Home Page
cover of kinhdaibatnha (400)
kinhdaibatnha (400)

kinhdaibatnha (400)

Phuc Tien

0 followers

00:00-37:24

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech

Audio hosting, extended storage and much more

AI Mastering

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 16 Quyển 400 LXXVII Phẩm BOTAT Pháp Dũng 02 Lại nữa, Thiện Nam Tử Thí như các loại hình tướng bóng sáng thấy có giao động chuyển biến sai khác Này Thiện Nam Tử Theo ý ông thì sao? Bóng sáng như thế là từ đâu đến, đi về đâu? Thường đề đáp Bóng sáng chẳng thật, thì sao có thể nói có chỗ đến đi? Bồ Tát Pháp Dũng nói với thường đề Đúng vậy Đúng vậy Đúng như lời ông nói, nếu ai chấp bóng sáng có đến đi, thì nên biết người ấy ngu si vô trí Nếu bảo như lai ứng chánh đặng giác có đến có đi thì cũng như thế, nên biết người ấy ngu si vô trí Vì sao? Này Thiện Nam Tử Vì tất cả như lai ứng chánh đặng giác chẳng thể nương vào sát thân mà thấy Như lai tức là Pháp thân Này Thiện Nam Tử Pháp thân như lai tức là chân như Pháp giới của các Pháp Chân như của Pháp giới đã chẳng thể nói có đến có đi, thì Pháp thân như lai cũng như thế, không đến, không đi Lại nữa, Thiện Nam Tử Như ảo thành hiện có các thứ vật loại, vật loại ấy tạm có rồi hoàng không? Này Thiện Nam Tử Theo ý ông thì sao? Ảo thành ấy có vật loại, thì vật loại ấy từ đâu đến, rồi đi về đâu? Thường Đệ đáp Vật loại của ảo thành ấy đều chẳng phải thật có thì sao có thể nói có chỗ đến, có chỗ đi? Bồ Tát Pháp Dũng nói với Thường Đệ Đúng vậy Đúng vậy Đúng như lời ông nói, nếu người chấp các vật loại ảo thành có đến đi, nên biết kẻ ấy ngu si vô trí Nếu bảo như lai ứng chánh đặng giác có đến có đi, cũng giống như thế, nên biết kẻ ấy ngu si vô trí Vì sao? Này Thiện Nam Tử Tất cả như lai ứng chánh đặng giác chẳng thể nương vào sát thân mà thấy Như lai tức là Pháp thân Này Thiện Nam Tử Pháp thân như lai tức là chân như Pháp giới của các Pháp Chân như Pháp giới đã chẳng thể nói có đến có đi, thì Pháp thân như lai cũng giống như thế, không đến, không đi Lại nữa, Thiện Nam Tử Như việc biến hóa của chiêu như lai ứng chánh đặng giác tạm có rồi không? Này Thiện Nam Tử Theo ý ông thì sao? Các sự biến hóa ấy từ đâu đến, đi về đâu? Thường Đệ đáp Các sự biến hóa đều chẳng phải thật có, thì sao có thể nói có chỗ từ đó đến và có chỗ đi? Bồ Tát Pháp Dũng nói với Thường Đệ Đúng vậy Đúng vậy Đúng như lời ông nói, người nào chấp sự biến hóa có đến có đi, thì nên biết kẻ ấy ngu si vô trí Nếu gọi như lai ứng chánh đặng giác có đến có đi thì cũng giống như thế, nên biết người ấy ngu si vô trí Vì sao? Này Thiện Nam Tử Vì tất cả như lai ứng chánh đặng giác chẳng thể nương vào sát thân mà thấy Như lai tức là Pháp thân Này Thiện Nam Tử Pháp thân như lai tức là chân như Pháp giới của các Pháp Chân như Pháp giới đã chẳng thể nói có đến có đi thì Pháp thân như lai cũng giống như vậy, không đến, không đi Lại nữa, Thiện Nam Tử Như người trong mộng thấy có chư Phật, hoặc một vị, hoặc mười vị, hoặc trăm vị, hoặc ngàn vị cho đến vô số Người ấy khi tỉnh mộng rồi, điều đã thấy đều không? Này Thiện Nam Tử Theo ý ông thì sao? Phật đã thấy trong mộng là từ đâu đến và đi về đâu? Thường đề đáp Điều thấy trong mộng đều là hư vọng, hoàn toàn chẳng thật có thì sao có thể nói có chỗ đến đi? Bồ Tát Pháp dũng nói với thường đề Đúng vậy Đúng vậy Đúng như lời ông nói, người chấp điều mộng thấy có đến có đi thì nên biết người ấy ngu si vô trí Nếu gọi như lai ứng chánh đặng giác có đến có đi thì cũng giống như thế, nên biết người ấy ngu si vô trí Vì sao? Này Thiện Nam Tử Vì tất cả như lai ứng chánh đặng giác chẳng thể nương vào sát thân mà thấy Như lai ấy tức Pháp thân Này Thiện Nam Tử Pháp thân như lai tức là chân như Pháp giới của các Pháp Chân như Pháp giới đã chẳng thể nói có đến có đi thì Pháp thân như lai cũng giống như thế, không đến, không đi Lại nữa, Thiện Nam Tử Tất cả như lai ứng chánh đặng giác nói tất cả Pháp như mộng thấy, như sự biến hóa, như ảo thành, như bóng sáng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như trò