Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 8, Quyển 181, xxxii Phẩm Khen Bát Nhã Há Tả Mười Lại nữa, Bạch Thế Tôn Vì giữ lưu hướng, giữ lưu quả vô sanh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô sanh. Nhấp lai hướng, nhấp lai quả, bớt hoàng hướng, bớt hoàng quả, à là hãng hướng, à là hãng quả vô sanh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô sanh. Vì giữ lưu hướng, giữ lưu quả vô diệt nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô diệt. Nhấp lai hướng cho đến à là hãng quả vô diệt nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô diệt. Vì giữ lưu hướng, giữ lưu quả vô tự tánh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tự tánh. Nhấp lai hướng cho đến à là hãng quả vô tự tánh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tự tánh. Vì giữ lưu hướng, giữ lưu quả vô sở hữu nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô sở hữu. Nhấp lai hướng cho đến à là hãng quả vô sở hữu nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô sở hữu. Vì giữ lưu hướng, giữ lưu quả là không nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng là không. Nhấp lai hướng cho đến à là hãng quả là không nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng là không. Vì giữ lưu hướng, giữ lưu quả vô tướng nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tướng. Nhấp lai hướng cho đến à là hãng quả vô tướng nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tướng. Vì giữ lưu hướng, giữ lưu quả vô nguyện nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô nguyện. Nhấp lai hướng cho đến à là hãng quả vô nguyện nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô nguyện. Vì giữ lưu hướng, giữ lưu quả viễn ly nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng viễn ly. Nhấp lai hướng cho đến à là hãng quả viễn ly nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng viễn ly. Vì giữ lưu hướng, giữ lưu quả tịch tịnh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng tịch tịnh. Nhấp lai hướng cho đến à là hãng quả tịch tịnh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng tịch tịnh. Vì giữ lưu hướng, giữ lưu quả bất khả đắc nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng bất khả đắc. Nhấp lai hướng cho đến à là hãng quả bất khả đắc nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng bất khả đắc. Vì giữ lưu hướng, giữ lưu quả bất khả tư nghị nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng bất khả tư nghị. Vì giữ lưu hướng, giữ lưu quả vô tri giác nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tri giác. Nhấp lai hướng cho đến à là hãng quả vô tri giác nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tri giác. Vì thế lực của giữ lưu hướng, quả giữ lưu chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng chẳng thành tựu. Thế lực của nhấp lai hướng cho đến à là hãng quả chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng chẳng thành tựu. Bạch Thế Tôn Công nương vào ý này mà nói Bát Nhã Ba La Mật Đa của Đại Bồ-Tát là Đại Ba La Mật Đa. Lại nữa, Bạch Thế Tôn Vì độc giác vô sanh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô sanh, quả vị độc giác vô sanh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô sanh. Vì độc giác vô diệt nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô diệt, quả vị độc giác vô diệt nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô diệt. Vì độc giác vô tử tánh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tử tánh, quả vị độc giác vô sở hữu nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô sở hữu, quả vị độc giác vô sở. Hữu nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô sở hữu, vì độc giác là không nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng là không, quả vị độc giác là không nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng là không, vì độc giác vô tướng nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tướng, quả vị độc giác vô tướng nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tướng, vì độc giác vô nguyện nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô nguyện, quả vị độc giác vô nguyện nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô nguyện. Vì độc giác viễn ly nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng viễn ly, quả vị độc giác viễn ly nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng viễn ly, vì độc giác tịch tịnh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng tịch tịnh, quả vị độc giác tịch tịnh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng tịch tịnh, vì độc giác bất khả đắc nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng bất khả đắc, quả vị độc giác bất khả đắc nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng bất khả đắc, vì độc giác bất khả tư nghi nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng bất khả tư nghi. Quả vị độc giác bất