp. Môn Đà-La-Ni có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của tất cả Pháp Môn Tam-Ma-Địa có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của Quả Dự Lưu có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của Quả Nhất Lai, Bất Hoàng, A-La-Hán có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của Quả Vị Độc Giác có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của tất cả hành đại Bồ-Tát có thể hồi hướng, chẳng phải bản tính của Quả Vị Giác Ngộ Cao Tổ của Chư Phật có thể hồi hướng. Lại nữa, Chiều Thi-Ca Nếu Đại Bồ-Tát đối với Quả Vị Giác Ngộ Cao Tổ muốn thị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, khen gợi cho các hữu tình khác thì nên y như Thật Tướng mà thị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, khen gợi. Lại nên thị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, khen gợi như thế này, khi hành bố thí ba-la-mật-đa không nên phân biệt ta đang bố thí, hoặc khi hành tịnh giới ba-la-mật-đa không nên phân biệt ta đang hậu giới, hoặc khi hành an nhẫn ba-la-mật-đa không nên phân biệt ta đang tu nhẫn, hoặc khi hành tinh tấn ba-la-mật-đa không nên phân biệt ta đang tinh tấn, hoặc khi hành tịnh lự ba-la-mật-đa không nên phân biệt ta đang nhập định, hoặc khi hành bát nhã ba-la-mật-đa không nên phân biệt ta đang tập tuệ, hoặc khi hành bát nhã ba-la-mật-đa không nên phân biệt ta đang trụ pháp không nội, hoặc khi hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không trốt cháo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, pháp không không tánh, pháp không không tánh tự tánh không nên phân biệt ta đang trụ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc khi hành chân như không nên phân biệt ta đang trụ chân như hoặc khi hành pháp giới pháp tánh tánh chẳng hư vọng tánh chẳng đổi khác tánh bình đẳng tánh ly xanh định pháp trụ pháp thật tế cảnh giới hư không cảnh giới bất tương nghị không nên phân biệt ta đang trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nghị hoặc khi hành thánh đế khổ không nên phân biệt ta đang trụ thánh đế khổ hoặc khi hành thánh đế tập việt đạo không nên phân biệt ta đang trụ thánh đế tập việt đạo hoặc khi hành bốn tịnh lự không nên phân biệt ta đang tu bốn tịnh lự hoặc khi hành bốn vô lượng bốn định vô sắc không nên phân biệt ta đang tu bốn vô lượng bốn định vô sắc hoặc khi hành tám giải thoát không nên phân biệt ta đang tu tám giải thoát hoặc khi hành tám tháng xứng chính định thứ đệ mười biến xứ không nên phân biệt ta đang tu tám tháng xứng chính định thứ đệ mười biến xứ hoặc khi hành bốn niệm trụ không nên phân biệt ta đang tu bốn niệm trụ hoặc khi hành bốn chánh đoạn bốn thần túc năm căng năm lực bảy chi đẳng giác tám chi thánh đạo không nên phân biệt ta đang tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo hoặc khi hành pháp môn giải thoát không không nên phân biệt ta đang tu pháp môn giải thoát không hoặc khi hành pháp môn giải thoát vô tướng vô nguyện không nên phân biệt ta đang tu pháp môn giải thoát vô tướng vô nguyện hoặc khi hành mười địa bồ tác không nên phân biệt ta đang tu mười địa bồ tác hoặc khi hành năm loại mắt không nên phân biệt ta đang tu năm loại mắt hoặc khi hành sáu phép thần thông không nên phân biệt ta đang tu sáu phép thần thông hoặc khi hành mười lực Phật không nên phân biệt ta đang tu mười lực Phật hoặc khi hành bốn điều không sợ bốn sự hiểu biết thông suốt đại tử đại bi đại hỷ đại xã mười tám pháp Phật bất cộng không nên phân biệt ta đang tu bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc khi hành pháp không quên mất không nên phân biệt ta đang tu pháp không quên mất hoặc khi hành tánh luôn luôn xã không nên phân biệt ta đang tu tánh luôn luôn xã hoặc khi hành trí nhất thiết không nên phân biệt ta đang tu trí nhất thiết hoặc khi hành trí đạo tướng trí nhất thiết tướng không nên phân biệt ta đang tu trí đạo tướng trí nhất thiết tướng hoặc khi hành tất cả pháp môn đà la nị không nên phân biệt ta đang tu tất cả pháp môn đà la nị hoặc khi hành tất cả pháp môn tâm ma địa không nên phân biệt ta đang tu tất cả pháp môn tâm ma địa hoặc khi hành pháp tương tựa quả dự lưu không nên phân biệt ta đang tu pháp tương tựa quả dự lưu hoặc khi hành pháp tương tựa quả nhất lai, bất hoàn, A-la-hán không nên phân biệt ta đang tu pháp tương tựa quả nhất lai, bất hoàn, A-la-hán, hoặc khi hành pháp tương tựa quả vị độc giác không nên phân biệt ta đang tu pháp tương tựa quả vị độc giác hoặc khi hành tất cả hành đại bồ tát không nên