huyển, như bóng nắng đều chẳng phải thật có Nếu đối với Pháp nghĩa sâu xa mà chư Phật đã nói như thế chẳng biết như thật, chấp thân như lai lại danh là sát, có đến có đi, thì nên biết kẻ ấy mê mùi Pháp tánh, ngu si vô trí, lưu chuyển các thú, chịu khổ sanh tử, xa lì bát nhã ba la mật đa, cũng lại xa lì tất cả Phật Pháp Nếu đối với Pháp nghĩa sâu xa mà chư Phật đã dạy như thế, có khả năng biết như thật, chẳng chấp thân Phật lại danh là sát, cũng chẳng gọi Phật có đến có đi, thì nên biết kẻ ấy đối với Pháp nghĩa sâu xa mà Phật đã dạy rõ biết như thật, chẳng chấp các Pháp có đến có đi, có sanh có diệt, có nhiễm có tình Do chẳng chấp nên có thể hành bát nhã ba la mật đa, cũng có thể xuyên tu tất cả Phật Pháp, như thế là gần gũi sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột, cũng gọi là đệ tử chân tình của như lai Chẳng bao giờ hư thọ vật cúng dường của quốc dân mà có thể làm ruồng phước tốt cho tất cả, xứng đáng nhận độ cúng dường của người, trời trong thế gian Lại nữa, thiện nam tử Như trong biển lớn có các trân bão, trân bão chẳng phải từ mười phương đến, cũng chẳng phải hữu tình ở trong đó tạo ra, cũng chẳng phải các báo này không có nhân duyên xanh Nhưng vì sức thiện căng của các hữu tình, nên khiến trong biển có các báo xanh, khi báo ấy xanh ngương vào sức nhân duyên hòa hợp mà có, chứ không từ đâu đến, khi báo ấy diệt cũng không đi về đâu trong mười phương, chỉ vì sức thiện căng của hữu tình hết, khiến báo kia diệt mất Vì sao? Vì các pháp hữu vi, duyên hiệp thì xanh, duyên lị thì diệt, trong đó hoàn toàn không có ai xanh, ai diệt Vì vậy, các pháp không đến, không đi, thân của chư Như Lai cũng như thế, ở trong mười phương, không từ đâu đến, cũng chẳng phải ở trong đó có người tạo tác, cũng chẳng thể nói không có nhân duyên xanh Nhưng vì nương vào sự tu hành tình hạnh viên mãng sẵn có làm nhân duyên và vì nương vào nghiệp tu thấy Phật trước kia của hữu tình đã thành thuộc cho nên có thân Như Lai xuất hiện ở đời Khi thân Phật diệt, cũng không đi về đâu trong mười phương, chỉ do sức nhân duyên hòa hợp đã hết liền diệt Vì vậy, chư Phật không đến, không đi Lại nữa, thiện nam tử Thí như cây đàn không hầu nương vào các loại nhân duyên hòa hợp mà có tiếng xanh, nhân duyên của tiếng ấy là cái cần, cái ống, khe hở, cái trục, sợi dây v, v, tác ý của nhạc công Như vậy, từng yếu tố một chẳng có thể xanh tiếng, khi hòa hợp lại, tiếng nó mới phát, tiếng ấy phát xanh không từ đâu đến, khi diệt đi, không đi về đâu Này thiện nam tử Thân của chư Như Lai cũng giống như thế, nương vào các thứ nhân duyên mà xanh, nhân duyên của thân ấy là vô lượng phước đức, trí tuệ và thiện căng tu thấy Phật của các hữu tình đã thành thuộc Như vậy, từng yếu tố một chẳng có thể xanh thân, khi hòa hợp lại, thân ấy mới xanh, thân đã xanh ấy không từ đâu đến, khi diệt chẳng đi về đâu Này thiện nam tử Đối với tướng không đến đi của Như Lai ứng chánh đẳng giác, người nên biết như thế Theo đạo lý này, thì đối với tướng không đến không đi của tất cả Pháp cũng biết như thế Này thiện nam tử Nếu đối với Như Lai ứng chánh đẳng giác và tất cả Pháp có thể như thật biết không đến, không đi, không xanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh thì nhất định có khả năng tu hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, phương tiện thiện xảo, quyết chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột Khi Đại Bồ Tát Pháp Dũng vì Đại Bồ Tát Thượng Đề nói tướng vô lai, vô khứ của Chư Như Lai ứng chánh đẳng giác, minh hành viên mãn, thiện thệ, thế gian giải, vô thường trượng phu, điều người sĩ, thiên nhân sư, Phật, bạc gia Phạm, khiến cho thế giới tam thiên đại thiên kia, tất cả đại địa, các núi, biển lớn và các thiên cung, sáu thứ biến động, các cung điện của ma đều mất ánh sáng, cây cỏ núi rừng xanh hoa trái mùa đều hướng về chỗ Đại Bồ Tát Pháp Dũng, trên không cũng mưa xuống các loại hương hoa. Khi ấy, trời Đế Thích, Tứ Đại Thiên Vương và các chúng trời ở trên không trung liền dùng các loại hương hoa vi diệu cõi trời Đại Cúng Dường