khả tư nghi nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng bất khả tư nghi, vì độc giác vô tri giác nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tri giác, quả vị độc giác vô tri giác nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tri giác, vì thế lực của độc giác chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng chẳng thành tựu, thế lực của quả vị độc giác chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng chẳng thành tựu. Bạch Thế Tôn Công nương vào ý này mà nói Bát Nhã Ba La Mật Đa của Đại Bồ Tát là Đại Ba La Mật Đa. Lại nữa, Bạch Thế Tôn Vì Đại Bồ Tát vô sanh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô sanh, hành Đại Bồ Tát vô sanh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô sanh, vì Đại Bồ Tát vô diệt nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô diệt, hành Đại Bồ Tát vô diệt nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô diệt, vì Đại Bồ Tát vô tự tánh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tự tánh, hành Đại Bồ Tát vô tự tánh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tự tánh, vì Đại Bồ Tát vô sở hữu nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô sở hữu Vô sở hữu nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô sở hữu, vì Đại Bồ Tát là không nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng là không, hành Đại Bồ Tát là không nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng là không, vì Đại Bồ Tát vô tướng nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tướng, hành Đại Bồ Tát vô tướng nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tướng, vì Đại Bồ Tát vô nguyện nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô nguyện, hành Đại Bồ Tát vô nguyện nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô nguyện vì Đại Bồ Tát viễn ly nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng viễn ly, hành Đại Bồ Tát viễn ly nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng viễn ly, vì Đại Bồ Tát tịch tịnh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng tịch tịnh, hành Đại Bồ Tát tịch tịnh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng tịch tịnh, vì Đại Bồ Tát bất khả đắc nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng bất khả đắc, hành Đại Bồ Tát bất khả đắc nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng bất khả đắc, vì Đại Bồ Tát bất khả tư nghị nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng bất kh khả tư nghị, vì Đại Bồ Tát vô tri giác nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tri giác, hành Đại Bồ Tát vô tri giác nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tri giác, vì thế lực của Đại Bồ Tát chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng chẳng thành tựu, thế lực của hành Đại Bồ Tát chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng chẳng thành tựu. Bạch Thế Tôn Công nương vào ý này mà nói Bát Nhã Ba La Mật Đa của Đại Bồ Tát là Đại Ba La Mật Đa. Lại nữa, Bạch Thế Tôn Vì như lại ứng chánh đặng giác vô sanh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô sanh, quả vị giác ngộ cao tột vô sanh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô sanh, vì như lại ứng chánh đặng giác vô diệt nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô diệt, quả vị giác ngộ cao tột vô diệt nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô diệt, vì như lại ứng chánh đặng giác vô tự tánh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tự tánh, quả vị giác ngộ cao tột vô tự tánh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tự tánh, vì như lại ứng chánh đặng giác vô sở hữu nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô sở hữu, quả vị giác ngộ cao tột vô sở hữu nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô sở hữu, vì như lại ứng chánh đặng giác là không nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng không, quả vị giác ngộ cao tột là không nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng không, vì như lại ứng chánh đặng giác vô tướng nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tướng, quả vị giác ngộ cao tột vô tướng nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tướng vì như lại ứng chánh đặng giác vô nguyện nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô nguyện, quả vị giác ngộ cao tột vô nguyện nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô nguyện, vì như lại ứng chánh đặng giác viễn ly nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng viễn ly, quả vị giác ngộ cao tột viễn ly nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng viễn ly, vì như lại ứng chánh đặng giác tịch tịnh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng tịch tịnh, quả vị giác ngộ cao tột tịch tịnh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng tịch tịnh, vì như lại ứng chánh đặng giác bất xả đắc nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng bất xả đắc, quả vị giác ngộ cao tột bất xả đắc nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng bất xả đắc, vì như lại ứng chánh đặng giác bất xả tương nghị nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng bất xả tương nghị, quả vị giác ngộ cao tột bất xả tương nghị nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng bất xả tương nghị, vì như lại ứng chánh đặng giác vô tri giác nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tri giác, quả vị giác ngộ cao tột vô tri giác nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tri giác, vì thế lực của như lại ứng chánh đặng giác chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng chẳng thành tựu, thế lực của quả vị giác ngộ cao tột chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng chẳng thành tựu. Bạch Thế Tôn Công nương vào ý này mà nói Bát Nhã Ba La Mật Đa của Đại Bồ-Tát là Đại Ba La Mật Đa. Lại nữa, Bạch Thế Tôn Vì tất cả Pháp vô sanh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô sanh, vì tất cả Pháp vô diệt nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô diệt, vì tất cả Pháp vô tự tánh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tự tánh, vì tất cả Pháp vô sở hữu nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô sở hữu, tất cả Pháp là không nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng không, vì tất cả Pháp vô tướng nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tướng, vì tất cả Pháp vô nguyện nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô nguyện, vì tất cả Pháp. Viễn Ly nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng Viễn Ly, vì tất cả Pháp tịch tịnh nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng tịch tịnh, vì tất cả Pháp bất xả đắc nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng bất xả đắc, vì tất cả Pháp bất xả tương nghị nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng bất xả tương nghị, vì tất cả Pháp vô tri giác nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng vô tri giác, vì thế lực của tất cả Pháp chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng chẳng thành tựu. Bạch Thế Tôn Công nương vào ý này mà nói Bát Nhã Ba La Mật Đa của Đại Bồ-Tát là Đại Ba La Mật Đa. XXXII Phẩm Hủy Bán B.A.T.N.H.A Lúc bấy giờ, cụ thỏ xá lợi tử Bạch Phật, Bạch Thế Tôn. Nếu Đại Bồ-Tát đối với Bát Nhã Ba La Mật Đa thầm thâm này có khả năng tin hiểu thì vị ấy đã xả thân ở cõi nào mà sanh vào cõi này? Bạch Thế Tôn Đại Bồ-Tát ấy phát tâm hướng đến quả vị giác ngộ cao tột đã trải qua bao lâu? Bạch Thế Tôn Đại Bồ-Tát ấy đã từng thân trận cúng dường bao nhiêu rứt như lai ứng chánh đẳng giác? Bạch Thế Tôn Đại Bồ-Tát ấy tu tập vô thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lựu, Bát Nhã Ba La Mật Đa đã trải qua bao lâu? Bạch Thế Tôn Đại Bồ-Tát ấy tin hiểu nghĩa thú của Bát Nhã Ba La Mật Đa thầm thâm ấy như thế nào? Phật dạy, này xá lợi tử Nếu Đại Bồ-Tát đối với Bát Nhã Ba La Mật Đa thầm thâm này có khả năng tin hiểu là vị ấy đã xả thân từ trong pháp hội của vô số, vô lượng, vô biên như lai ứng chánh đẳng giác ở mười phương thế giới mà sanh vào cõi này? Này xá lợi tử Đại Bồ-Tát ấy phát tâm hướng đến quả vị giác ngộ cao tộc đã trải qua vô số, vô lượng, vô biên trăm ngàn ức vô số kiếp. Này xá lợi tử Đại Bồ-Tát ấy đã từng thân cận cúng dường vô số, vô lượng, vô biên chiều như lai ứng chánh đẳng giác, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể so lường. Này xá lợi tử Đại Bồ-Tát ấy từ sơ pháp tâm thường xuyên tu tập bố thí, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lựu, bát nhã ba-la-mật-đa đã trải qua vô số, vô lượng, vô biên trăm ngàn ức vô số kiếp. Này xá lợi tử Nếu Đại Bồ-Tát thấy bát nhã ba-la-mật-đa này thì liền nghĩ là ta được thấy Phật, nghe bát nhã ba-la-mật-đa này thì liền nghĩ là ta được nghe Phật nói. Này xá lợi tử Đại Bồ-Tát ấy dùng vô tướng, vô nhị, vô sở đắc làm phương tiện, nên có khả năng tin hiểu nghĩa thú sâu xa của bát nhã ba-la-mật-đa này. Lúc bấy giờ, cụ thọ thiện hiện bạch Phật. Bạch Thế Tôn Bát nhã ba-la-mật-đa thầm thâm có ai có thể nghe, có thể thấy chăng? Phật dạy, này thiện hiện Bát nhã ba-la-mật-đa như thế, thật không có người có thể nghe, có thể thấy. Bát nhã ba-la-mật-đa như thế cũng chẳng phải là cái để nghe và chẳng phải là cái để thấy. Vì sao? Thiện hiện Sắc không nghe không thấy vì các Pháp tri động thọ, tưởng, hành, thức không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Đây thiện hiện Nhãn xứ không nghe không thấy vì các Pháp tri động nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Sắc xứ không nghe không thấy vì các Pháp tri động thanh, hương, vị, xúc. Pháp xứ không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Đây thiện hiện Nhãn giới không nghe không thấy vì các Pháp tri động, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Nhĩ giới