phân biệt ta đang tu tất cả hành đại bồ tát hoặc khi hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không nên phân biệt ta đang tu quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Này Kiều Thi Ca! Các đại bồ tát đối với quả vị giác ngộ cao tột nên thị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, xen nợ như thế với các hữu tình xác. Nếu đại bồ tát đối với quả vị giác ngộ cao tột luôn luôn thị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, xen nợ với các loại hữu tình xác như thế thì chẳng tổn hại mình, cũng chẳng tổn hại người như chư Như Lai đã từng hứa xả thị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, xen nợ các loại hữu tình. Này Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ bồ tát thừa nếu luôn luôn thị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, xen nợ như thế thì các loại hữu tình hướng đến bồ tát thừa liền có thể xa liệt tất cả tướng chấp trước. Bây giờ, Thế Tôn khen cụ thọ thiện hiện, hay thay? Hay thay? Như lời ông nói thì này ông có thể khéo vì các bồ tát nói về tướng chấp trước. Này thiện hiện! Lại có tướng chấp trước phi tế này, ta sẽ vì ông mà nói, ông nên lắng nghe và tư duy chính chắn. Thiện hiện bạch, dạ! Xin ngại nói cho! Chúng con muốn nghe! Phật dạy, này thiện hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ bồ tát thừa muốn đạt đến quả vị giác ngộ cao tột mà đối với như lai ứng chánh đặng giác chấp tướng, nhớ nghỉ thì đó là chấp trước, hoặc đối với tông đức vô trước của tất cả như lai ứng chánh đặng giác trong quá khứ, vị lai, hiện tại và các thiện căn đó được từ khi mới phát tâm cho đến trụ pháp đều chấp tướng nhớ nghỉ và đã nhớ nghỉ rồi, hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì tất cả sự chấp tướng nhớ nghỉ như thế đều gọi là chấp trước, hoặc đối với thiện Pháp. Đã tu của tất cả đệ tử như lai và hữu tình khác đều chấp tướng nhớ nghỉ, hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, tất cả như thế cũng gọi là chấp trước. Vì sao? Vì đối với tông đức vô trước, thiện căn có được của tất cả như lai ứng chánh đặng giác chẳng nên chấp tướng và nhớ nghỉ, đối với thiện Pháp có được của đệ tử Phật và hữu tình khác chẳng nên chấp tướng và nhớ nghỉ, vì các sự chấp tướng đều là hư vọng. Bây giờ, cụ thọ thiền hiện Bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Bác nhã Ba-la-mật-đa như vậy là rất sâu xa. Phật dạy như vậy là do bản tánh của tất cả các Pháp là viễn ly. Cụ thọ thiền hiện lại Bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Bác nhã Ba-la-mật-đa như vậy đều nên kính lễ. Phật dạy như vậy là được nhiều công đức, nhưng Bác nhã Ba-la-mật-đa này là Pháp không tạo, không tác, không thể biết được. Cụ thọ thiền hiện lại Bạch, Bạch Thế Tôn. Tánh của tất cả Pháp đều khó có thể biết. Phật dạy như vậy là vì tất cả Pháp nhất tánh chẳng phải hai. Này thiền hiện! Nên biết, các Pháp nhất tánh tức là vô tánh, các Pháp vô tánh tức là nhất tánh. Như vậy là các Pháp nhất tánh vô tánh, không tạo, không tác. Nếu Đại Bồ Tát có khả năng biết như thật các Pháp hiện hữu là nhất tánh vô tánh, không tạo, không tác thì có thể viễn ly tất cả chấp trước. Cụ thọ thiền hiện lại Bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Bác nhã Ba-la-mật-đa như vậy khó có thể biết rõ. Phật dạy, đúng vậy. Vì Bác nhã Ba-la-mật-đa này là Pháp không thể thấy, không thể nghe, không thể biết, không thể hiểu, ly tướng chứng đắc. Cụ thọ thiền hiện lại Bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Bác nhã Ba-la-mật-đa như vậy là không thể nghĩ bàn. Phật dạy, đúng vậy. Vì sao? Bác nhã Ba-la-mật-đa như vậy chẳng thể dùng tâm để biết vì ly tướng của tâm vậy. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng sắc để biết vì ly tướng của sắc. Chẳng thể dùng thọ, tưởng, hành, thức để biết vì ly tướng của thọ, tưởng, hành, thức. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng nhãn sứ để biết vì ly tướng của nhãn sứ. Chẳng thể dùng nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ để biết vì ly tướng của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y sứ. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng sắc sứ để biết vì ly tướng của sắc sứ. Chẳng thể dùng thanh, hương, vị, súc, pháp sứ để biết vì ly tướng của thanh, hương, vị, súc, pháp sứ. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng nhãn giới để biết vì ly tướng của nhãn giới. Chẳng thể dùng sắc giới, nhãn thức giới và nhãn súc cùng các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra để biết vì ly tướng của sắc giới cho đến tướng của các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng nhãn giới để biết vì ly tướng của nhãn giới. Chẳng thể dùng thanh giới, nhãn thức giới và nhãn súc cùng các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra để biết vì ly tướng của thanh giới cho đến tướng của các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng tỉ giới để biết vì ly tướng của tỉ giới. Chẳng thể dùng hương giới, tỉ thức giới và tỉ súc cùng các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra để biết vì ly tướng của tỉ giới. Chẳng thể dùng hương giới, tỉ thức giới và tỉ súc cùng các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra để biết vì ly tướng của hương giới cho đến tướng của các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng thiệt giới để biết vì ly tướng của thiệt giới. Chẳng thể dùng vị giới, thiệt thức giới và thiệt súc cùng các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra để biết vì ly tướng của vị giới cho đến tướng của các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng thân giới để biết vì ly tướng của thân giới. Chẳng thể dùng súc giới, thân thức giới và thân súc cùng các thọ do thân súc làm duyên sanh ra để biết vì ly tướng của súc giới cho đến tướng của các thọ do thân súc làm duyên sanh ra. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng ý giới để biết vì ly tướng của ý giới. Chẳng thể dùng pháp giới, ý thức giới và ý súc cùng các thọ do ý súc làm duyên sanh ra để biết vì ly tướng của pháp giới cho đến tướng của các thọ do ý súc làm duyên sanh ra. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng địa giới để biết vì ly tướng của địa giới. Chẳng thể dùng thủy, hỏa, phong, không, thức giới để biết vì ly tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng vô minh để biết vì ly tướng của vô minh. Chẳng thể dùng hành, thức, danh sách, lục sứ, súc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não để biết vì ly tướng của hành cho đến tướng của lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng bố thí Ba-la-mật-đa để biết vì ly tướng của bố thí Ba-la-mật-đa. Chẳng thể dùng tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bác nhã Ba-la-mật-đa để biết vì ly tướng của tỉnh giới cho đến tướng của Bác nhã Ba-la-mật-đa. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng trái không nội để biết vì ly tướng của pháp không nội. Chẳng thể dùng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đội khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp. Không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh để biết vì ly tướng của pháp không ngoại cho đến tướng của pháp không không tánh tự tánh. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng chân như để biết vì ly tướng của chân như chẳng thể dùng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghi để biết vì ly tướng của pháp giới cho đến tướng của cảnh giới bất tương nghi. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng thánh đế khổ để biết vì ly tướng của thánh đế khổ chẳng thể dùng thánh đế tập, diệt, đạo để biết vì ly tướng của thánh đế tập, diệt, đạo. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng bốn tình lựu để biết vì ly tướng của bốn tình lựu chẳng thể dùng bốn vô lượng, bốn định vô sắc để biết vì ly tướng của bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng tám giải thoát để biết vì ly tướng của tám giải thoát chẳng thể dùng tám tháng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ để biết vì ly tướng của tám tháng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng bốn niệm trụ để biết vì ly tướng của bốn niệm trụ chẳng thể dùng bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo để biết vì ly tướng của bốn chánh đoạn cho đến tướng của tám chi thánh đạo. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng pháp môn giải thoát không để biết vì ly tướng của pháp môn giải thoát không chẳng thể dùng pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện để biết vì ly tướng của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng mười địa Bồ-Tát để biết vì ly tướng của mười địa Bồ-Tát. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng năm loại mắt để biết vì ly tướng của năm loại mắt. Chẳng thể dùng sáu phép thần thông để biết vì ly tướng của sáu phép thần thông. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng mười lực Phật để biết vì ly tướng của mười lực Phật. Chẳng thể dùng bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng để biết vì ly tướng của bốn điều không sợ cho đến tướng của mười tám pháp Phật bất cộng. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng pháp không quên mất để biết vì ly tướng của pháp không quên mất. Chẳng thể dùng tánh luôn luôn xã để biết vì ly tướng của tánh luôn luôn xã. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng trí nhất thiết để biết vì ly tướng của trí nhất thiết. Chẳng thể dùng trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng để biết vì ly tướng của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng tất cả pháp Môn-đa-la-ni để biết vì ly tướng của tất cả pháp Môn-đa-la-ni. Chẳng thể dùng tất cả pháp Môn-ta-ma-địa để biết vì ly tướng của tất cả pháp Môn-ta-ma-địa. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng quả dự lưu để biết vì ly tướng của quả dự lưu. Chẳng thể dùng quả nhất lai, bất hoàn, A-la-hán để biết vì ly tướng của quả nhất lai, bất hoàn, A-la-hán. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng quả vị độc giác để biết vì ly tướng của quả vị độc giác. Bây giờ, cụ thọ thiện hiện lại bạch Phật, bạch Thế Tôn. Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế, không có sự tạo tác. Phật dạy, đúng vậy. Vì các sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì sách chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì sách xứ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì nhãn giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì sách giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm viên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì nhãn giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì thanh giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm viên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì tỉ giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì hương giới, tỉ thức giới và tỉ xúc cùng các thọ do tỉ xúc làm viên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì thiệt giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm viên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì thân giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm viên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Này thiện hiện! Vì ý giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm viên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì địa giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì vô minh chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì hành, thức, danh sách, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, tương, não chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì bố thí ba la mật đa chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã ba la mật đa chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì Pháp không nội chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không rốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đổi khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không. Tánh tự tánh chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì chân như chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhì chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì bốn tình lựu chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì bốn vô lượng, bốn định vô sách chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì tám giải thoát chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì tám tháng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì bốn niệm trụ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì mười địa bồ tác chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì mười lực Phật chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại phả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì Pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì tánh luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-La-Ni chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì tất cả pháp môn Ta-Ma-Địa chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì quả dữ lưu chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được, vì quả nhất lai, bất hoàng, A-La-Háng chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì quả vị độc giác chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì tất cả hành đại Bồ-Tát chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được. Này thiện hiện! Vì các sự tạo tác và các pháp sách V.V. chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba-La-Mật-Đa như thế không có sự tạo tác.