Đại Bồ Tát Pháp Dũng, xong rồi lại cầm các thứ hương hoa vi diệu cõi trời Đại Cúng Dường Bồ Tát Thượng Đề và thưa. Chúng con nhờ Đại sĩ được nghe giáo Pháp thắng nghĩa như thế. Tất cả người chấp thân kiến ở thế gian nghe Pháp ấy rồi, có thể xả chấp trước thầy đều trụ ở ngôi vị nang phục. Bây giờ, Đại Bồ Tát Thượng Đề thưa với Đại Bồ Tát Pháp Dũng. Do nhân duyên gì khiến cho tất cả đại địa, các núi, biển lớn ở thế giới này, sáu loại biến động và hiện các loại tướng hy hữu? Bồ Tát Pháp Dũng nói với Thượng Đề. Do tôi trả lời câu hỏi của Ngài về tướng vô khứ, vô lai cũng như lai ứng chánh đẳng giác mà ở trong hội này có tám ngàn chúng sanh đều chứng đắc vô sanh Pháp nhẫn. Lại có tám mươi triệu chúng sanh đều phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột. Lại có tám vàng bốn ngàn chúng sanh xa lia trận cấu, đối với các Pháp, sanh Pháp nhãn thanh tịnh. Do nhân duyên ấy khiến cho tất cả đại địa, các núi, biển lớn ở trong thế giới này sáu thứ biến động và hiện ra các tướng hy hữu. Bồ Tát Thượng Đề nghe vậy rồi, mừng vui nhảy nhót, nghĩ thế này, ta này đã được thiện lợi lớn, đó là do ta hỏi Bồ Tát Pháp Dũng mà làm cho các hữu tình được nghe bác nhã Palamuddha sâu xa, nói về tướng vô khứ, vô lai cũng như lai ứng chánh đẳng giác như thế, khiến số đông như vậy đạt lợi ít lớn. Ta nhờ thiện căng thù thắng như thế, có thể đủ để thành tự sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột. Đối với quả vị giác ngộ cao tột, ta không còn nghi ngại và lo lắng gì nữa. Ở đời vị lai, ta nhất định thành như lai ứng chánh đẳng giác, lợi ít an lạc cho vô lượng hữu tình. Nghĩ như thế rồi vui mừng nhảy nhót, vọt lên hư không cao bằng bảy cây đa la. Lại nghĩ thế này, ta nên lấy gì để cúng giường Đại sư Bồ-Tát Pháp Dũng để đền cái ơn đã vì ta nói Pháp? Khi ấy, trời đế thích biết tâm niệm ấy, hóa làm vô lượng hương hoa vi diệu, muốn dân cho Bồ-Tát thường đệ thương. Thưa Đại sĩ bây giờ xin ngại thương xót con để nhận những hoa này để đền cúng giường Bồ-Tát Pháp Dũng. Đại sĩ nên thọ nhận đồ cúng giường của chúng con, chúng con nay hỗ trợ cho Đại sĩ thành tự công đức. Vì sao? Vì nhờ Đại sĩ mà vô lượng trăm ngàn hữu tình chúng con đạt được lợi ích lớn, đó là chắc chắn sẽ chứng sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột. Đại sĩ nên biết, có các người luôn vì tất cả hữu tình, trải qua vô lượng, vô số đại kiếp chịu các khổ nhọc như Đại sĩ rất là khó gặp. Vì vậy, nay xin nhận đồ cúng giường của con. Bây giờ, Đại Bồ-Tát Thượng Đề nhận hương hoa ví diệu của trời đế thích, đại cúng giường Đại Bồ-Tát Pháp Dũng rồi, từ trên không xuống, đảnh lễ sát chân, chấp tay cung kính Bạch. Bạch Đại Sư Từ ngày hôm nay, tôi nguyện đem thân mạng phụng sự Đại Sư để hầu ngày sai bảo. Nói như thế rồi, chấp tay đứng trước Đại Bồ-Tát Pháp Dũng. Khi ấy, nữ trưởng giả và các quyến thuộc cung kính chấp tay Bạch với Thượng Đề. Từ nay chúng con cũng đem thân mạng phụng sự hầu ngài, xin ngài thương xót chấp thuận, nhờ thiện trăng này nguyện sẽ đạt được Pháp Thù Tháng Đồng với sở chứng của ngài như thế, nguyện đợi tương lai thường thân cận ngài, thường theo hầu ngài, cúng giường chiêu Phật và chiêu Bồ-Tát Đồng tu phạm hành. Bồ-Tát Thượng Đề liền đáp lời họ. Các người chí thành theo ta thì phải tuân theo sự dạy bảo của ta, ta sẽ chấp thuận. Nữ trưởng giả thưa với Thượng Đề Chúng con thành tâm theo ngài, tuân theo sự dạy bảo của ngài. Khi ấy, Bồ-Tát Thượng Đề liền khiến nữ trưởng giả và các quyến thuộc đều dùng các thứ trang nghiêm vi diệu mà tự trang sức và mang 500 xe đẹp bằng bẫy báu và các đồ cúng giường cùng lúc dân lên Bồ-Tát Pháp Dũng, thưa! Thưa Đại sư! Tôi đem nữ trưởng giả, các thứ như thế dân cúng Đại sư, xin ngài tự bi vì tôi nạp thọ. Khi ấy, Trời Đế thích khen Thượng Đề. Hay thay! Hay thay! Đại sĩ mới có thể xả thí như thế, Pháp của Đại Bồ-Tát là nên xả thí tất cả sở hữu. Nếu Đại Bồ-Tát có thể học xả thí tất cả như thế thì mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Nếu đối với Pháp Sư có thể thực hiện việc cung kính cúng giường