không nghe không thấy vì các Pháp tri động, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Tỉ giới không nghe không thấy vì các Pháp tri động, hương giới, tỉ thức giới và tỉ xúc cùng các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra không nghe không. Thấy vì các Pháp tri động, thiệt giới không nghe không thấy vì các Pháp tri động, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Thần giới không nghe không thấy vì các Pháp tri động, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Ý giới không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! Tỉ giới không nghe không thấy vì các Pháp tri động, thủy, hỏa, phong, không, thức giới không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! Vô mình không nghe không thấy vì các Pháp tri động, hành, thức, danh sách, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! Bố thí Ba-la-mật-đà không nghe không thấy vì các Pháp tri động, tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lựu, bát nhã Ba-la-mật-đà không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! Pháp không nội không nghe không thấy vì các Pháp tri động, Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không rốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không nội khác, Pháp không bổn tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không bất khả đắc, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh không. Này thiện hiện! Pháp không tánh tự tánh không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! Chân như không nghe không thấy vì các Pháp tri động, Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghị không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! Pháp không nghe không thấy vì các Pháp tri động, thánh đế tập, diệt, đạo không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! 4 tỉnh lự không nghe không thấy vì các Pháp tri động, 4 vô lượng, 4 định vô sắc không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! 8 giải thoát không nghe không thấy vì các Pháp tri động, 8 thắng xứ, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! 4 niệm trụ không nghe không thấy vì các Pháp tri động, 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! Pháp môn giải thoát không không nghe không thấy vì các Pháp tri động, Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! 5 loại mắt không nghe không thấy vì các Pháp tri động, 6 phép thần thông không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! 10 lực Phật không nghe không thấy vì các Pháp tri động, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 Pháp Phật bất cộng không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! Pháp không quên mất không nghe không thấy vì các Pháp tri động, tánh luôn luôn xả không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! Trí nhất thiết không nghe không thấy vì các Pháp tri động, đạo tướng trí nhất thiết tướng trí không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! Tất cả Pháp môn Đà-la-Ni không nghe không thấy vì các Pháp tri động, tất cả Pháp môn Tam-ma-địa không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! Dự lưu không nghe không thấy vì các Pháp tri động, nhất lai, bất hoàn, à-la-hán không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! Dự lưu hướng, dự lưu quả không nghe không thấy vì các Pháp tri động, nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàn hướng, bất hoàn quả, à-la-hán hướng, à-la-hán quả không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! Độc giác không nghe không thấy vì các Pháp tri động, quả vị độc giác không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát không nghe không thấy vì các Pháp tri động, hành Đại Bồ-Tát không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! Như lai ứng chánh đẳng giác không nghe không thấy vì các Pháp tri động, quả vị giác ngộ cao tột không nghe không thấy vì các Pháp tri động. Này thiện hiện! Tất cả Pháp không nghe không thấy vì tất cả Pháp tri động. Cụ thọ thiện hiện lại bạch Phật. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ-Tát dồn chứa công hành bao lâu mới có khả năng tu học bác nhã ba-la-mật-đa thầm-thâm? Phật dạy, này thiện hiện! Đối với việc này cần phải phân biệt mà nói. Này thiện hiện! Có Đại Bồ-Tát từ sơ phát tâm, liền có khả năng tu học bác nhã ba-la-mật-đa thầm-thâm, cũng có khả năng tu học tịnh lự ba-la-mật-đa, tinh tấn ba-la-mật-đa, an nhẫn ba-la-mật-đa, tịnh giới ba-la-mật-đa, bố thí ba-la-mật-đa. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy vì có phương tiện thiện xảo nên chẳng hủy bán các Pháp. Đối với tất cả Pháp chẳng tăng chẳng giảm, Đại Bồ-Tát ấy thường chẳng xa lì hạnh ương ưng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã ba-la-mật-đa, cũng thường chẳng xa lì chư Phật Thế Tôn và các chúng Đại Bồ-Tát. Đại Bồ-Tát ấy từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, muốn đem nọc báu, lễ vật tuyệt dịu cung kính cúng dường, tôn trọng khen nợi chư Phật Thế Tôn và các Đại Bồ-Tát v.v. thành tựu như ý, cũng có khả năng ở chỗ các Đức như Lai Kia trồng các căng lành. Đại Bồ-Tát ấy tùy theo chỗ thọ thân chẳng và bào thai mẹ để sanh ra. Đại Bồ-Tát ấy tâm thường chẳng lẫn lộn với phiền não, cũng chẳng từng khởi tâm nhị thừa. Đại Bồ-Tát ấy thường chẳng xa lịa thần thông thủ thắng, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác thành thuộc hữu tình, nhiêm tình cõi Phật. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát có khả năng tu học đúng đắn bát nhã ba la mật đa thậm thâm. Này thiện hiện! Có các thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ở Bồ-Tát thừa tuy đã từng thấy nhiều Đức Phật, hoặc nhiều trăm Đức Phật, hoặc nhiều ngàn Đức Phật, hoặc nhiều trăm ngàn Đức Phật, hoặc nhiều ức Đức Phật, hoặc nhiều trăm ức Đức Phật, hoặc nhiều ngàn ức Đức Phật, hoặc nhiều trăm ngàn ức Đức Phật, hoặc nhiều trăm ngàn ức vô số Đức Phật, ở chỗ các Đức Phật cũng tu tập nhiều về bố thí, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã, nhưng vì lấy hữu sở đắc làm phương tiện nên chẳng có khả năng tu học bát nhã. Ba la mật đa thậm thâm, cũng chẳng có khả năng tu học tình lự ba la mật đa, tinh tấn ba la mật đa, an nhẫn ba la mật đa, tình giới ba la mật đa, bố thí ba la mật đa. Này thiện hiện! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy, nghe nói bát nhã ba la mật đa thậm thâm như thế, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, rời chúng đi ra. Này thiện hiện! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy chẳng chính bát nhã ba la mật đa thậm thâm này, cũng chẳng chính Phật, đã bỏ bát nhã ba la mật đa thậm thâm này, cũng trời xa các đức Phật, khiến trong chúng này cũng có hạn như thế, nghe ta nói bát nhã ba la mật đa thậm thâm này, tâm chẳng vui thích, rời chúng đi ra. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy đời trước nghe nói bát nhã ba la mật đa thậm thâm đã từng bỏ đi, đời này nghe nói bát nhã ba la mật đa như thế, do tập khí đời trước nên cũng bỏ đi. Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy đối với việc nói bát nhã ba la mật đa thậm thâm này, thân, ngữ và tâm đều chẳng hòa hợp, do việc làm này, tăng trưởng mu si, ác tuệ, tội nghiệp, do việc làm tăng trưởng mu si, ác tuệ, tội nghiệp ấy, nên nghe nói bát nhã ba la mật đa thậm thâm như thế, liền hủy bán, làm chứng ngại, vứt bỏ. Người ấy đã hủy bán, làm chứng ngại, vứt bỏ bát nhã ba la mật đa như thế, tức là đã hủy bán, làm chứng ngại vứt bỏ trí nhất thiết tướng của chiêu Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại. Người ấy do tạo tác, làm tăng trưởng và luôn chiêu cảm nghiệp thiếu chánh Phát, nên bị đọa vào Đại Điện Mục trải qua nhiều năm, hoặc nhiều trăm năm, hoặc nhiều ngàn năm, hoặc nhiều trăm ngàn năm, hoặc nhiều ức năm, hoặc nhiều trăm ức năm, hoặc nhiều ngàn ức năm, hoặc nhiều trăm ngàn ức năm, hoặc nhiều trăm ngàn ức vô số năm, ở trong Đại Điện Mục chịu các khổ lớn độc hại kịch liệt vì người ấy bị trọng tội nên ở thế giới này, từ Đại Điện Mục này đến Đại Điện Mục khác cho đến Hỏa Kiết, Thủy Kiết. Phong Kiếp chưa khởi, đến nay, vẫn còn phải chịu các đại khổ độc hại kịch liệt. Hoặc ở thế giới này khi Hỏa Kiết, Thủy Kiết, Phong Kiếp khởi, nghiệp thiếu chánh Pháp còn chưa hết vậy, sau khi chết rồi chuyển sanh vào thế giới phương khác, cùng với đồng loại này ở trong Đại Điện Mục trải qua nhiều năm, hoặc nhiều trăm năm, hoặc nhiều ngàn năm, hoặc nhiều trăm ngàn năm, hoặc nhiều ức năm, hoặc nhiều trăm ức năm, hoặc nhiều ngàn ức năm, hoặc nhiều trăm ngàn ức năm, hoặc nhiều ngàn ức vô số năm, ở trong Đại Điện Mục chịu các đại khổ độc hại kịch liệt vì người ấy bị trọng tội nên ở thế giới này, từ Đại Điện Mục này đến Đại Điện Mục khác cho đến Hỏa Kiết, Th Thủy Kiết, Phong Kiếp chưa khởi đến nay, chịu các đại khổ độc hại kịch liệt. Hoặc ở thế giới khác khi Hỏa Kiết, Thủy Kiếp, Phong Kiếp khởi, nhiệt thiếu chánh Pháp của người ấy còn chưa hết, khi chết chuyển sanh vào thế giới phương khác, cùng với đồng loại này ở trong Đại Điện Mục trải qua nhiều năm, hoặc nhiều trăm năm, hoặc nhiều ngàn năm, hoặc nhiều trăm ngàn năm, hoặc nhiều ức năm, hoặc nhiều trăm ức năm, hoặc nhiều ngàn ức năm, hoặc nhiều trăm ngàn ức năm, hoặc nhiều trăm ngàn ức năm, hoặc nhiều trăm ngàn ngàn năm, hoặc nhiều trăm ngàn ngàn năm, hoặc nhiều trăm ngàn ngàn năm, hoặc nhiều trăm ngàn ngàn năm, hoặc nhiều trăm ngàn ngàn năm, hoặc nhiều trăm ngàn ngàn năm, hoặc vô số năm, ở trong các Đại Điện Mục chịu các đại khổ độc hại kịch liệt vì người ấy bị trọng tội nên ở thế giới khác từ Đại Điện Mục này đến Đại Điện Mục khác cho đến Hỏa Kiếp, Thủy Kiếp, Phong Kiếp chưa khởi đến nay, chịu các đại khổ độc hại kịch liệt. Lần lượt như thế, trải qua các thế giới sát ở phương Đông, ở trong Đại Điện Mục chịu các đại khổ độc hại kịch liệt, lần lượt như thế trải qua các thế giới sát ở phương Nam, ở trong Đại Điện Mục chịu các đại khổ độc hại kịch liệt, lần lượt như thế trải qua các thế giới sát ở phương Tây, ở trong Đại Điện Mục chịu các đại khổ độc hại kịch liệt, lần lượt như thế trải qua các thế giới sát ở phương Bắc, ở trong Đại Điện Mục chịu các đại khổ độc hại kịch liệt, lần lượt như thế trải qua các thế. Giới sát ở hướng Đông Bắc, ở trong Đại Điện Mục Chịu các đại khổ độc hại kịch liệt, lần lượt như thế trải qua sắp các thế giới sát ở hướng Đông Nam, ở trong Đại Điện Mục Chịu các đại khổ độc hại kịch liệt, lần lượt như thế trải qua các thế giới sát ở hướng Tây Nam, ở trong Đại Điện Mục Chịu các đại khổ độc hại kịch liệt. Lần lượt như thế trải qua sắp các thế giới sát ở hướng Tây Bắc, ở trong Đại Điện Mục Chịu các đại khổ độc hại kịch liệt, lần lượt như thế trải qua sắp các thế giới sát ở phương Dưới, ở trong Đại Điện Mục Chịu các đại khổ độc hại kịch liệt, lần lượt như thế trải qua các thế giới sát ở phương Trên, ở trong Đại Điện Mục Chịu các đại khổ độc hại kịch liệt. Hoặc các thế giới khác trong mười phương kia, khi hỏa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp khởi vì nghiệp thiếu chánh pháp của kẻ ấy chưa hết, nên sau khi chết sanh vào trong Đại Điện Mục ở thế gian này, từ Đại Điện Mục này đến Đại Điện Mục khác, cho đến khi hỏa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp chưa khởi đến nay, chịu các đại khổ độc hại kịch liệt, hoặc ở thế giới này khi hỏa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp khởi vì nghiệp thiếu chánh pháp của kẻ ấy còn chưa hết, nên sau khi chết lại sanh vào thế giới khác nữa. Trải qua khắp các Đại Điện Mục trong mười phương, chịu các đại khổ độc hại kịch liệt. Hoặc ở thế giới này khi tàm tai hết, nghiệp lực thiếu chánh pháp của kẻ ấy còn sót lại chưa hết, nên sau khi chết chuyển sanh thế giới phương khác, cùng với đồng loại trong loại bàn xanh này, trải qua nhiều năm, hoặc nhiều trăm năm cho đến nhiều trăm ngàn ước vô số năm, thỏa thân bàn xanh chịu đủ khổ tàn hại bức bách. Vì tội chưa hết, nên ở thế giới khác từ nơi hiểm ác này đến nơi hiểm ác khác, cho đến khi hỏa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp chưa khởi đến nay, chịu đủ các khổ tàn hại bức bách. Vì tội chưa hết, nên ở thế giới khác từ nơi hiểm ác này đến nơi hiểm ác khác, cho đến khi hỏa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp chưa khởi đến nay, chịu đủ các khổ tàn hại bức bách. Vì tội chưa hết, nên ở thế giới khác từ nơi hiểm ác này đến nơi hiểm ác khác, cho đến khi hỏa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp chưa khởi đến nay, chịu đủ các khổ tàn hại bức bách. Lần lượt như vậy, trải sắp các thế giới khác trong mười phương thọ thân bàn xanh, chịu đủ các khổ tàn hại bức bách, hoặc ở thế giới khác trong mười phương kia, khi tam tai hoại, nhịp lực thiếu chánh pháp của người kia chưa hết, sau khi chết xanh lại vào trong loài bàn xanh ở thế giới này, từ nơi hiểm ác này đến nơi hiểm ác khác, cho đến khi hỏa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp chưa khởi đến nay, chịu đủ các khổ tàn hại bức bách, hoặc ở thế giới này khi tam tai hoại, nhịp lực thiếu chánh pháp của người kia chưa hết, sau khi chết lại xanh vào thế giới khác nữa, trải qua khắp loài bàn xanh trong mười phương, chịu đủ các khổ. Xoay vần như vậy trải qua vô số kiếp, nhịp lực của tội thiếu chánh pháp của người kia mỏng dần thoát khỏi loài bàn xanh, đọa vào loài quỷ, trải qua nhiều năm, hoặc nhiều trăm năm, hoặc nhiều ngàn năm, hoặc nhiều trăm ngàn năm, hoặc nhiều ức năm, hoặc nhiều trăm ức năm, hoặc nhiều ngàn ức năm, hoặc nhiều trăm ngàn ức năm, hoặc nhiều trăm ngàn ức vô số năm, ở trong loài ngạ quỷ, chịu đủ các khổ gầy ống, đói khát, vì tội chưa hết nên ở thế giới này, từ chống ngạ quỷ này đến chống ngạ quỷ khác, cho. Đến khi họa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp chưa khởi đến nay chịu đủ các khổ gầy ống đói khát, hoặc ở thế giới khác khi tam tai hoại, nhịp lực thiếu chánh pháp của kẻ ấy còn sóc lại chưa hết, nên sau khi chết chuyển sanh thế giới phương khác, cùng với đồng loại trong loài ngạ quỷ này trải qua nhiều năm, hoặc nhiều trăm năm, cho đến nhiều trăm ngàn ức vô số năm, ở trong loài ngạ quỷ chịu đủ các khổ gầy ống đói khát, vì tội chưa hết nên ở thế giới này, từ chống ngạ quỷ này đến chống ngạ quỷ khác, cho đến khi họa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp chưa khởi đến nay chịu đủ các khổ gầy ống đói khát, hoặc ở thế giới này khi tam tai hoại, nhịp lực thiếu chánh pháp của kẻ ấy còn sóc lại chưa hết, nên sau khi chết chuyển sanh thế giới phương khác, cùng với đồng loại trong loài ngạ quỷ này trải qua nhiều năm, hoặc nhiều trăm năm, cho đến nhiều trăm ngàn ức vô số năm, ở trong loài ngạ quỷ chịu đủ các khổ gầy ống đói khát, vì tội chưa hết nên ở các thế giới này, từ chống ngạ quỷ này đến