như thế, không chút nuối tiếc thì quyết định được nghe phương tiện thiện xảo Bát Nhã-Ba-La-Mật-đa sâu xa. Như Lai ứng chánh đẳng giác quá khứ khi tinh trần tu học đạo Bồ-Tát, cũng vì thỉnh vấn phương tiện thiện xảo Bát Nhã-Ba-La-Mật-đa sâu xa mà xả các sở hữu, do đó đã chứng sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột. Khi ấy, Bồ-Tát Pháp Dũng muốn khiến cho thiện trăng đã gieo trồng của Bồ-Tát Thượng Đề được viên mãn, nên nhận nữ trưởng giả và các quyến thuộc, năm trăm cổ xe báu cùng các đồ cúng giường, nhận song hoàng thí cho Bồ-Tát Thượng Đề. Bồ-Tát Pháp Dũng thuyết Pháp đã lâu, mặt trời sắp lặn, biết chúng mệt mỏi, rời tòa sư tử vào lại trong cung. Bây giờ, Đại Bồ-Tát Thượng Đề đã thấy Đại Bồ-Tát Pháp Dũng trở lại cung rồi, bèn nghĩ thế này, ta vì Pháp cho nên đến đây, chưa nghe chánh Pháp thì chẳng nên ngồi, nằm, ta chỉ nên đứng, đi đúng oai nghi để đợi Đại sư Bồ-Tát Pháp Dũng ra khỏi cung, sẽ tuyên thuyết Pháp yếu. Bồ-Tát Pháp Dũng đã vào cung rồi, trải qua thời gian bảy năm, nhất tâm bất loạn, dù hí vô lượng, vô số pháp môn tama địa của Bồ-Tát, an trụ vô lượng, vô số phương tiện thiện xảo bát nhã ba la mật đa sâu xa. Bồ-Tát thường đề xuất trong bảy năm, chẳng ngồi, chẳng nằm, chỉ đi, chỉ đứng, chẳng mà ngủ nghỉ, chẳng nhớ ngày đêm, chẳng quản mệt mỏi, chẳng nghĩ ăn uống, chẳng ngại lạnh nóng, chẳng duyên trong ngoại, chẳng từng phát khởi dục nhuế hại v.v. và tất cả phiền não triền tấu khác, chỉ nghĩ thế này, khi nào Bồ-Tát Pháp Dũng từ tama địa xuất, ta và quyến thuộc phải trải pháp tòa, rưới quát mặt đất, gãi các hương hoa. Bồ-Tát Pháp Dũng sẽ lên tòa này tuyên thuyết phương tiện thiện xảo bát nhã ba la mật đa và pháp yếu khác. Trong khi đó, nữ trưởng giả và các quyến thuộc cũng suốt bảy năm, chỉ đi, chỉ đứng, chẳng rời sở niệm, đều nòi theo thường đề, tới lui theo ngày chưa tình rời bỏ. Bây giờ, Đại Bồ-Tát thường đề tin cần như thế trải qua bảy năm rồi, bỗng nhiên nghe có tiếng trên không bão. Này thiện nam tử! Sau bảy ngày nữa, Bồ-Tát Pháp Dũng sẽ ra khỏi định, ở trong thành này tuyên thuyết chánh pháp. Bồ-Tát thường đề nghe tiếng trên không rồi, mừng vui nhảy nhóc, nghĩ thế này, này ta sẽ vì Bồ-Tát Pháp Dũng trải bày trang nhiên pháp tòa sư tử, rưới quát mặt đất, gãi hương hoa vi diệu thỉnh đại sư của ta, lên tòa này, vì chúng tuyên thuyết phương tiện thiện xảo bát nhã ba la mật đa sâu xa và pháp yếu khác. Bồ-Tát thường đề nghĩ như thế rồi cùng với nữ trưởng giả và các quyến thuộc bày trải tòa sư tử bằng bảy báo. Khi ấy, nữ trưởng giả và các quyến thuộc mỗi người cởi một chiếc áo đẹp nhất nơi thân, vì pháp sư nói pháp trải chồng lên tòa. Bồ-Tát thường đề đã trải tòa xong, tìm nước trưới mặt đất nhưng chẳng có. Vì sao? Vì ác ma đã che giấu nước trong ngoại thành, khiến chẳng hiện. Ma nghĩ thế này, Bồ-Tát thường đề tìm nước chẳng được, thì sầu khổ não mệt nhọc, mòn mỏi, tâm mê mùi chuyển đổi thì đối với quả vị giác ngộ cao tột, thiện căng chẳng tăng, trí tuệ chẳng chiếu, đối với trí nhất thiết mà có sự tri trệ, thì chẳng có thể làm trống cảnh của ta được. Bồ-Tát thường đề dùng đủ các thứ phương tiện để tìm nước mà không được, nghĩ thế này, ta nên chích thân ra máu để rưới đất chớ để bụi bay lên làm bẩn đại sư ta. Nay thân này của ta nhất định sẽ hư rã, thì dùng cái thân hương nguy như thế để làm gì? Ta từ vô thị đến nay, lưu chuyển sanh tử thường vì ngũ dục làm tan mất thân mạng nhưng chưa từng vì chánh pháp mà xả thân. Vì vậy, nay phải chích thân ra máu. Nghĩ như thế rồi, liền cầm dao bén chích khắp thân mình ra máu để rưới đất. Khi ấy, nữ trưởng giả và các quyến thục cũng nói theo thường đề chích máu rưới đất. Bồ-Tát thường đề, nữ trưởng giả v.v. mọi người vì pháp nên chích thân mình ra máu mà thậm chí chẳng khởi một tâm niệm nào khác. Khi ấy, các ác ma chẳng còn cơ hội, cũng chẳng có thể làm trở ngại việc tu thiện phẩm vì tâm của thường đề v.v. giọng mảnh kiên quyết. Khi ấy, trời đế thích chứng kiến sự việc này rồi, nghĩ thế này, Bồ-Tát thường đề, nữ trưởng giả v.v. rất là hy hữu. Do