chống ngạ quỷ khác, cho đến khi họa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp chưa khởi đến nay chịu đủ các khổ gầy ống đói khát, hoặc ở các thế giới này, từ chống ngạ quỷ này đến chống ngạ quỷ khác, cho đến khi họa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp chưa khởi đến nay chịu đủ các khổ gầy ống đói khát. Lần lực như thế, trải qua khắp các thế giới khác trong mười phương, ở trong loài ngạ quỷ, chịu đủ các khổ gầy ống đói khát, hoặc ở các thế giới khác trong mười phương kia, khi tạm tai hoại, nhiệt lực thiếu chánh pháp của người ấy còn sót lại chưa hết, sau khi chết lại sanh vào trong loài ngạ quỷ ở thế gian này, từ chống ngạ quỷ này đến chống ngạ quỷ khác, cho đến khi họa kiếp, thủy kiếp, phong kiếp chưa khởi đến nay chịu đủ các khổ gầy ống đói khát, hoặc ở thế giới này khi tạm tai hoại, nhiệt lực thiếu chánh pháp của người kia còn sót lại chưa hết, sau khi chết lại sanh vào thế giới khác, trải khắp loài ngạ quỷ trong mười phương, chịu đủ các khổ. Xoay vần như vậy, trải qua vô số kiếp, nhiệt thiếu chánh pháp còn sót lại của người kia sắp hết, tuy được làm người nhưng ở nơi hạ tiện, đó là sanh vào nhà người mù bẩm sinh, hoặc nhà chiên đà la, hoặc nhà khiên thay người, hoặc nhà làm nen chả, hoặc nhà đánh cá, đi săn, hoặc nhà lao công, hoặc nhà làm trò vui, hoặc nhà tà kiến, hoặc nhà giữ các áp lực nghi tạp nhạp, hoặc thọ thân người không có mắt, không có tai, không có mũi, không có lưỡi, không có đầu, không có chân, ung thư, dễ lỡ. Phong cuồng, điên khùng, vai gụ, lưng công, lùng xấu, tay co, chân khoẹo, các trăng khiến khuyết, bận cùng khốn khổ, bướng bỉnh không biết gì, phạm làm việc gì đều bị người khinh chê, hoặc tại chỗ sanh ra, hoặc chẳng nghe danh hiệu Phật, danh hiệu Pháp, danh hiệu Tăng, danh hiệu Bồ Tát, danh hiệu độc giác, hoặc sanh vào thế giới tối tâm, thường không có ngày đêm, chẳng thấy ánh sáng. Vì nhịp thiếu chánh Pháp của người kia đã tạo tác, tăng trưởng quá thâm trọng, nên chịu đầy đủ các khổ quả như thế, chẳng được an vui. Lúc bấy giờ, xá lợi tử bạch Phật, bạch Thế Tôn. Nhịp thiếu chánh Pháp mà người kia đã tạo tác, tăng trưởng và chiêu cảm cùng với nhịp ngũ vô gián có thể nói là tương tự chăng? Phật dạy, này xá lợi tử. Nhịp thiếu chánh Pháp của người kia rất là thô trọng, chẳng thể đem so sánh với nhịp ngũ vô gián, đó là người kia nghe nói Bác Nhã Ba-la-mật-đa thầm thâm, chẳng tin, phỉ bán, chê bai, nói là Pháp ấy chẳng phải do chư như lại ứng chánh đẳng giác diễn thuyết, chẳng phải Pháp, chẳng phải luật, chẳng phải lời giáo hún của Đại Sư. Chúng ta đối với Pháp ấy chẳng nên tu học. Người hủy bán chánh Pháp ấy, tự hủy bán Bác Nhã Ba-la-mật-đa, cũng dạy vô lượng hữu tình hủy bán, tự làm hại mình, cũng khiến người khác tự hại, tự uống thuốc độc, cũng khiến người khác uống, tự làm mất quả an vui giải thoát sanh thiên, cũng khiến người khác làm mất, tự gieo thân mình vào lửa địa ngục, cũng khiến người khác gieo mình vào lửa địa ngục, tự chẳng tin hiểu Bác Nhã Ba-la-mật-đa thầm thâm, cũng dạy người khác khiến chẳng tin hiểu Bác Nhã Ba-la-mật-đa thầm thâm, tự hảm các chuyện trong biển khổ. Này xá lợi tử! Ta đối với Bác Nhã Ba-la-mật-đa thầm thâm ấy, còn chẳng khiến người hủy bán chánh Pháp kia nghe được danh tự, cũng là vì họ mà nói. Này xá lợi tử! Đối với người hủy bán chánh Pháp kia, ta còn chẳng cho các thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, trụ Bồ Tát Thừa, nghe tên của họ, cũng là cho mắt thấy và cho ở chung. Vì sao? Xá lợi tử! Vì các người hủy bán Bác Nhã Ba-la-mật-đa thầm thâm, nên biết họ là những kẻ phá hoại chánh Pháp, đọa vào loại đen tối như loại ốc trâu, tự làm ô quế và làm ô quế kẻ khác, như đống trác thối. Nếu có người tin dùng lời nói của kẻ phá hoại chánh Pháp, cũng phải chịu các đại khổ như đã nói ở trước. Này xá lợi tử! Các người phá hoại Bác Nhã Ba-la-mật-đa thầm thâm, nên biết hạng người ấy là địa ngục, bang xanh, ngạ quỷ. Vì vậy nên, người trí chẳng nên hủy bán Bác Nhã Ba-la-mật-đa thầm thâm. Khi ấy, xá lợi tử lại bạch Phật, bạch Thế Tôn. Vì duyên cớ gì mà chỉ nói kẻ phá hoại chánh Pháp ấy đọa vào đại địa ngục, bang xanh, quỷ thú, chịu khổ lâu dài, mà chẳng nói đến thân hình tướng mạo của họ. Phật dạy, này xá lợi tử! Thôi thôi! Chẳng nên nói hình dánh và đường ác mà kẻ phá hoại chánh Pháp phải chịu trong tương lai. Vì sao? Vì nếu ta nói đầy đủ hình dáng và đường ác mà kẻ phá hoại chánh Pháp phải chịu trong tương lai, thì kẻ ấy nghe rồi kinh sợ sẽ bị thổ huyết, đến nỗi phải chết, hoặc gần chết tâm mịt mù lo lắng như trúng tên độc, thân khô héo dần, như mầm bị cắt. Sợ người kia nghe nói hủy bán chánh Pháp phải chịu thân rất khổ đau, xấu xí mà như thế, từ chút lấy sự kinh hoàng, làm mất thân mạng, ta thương Pháp họ, nên chẳng nói cho người nghe về thân hình dung mạo của kẻ phá chánh Pháp. Xá lợi tử bạch, cuối xin Thế Tôn nói hình dánh và đường ác mà kẻ phá hoại chánh Pháp phải chịu trong tương lai, để răng dạy đời sao biết phá hoại chánh Pháp sẽ bị đại khổ báo, để họ chẳng tạo tội ấy. Phật dạy, này xá lợi tử! Những điều ta đã nói ở trước đủ làm lời khuyên rõ ràng, nghĩa là các thiện nam tử, thiện nữ nhân V.V. ở đời vị lai nghe những điều ta đã nói về nghiệp phá chánh Pháp, kẻ tạo tác, làm tăng trưởng đến cùng thì đọa vào đại địa ngục, bàn sanh, quỷ giới, chịu khổ lâu dài, đủ từ cẩn thận giữ gìn, chẳng hủy chánh Pháp. Khi ấy, xá lợi tử liên bạch Phật, dạ, bạch Thế Tôn. Dạ, bạch Thiện Thệ. Các thiện nam tử, thiện nữ nhân V.V. ở vị lai có lòng tin thanh tình, nghe Phật trước đã nói nghiệp phá chánh Pháp, chiêu cảm khổ lâu dài, đủ làm lời răng dậy rò ràng, thì thà bỏ thân mạng quyết chẳng hủy bán chánh Pháp, ta khỏi phải chịu khổ ấy, trong đời vị lai. Lúc bấy giờ, cụ Thọ Thiện Hiện bạch Phật, bạch Thế Tôn. Nếu có người nghe rõ việc mà thiện nam tử, thiện nữ nhân V.V. đã nghe Phật nói về kẻ hủy bán chánh Pháp, ở đời vị lai sẽ chịu đại khổ lâu dài, nên khéo giữ gìn nhịp thân, ngữ, ý, đối với chánh Pháp chớ hủy bán, hủy hoại mà bị đòa vào ba đường ác chịu khổ lâu dài, ở trong thời gian lâu xa, chẳng thấy chiêu Phật, chẳng nghe chánh Pháp, chẳng đập chúng tăng, chẳng được sanh vào quốc độ có Phật, tuy sanh vào loại người nhưng bần cung hạ tiện, xấu xí ngu dại, thân thể chẳng đủ, những điều nói ra, chẳng ai tin theo. Cụ Thọ thiện hiện lại bạch, Bạch Thế Tôn. Sự tạo tác, tăng trưởng, chiêu cảm nghiệp thiếu chánh Pháp đâu chẳng do tạc ác ngữ nghiệp. Phật dạy, thiện hiện. Đúng vậy. Đúng vậy. Vì thật do thói quen mơ mờ của nghiệp ác ngữ, nên tạo tác, tăng trưởng chiêu cảm nghiệp thiếu chánh Pháp. Trong chánh Pháp luật tạng ta, sẽ có những người xuất gia ngu si, tuy họ tôn xưng ta là đại sư nhưng đối với bác ngã Ba-la-mật-đa thầm thâm mà ta đã nói thì hủy bán, hủy hoại. Này thiện hiện. Nên biết, nếu có người hủy bán bác ngã Ba-la-mật-đa thầm thâm, tức là hủy bán quả vị giác ngộ cao tột của chiêu Phật. Nếu có người hủy bán quả vị giác ngộ cao tột của chiêu Phật tức là hủy bán trí nhất thiết tướng của chiêu Phật trong quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu có người hủy bán trí nhất thiết tướng tức là hủy bán Phật. Nếu hủy bán Phật tức là hủy bán Pháp. Nếu hủy bán Pháp tức là hủy bán Tăng. Nếu hủy bán Tăng thì sẽ hủy bán chánh kiến thế gian. Nếu hủy bán chánh kiến thế gian thì sẽ hủy bán bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác ngã Ba-la-mật-đa, cũng sẽ hủy bán Pháp không nội, Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không rốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đổi khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm mắt. Được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh, cũng sẽ hủy bán chân như Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, bất biết gì tánh, bình đẳng tánh, ly xanh tánh, Pháp định, Pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nhiệt, cũng sẽ hủy bán thánh đế khổ, thánh đế tập, thánh đế diệt, thánh đế đạo, cũng sẽ hủy bán bốn tình lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng sẽ hủy bán tám dạy thoát, tám thắng hướng, tám tỉnh, tám tỉnh, tám t thắng hướng, chính định thứ đệ, mười biến xướng, cũng sẽ hủy bán bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, cũng sẽ hủy bán Pháp môn giải thoát không, Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, cũng sẽ hủy bán năm loại mắt, sáu phép thần thông, cũng sẽ hủy bán mươi lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, mươi tám Pháp Phật bất cộng, cũng sẽ hủy bán mươi pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã, cũng sẽ hủy bán trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng sẽ hủy bán tất cả Pháp môn Đà-la-ni, tất cả Pháp môn Tam-ma-địa. Kẻ ấy do hủy bán các công đức nên phải nhận chịu vô số, vô lượng, vô biên tội lỗi. Do người ấy nhận chịu vô số, vô lượng, vô biên tội lỗi, nên phải nhận chịu các đại địa ngục, bàn xanh, quỷ giới và vô số, vô lượng, vô biên thống khổ trong loài người. Khi ấy, cụ thọ thiện hiện lại bạch Phật, bạch Thế Tôn. Các người ngu si có bao nhiêu nhân duyên mà hủy bán bát nhã Ba-la-mật-đa thầm thâm như vậy? Phật dạy, này thiện hiện. Do bốn nhân duyên, một là bị các tà-ma mê hoạt, khiến kẻ ngu si hủy bán bát nhã Ba-la-mật-đa thầm thâm như vậy. Hai là đối với Pháp thầm thâm chẳng tin hiểu, khiến người ngu si hủy bán bát nhã Ba-la-mật-đa thầm thâm như vậy. Ba là chẳng siêng năng tin tấn, bám chặt ngũ quẩn, bị các ác tri thức chi phối, khiến người ngu si hủy bán bát nhã Ba-la-mật-đa thầm thâm như vậy. Bốn là ông nhiều sân hận, ưa làm việc ác, hay ưa tự cao, khinh chê người khác, khiến người ngu si hủy bán bát nhã Ba-la-mật-đa thầm thâm như vậy. Này thiện hiện, do đầy đủ bốn nhân duyên như thế, nên những người ngu si hủy bán bát nhã Ba-la-mật-đa thầm thâm như vậy.