nhân duyên thương pháp, trọng pháp đến nổi chích sắp toàn thân ra máu vì pháp sư nói pháp mà rưới khắp mặt đất chẳng hề phát khởi một tâm niệm khác, khiến lũ ác ma trình tiền chẳng có cơ hội, cũng chẳng có thể làm trở ngại việc tu thiện phẩm. Lạ thay, đại sĩ! Chỉ ngài mới có thể mang áo giáp thệ nguyện rộng lớn kiên cố như thế, vì muốn lợi lạc tất cả hữu tình, đem tâm thuần tình, chẳng đoái thân mạng, cầu quả vị giác ngộ cao tột, thương pháp thệ nguyện, ta vì cứu giúp tất cả hữu tình trầm luôn sanh tử chịu vô lượng, vô biên nỗi khổ to lớn về thân và tâm mà cầu quả vị giác ngộ cao tột, sự việc nếu chưa thành thì quyết không lùi bỏ. Khi ấy, trời đế thích nghĩ như thế rồi, liền biến máu chảy ra từ thân của thường đệ V, V, tất cả đều thành nước thơm chiên đàn, làm cho chỗ đất đã rưới, bốn phía quanh pháp tòa mỗi bên rộng ngót một trăm do tuần, đều có mùi thơm chiên đàn cõi trời rất kỳ lạ, tối tháng chẳng thể nghĩ bàn. Khi ấy, trời đế thích làm việc ấy rồi, khen nợ thường đệ. Hay thay! Hay thay! Chiến nguyện của đại sĩ kiên cố khó chuyển, tinh tấn giọng mảnh, chẳng thể nghĩ bàn, sự ái trồng cầu pháp rất là cao cả. Như lai ứng chánh đẳng giác quá khứ cũng do chiến nguyện kiên cố, giọng mảnh tinh tấn, ái trồng cầu pháp tu hành phạm hành thanh tịnh của Bồ Tát mà chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nay đây, chiến nguyện của đại sĩ tinh tấn ái trồng cầu pháp như thế cũng nhất định sẽ chứng đắc sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột. Lúc bấy giờ, Bồ Tát thường đệ lại nghĩ thế này, ta này đã vì Bồ Tát Pháp Dũng trải bày pháp tòa sư tử bằng bảy báu, quét trưới mặt đất, làm cho vô cùng thơm tho thanh khiết, làm thế nào để có các hương hoa vi diệu để trải quanh bốn bên pháp tòa, trang nghiêm khu đất và để khi đại sư thăng tòa thuyết pháp, ta có để mang rải cúng dương. Khi ấy, trời Đế Thích biết ý nghĩ đó, liền biến hóa ra hương hoa vi diệu, số lượng bằng ngàn hộp của nước Ma Kiệt Đa, cùng kính dân lên Bồ Tát thường đệ, và sai quyến thuộc cùng mang cúng dương. Khi ấy, thường đệ nhận hoa do trời Đế Thích hiến tặng rồi, phân làm hai phần, trước tiên mang một phần cùng các quyến thuộc trải quanh bốn phía pháp tòa để trang nghiêm khu đất, phần còn lại để khi đại sư thăng tòa thuyết pháp thì sẽ đem rải cúng. Lúc bấy giờ, Đại Bồ Tát Pháp Dũng sau bảy ngày, dù hí môn tam ma địa rồi, an tường xuất định, vì thuyết bác nhã Ba-la-mật-đa cho vô lượng trăm ngàn quyến thuộc vây quanh nên ra khỏi cung lên tòa sư tử, nhiễm nhiên ngồi giữa đại chúng. Bồ Tát thường đệ khi được chim ngưỡng Đại Bồ Tát Pháp Dũng lần nữa, mừng vui nhảy nhót, thân tâm khoái lạc, giống như bí sô gắn chặt tâm niệm vào một cảnh bỗng nhiên được nhập tầng thiền thứ ba, liền cùng với quyến thuộc mang phần hương hoa vi diệu còn dành lại trước đây, đại dân cúng dường, đã cúng dường rồi, đảnh lệ sát chân, nhỉu quanh bên mặt ba vọng luôn ngồi một bên. Lúc bấy giờ, Đại Bồ Tát Pháp Dũng nói với Đại Bồ Tát thường đệ, Này thiện nam tử, hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, và suy nghĩ chính chắn, ta sẽ vì ông mà tuyên thuyết bác nhã ba la mật đa. Thường đệ thưa, dạ xin ngài giảng nói, chúng tôi muốn nghe. Bồ Tát Pháp Dũng nói với thường đệ, Này thiện nam tử, vì tất cả Pháp bình đẳng cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng bình đẳng, vì tất cả Pháp viễn ly cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng viễn ly, vì tất cả Pháp bất động cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng bất động, vì tất cả Pháp vô niệm cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô niệm, vì tất cả Pháp vô ý cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô ý, vì tất cả Pháp không lo sợ cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng không lo sợ, vì tất cả Pháp nhất vị cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng nhất vị, vì tất cả Pháp không giới hạn cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng không giới hạn, vì tất cả Pháp vô sanh cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô sanh, vì tất cả Pháp vô diệt cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô diệt, vì Thái hư không vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì nước biển lớn vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì diệu cao sân vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì núi diệu cao hùng vĩ cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng hùng vĩ, vì Thái hư không vô phân biệt cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô phân biệt. Này thiện nam tử! Vì sắc vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì thọ, tưởng, hành, thức vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì nhãn xứ vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì sắc xứ vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì nhãn giới vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì sắc giới vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì nhãn thức giới vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì nhãn xúc vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì các họ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì các họ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì địa giới vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì nhân duyên vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì các Pháp từ duyên sanh ra vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì vô minh vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì hành, thức, danh sách, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, Này thiện nam tử! Vì bố thí ba la mật đa vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, phương tiện thiền xảo, dự nguyện, lực, trí ba la mật đa vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, Vì pháp không nội vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nỉa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không trốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đổi xác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không, tánh tự tánh vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, Vì chân như vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, pháp định, pháp trụ, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghị vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, Vì 4 niệm trụ vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, Vì thánh đế khổ vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì thánh đế tập, diệt, đạo vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, Vì đạo nghiệp 10 điều thiện vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì tu thế giới vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, Vì 4 tỉnh lượng vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì 4 vô lượng, 4 định vô sắc vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, Vì 8 giải thoát vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì 8 thắng xứ, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, Vì pháp môn giải thoát không vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, Vì pháp môn đà la ni vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì pháp môn tam mà địa vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, Vì 10 địa bồ tát vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, Này thiện 5 tử Vì 5 loại mắt vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì 6 phép thần thông vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, Vì 10 lực phật vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp phật bất cộng vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, Vì pháp không quên mất vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì tánh lung lung xã vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, Vì trí nhất thiết vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì trí đạo tướng trí nhất thiết tướng vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, Vì 32 tướng đại sĩ vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì 80 vẻ đẹp phụ thuộc vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, Vì quả dữ lưu vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì quả nhất lai, bất hoàng, à la háng, quả vị độc giác vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, Vì tất cả hạnh đại bồ tát vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, Vì tất cả pháp hữu lậu vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì tất cả pháp vô lậu vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, Vì tất cả pháp hữu vi vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì tất cả pháp vô vi vô biên cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng vô biên, vì kim cương dụ bình đẳng cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng bình đẳng, vì tất cả pháp không hoại cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng không hoại, vì tất cả pháp không tạp nhiễm cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng không tạp nhiễm, vì tất cả pháp không sai biệt cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng không sai biệt, vì tự tánh các pháp chẳng thể nắm bắt được cho nên nên biết tự tánh bác nhã ba la mật đa cũng chẳng thể nắm bắt được, vì các pháp không có sở hữu bình đẳng cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa không có sở hữu cũng bình đẳng, vì các pháp không có sự tạo tác cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng không có sự tạo tác, vì các pháp chẳng thể nghĩ bàn cho nên nên biết bác nhã ba la mật đa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Lúc bấy giờ, Đại Bồ Tát thường đều nghe nói cú nghĩa sai biệt của bác nhã ba la mật đa, liền ngay trước pháp tòa đắc sáu mươi ức pháp môn Tama Địa, đó là Tama Địa chư pháp bình đẳng, Tama Địa chư pháp viễn ly, Tama Địa chư pháp bất động, Tama Địa chư pháp vô niềm, Tama Địa chư pháp vô úy, Tama Địa chư pháp vô cụ, Tama Địa chư pháp nhất vị, Tama Địa chư pháp vô tế, Tama Địa chư pháp vô sanh, Tama Địa chư pháp vô diệt, Tama Địa hư không v Tama Địa dịu cao sơn vô biên, Tama Địa dịu cao sơn nghiêm hảo, Tama Địa như hư không vô phân biệt, Tama Địa các quẩn sắc v. v. vô biên, Tama Địa các khứ nhãn v. v. vô biên, Tama Địa các khứ sắc v. v. vô biên, Tama Địa các giới nhãn v. v. vô biên, Tama Địa các giới sắc v. v. vô biên, Tama Địa các giới nhãn thức v. v. vô biên, Tama Địa các nhãn khúc v. v. vô biên, Tama Địa các thọ do nhãn khúc làm duyên sanh ra v. v. vô biên Tama Địa địa giới v. v. vô biên, Tama Địa nhân duyên v. v. vô biên, Tama Địa các pháp từ duyên sanh ra v. v. vô biên, Tama Địa các chi duyên khởi vô biên, Tama Địa các ba la mật đa vô biên, Tama Địa nhất thiết không vô biên, Tama Địa chân như các pháp v. v. vô biên, Tama Địa pháp phần bồ đề vô biên, Tama Địa các thánh đế vô biên, Tama Địa các đạo nghiệp thiện vô biên, Tama Địa thế giới tu vô biên, Tama Địa tịnh lự, vô lượng, vô lượng, vô lượng, vô sắc vô biên, Tama Địa giải thoát thắng phiếu v. v. đến biến phiếu vô biên, Tama Địa môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện vô biên, Tama Địa môn tổng trì, đẳng trì vô biên, Tama Địa các địa bồ tát vô biên, Tama Địa năm loại mắt, sáu phép thần thông vô biên, Tama Địa các lực, vô úy, vô ngại giải, đại tử, bi, khỉ, xã, pháp phật bất cộng vô biên, Tama Địa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã vô biên, Tama Địa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô biên, Tama Địa các tướng vẽ đẹp phụ thuộc vô biên, Tama Địa thanh văn thừa vô biên, Tama Địa độc giác thừa vô biên, Tama Địa vô thường thừa vô biên, Tama Địa pháp hữu lậu, vô lậu vô biên, Tama Địa pháp hữu vi, vô vi vô biên, Tama Địa kim cương dụ bình đẳng vô biên, Tama Địa các pháp không hoại, Tama Địa các pháp không tạp nhỉnh, Tama Địa các pháp không sai biệt, Tama Địa tự tánh các pháp chẳng thể nắm bắt được, Tama Địa các pháp không sở hữu, bình đẳng, Tama Địa các pháp không sở tác, Tama Địa các pháp chẳng thể nghĩ bàn. Đắt 600.000 môn Tama Địa như thế Bồ Tát thường đệ đã đắt 600.000 pháp môn Tama Địa như thế tức thời hiện thấy như lai ứng chánh đẳng giác hiện tại có đại chúng thanh văn, Bồ Tát vây quanh trong hàng hạ sa số thế giới tam thiên đại thiên ở đông, tây, nam, bắc, bốn phía trên dưới nhiều như các sông hàng, dùng danh như thế, câu như thế, chữ như thế, lý thú như thế, vì các đại Bồ Tát tuyên thuyết bác nhã Ba La Mật Đà, nhiều nầy ta ở thế giới tam thiên đại thiên này, có đại chúng thanh văn, Bồ Tát vây quanh, dùng danh như thế, câu như thế, chữ như thế, lý thú như thế, vì các chúng đại Bồ Tát tuyên thuyết bác nhã Ba La Mật Đà v.v. như nhau không sai khác. Bồ Tát thường đệ từ đó về sau đa văn trí tuệ chẳng thể nghĩ bàn, giống như biển cả, tùy nơi thọ xanh, thường gặp chiêu Phật, thường sanh vào quốc độ dịu tình của chiêu Phật, cho đến trong mộng cũng thường thấy Phật vì mình thuyết bác nhã Ba La Mật Đà, thân cận cúng dường chưa từng lơi lỏng, lì sự bận rộn, đầy đủ nhan hạ. Lxxxx phẩm kết khuyến. Này thiện hiện! Nên biết, do lý thú như thế oai đức bác nhã Ba La Mật Đà sâu xa thù thắng, khiến các Bồ Tát có thể mau dẫn phát được trí nhất thiết trí. Vì vậy, này thiện hiện! Nếu Đại Bồ Tát muốn học sáu phép Ba La Mật Đà mau được viên mãn, muốn thông đạt đầy đủ cảnh giới chiêu Phật, muốn đắc thần thông tự tại của chiêu Phật, muốn mau chính đắc trí nhất thiết trí, muốn có thể lợi ích an lạc tất cả hữu tình một cách rốt ráo thì nên học bác nhã Ba La Mật Đà sâu xa như thế. Nên đối với bác nhã Ba La Mật Đà sâu xa như thế cung kính lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, rốt ráo thông suốt, như thuyết tu hành, như lý tư duy nghĩa thú sâu xa, biên chép truyền bá, vì người giải nói nên dùng các loại tràng hoa, các thứ hương soa, hương bột, y phục, an lạc, tràng phang, bảo cái, kỹ nhạc, đèn đúc thượng diệu và các vật quý hiếm khác cung kính cúng dường, tôn trọng, ngợi khen. Vì sao? Vì bác nhã Ba La Mật Đà sâu xa đã thuyết này là mẹ chính sanh thành dưỡng dục, là thầy mô phạm chân chánh, tất cả Như Lai ứng chánh đẳng giác đều cùng tôn trọng cung kính khen nợi. Tất cả chúng đại Bồ Tát đều cúng dường, tinh cần tu học, đó là giáo húng chân thật của Như Lai. Bây giờ, Phật bảo Ananda. Đối với Như Lai, ông có ái kính chăng? Ananda thưa. Bạch Thế Tôn? Dạ có. Bạch Thiên Thệ? Dạ có. Con thật có ái kính Phật, Như Lai tự biết. Phật bảo Khánh Hỷ. Đúng vậy. Đúng vậy. Ông đối với ta, thật có ái kính. Từ trước đến nay ông thường dùng nhịp thân, ngữ, ý tự hòa, tốt đẹp, cung kính cúng dường, theo hầu bên ta, chưa từng trái ý. Này Khánh Hỷ! Ông nên dùng sự chân thật cung kính cúng dường thân ta khi ta còn ở đời. Sau khi ta niết bàn ông cũng nên dùng sự ái kính như thế mà cúng dường tôn trọng Bát Nhã Balamudra sâu xa. Lần thứ hai, lần thứ ba, Đức Phật đem Bát Nhã Balamudra sâu xa giáo húng Khánh Hỷ như thế, khiến cho vô cùng ái kính tôn trọng cúng dường hơn là cúng dường thân Như Lai. Lại bảo. Này Khánh Hỷ! Sau khi ta đem Bát Nhã Balamudra sâu xa như thế, trước đại chúng hôm nay phó chúc cho ông, ông nên thọ trị. Sau khi ta niết bàn cho đến một chữ chớ để quên mất. Bát Nhã Balamudra như thế, tùy theo thời gian, nơi chúng mà nó lưu bố ở thế gian, nên biết tức là có chư Phật thế tôn hiện trụ thế gian, vì chúng thuyết pháp. Khánh Hỷ nên biết, nếu có ai đối với Bát Nhã Balamudra sâu xa này, cùng kính lắng nghe, thọ trị, đọc tụng rốt tráo thông suốt, nhiều thuyết tu hành, nhiều lý tư duy, nghĩa thú sâu xa, biên chếp truyền bá, vì người giải nói, lại dùng các loại tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phang, bão cái, kỹ nhạc, đèn rút thượng diệu và các vật quý hiếm khác cùng kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nên biết người ấy thường gặp chư Phật, lắng nghe tránh pháp, tu các phạm hành. Khi ấy, Đức Bạc gia Phạm nói kinh này xong, vô lượng chúng đại Bồ Tát, Bồ Tát từ thị là Thượng Thủ, Đại Ca Diếp Ba, Xá Lợi Phất, Ananda V, V, các đại thanh văn và trời, rồng, người chẳng phải người, phi nhân khác V, V, tất cả đại chúng, nghe Phật nói rồi, đều rất khoan hỷ, tinh thọ phụng hành. Cảm ơn các bạn đã theo dõi, hẹn gặp lại.

Listen Next

Other Creators