Home Page
cover of kinhdaibatnha (168)
kinhdaibatnha (168)

kinhdaibatnha (168)

00:00-38:28

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologueconversation
0
Plays
0
Downloads
0
Shares

Transcription

Kinh Đại Bác Nhã Ba La Mật Đa Tập 7, Quyển 168, ít ít ít Phẩm So Sánh Công Đức 66, lại nữa, Kiều Thi Ca. Để riêng các loại hữu tình ở các châu thiện bộ, Đồng Thắng Thân, Tây Ngư Hóa, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. giáo hóa các loại hữu tình trong cả bốn châu thiện bộ, Đồng Thắng Thân, Tây Ngư Hóa, Bác Cu Lô đều hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, lại dùng vô lượng pháp môn Bác Nhã Ba La Mật Đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca. Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. nói sao đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Để riêng các loại hữu tình ở bốn đại châu, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. giáo hóa các loại hữu tình trong tiểu thiên thế giới, thì này Kiều Thi Ca. Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. nói sao đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Để riêng các loại hữu tình ở bốn đại châu, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. giáo hóa các loại hữu tình trong tiểu thiên thế giới đều hướng đến quả vị giác ngộ cao tộc, lại dùng vô lượng pháp môn Bác Nhã Ba La Mật Đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca. Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. nói sao đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Để riêng các loại hữu tình ở tiểu thiên thế giới, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. giáo hóa các loại hữu tình trong trung thiên thế giới đều hướng đến quả vị giác ngộ cao tộc, lại dùng vô lượng pháp môn Bác Nhã Ba La Mật Đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca. Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. nói sao đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Để riêng các loại hữu tình ở trung thiên thế giới, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. giáo hóa các loại hữu tình trong trung thiên thế giới đều hướng đến quả vị giác ngộ cao tộc, lại dùng vô lượng pháp môn Bác Nhã Ba La Mật Đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca. Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. nói sao đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Để riêng các loại hữu tình ở trung thiên thế giới, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. giáo hóa các loại hữu tình trong trung thiên thế giới đều hướng đến quả vị giác ngộ cao tộc, lại dùng vô lượng pháp môn Bác Nhã Ba La Mật Đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca. Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. nói sao đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Để riêng các loại hữu tình ở trung thiên thế giới, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. giáo hóa các loại hữu tình trong trung thiên thế giới đều hướng đến quả vị giác ngộ cao tộc, lại dùng vô lượng pháp môn Bác Nhã Ba La Mật Đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. giáo hóa một hữu tình. Đối với quả vị giác ngộ cao tộc đắt bất thối chuyển, lại dùng vô lượng pháp môn Bác Nhã Ba La Mật Đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca. Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. nói sao đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Đối với quả vị giác ngộ cao tộc đắt bất thối chuyển, lại dùng vô lượng pháp môn Bác Nhã Ba La Mật Đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca. Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. nói sao đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát Trụ Bật bất thối chuyển chẳng cần nhưng nhờ pháp sở thuyết. Đối với quả vị giác ngộ cao tộc, quyết định hướng đến, đối với quả vị Đại Bồ Đề bất thối chuyển, Đại Bồ Tát cầu chống đạt đến Đại Bồ Đề, thì cần phải nhưng nhờ pháp sở thuyết, đối với quả vị giác ngộ cao tộc, cầu mau đạt đến, thì nên quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình, vận dụng tâm Đại Bi vô cùng thống thiết. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát Trụ Bật bất thối chuyển chẳng cần nhưng nhờ pháp sở thuyết, đối với quả vị Đại Bồ Đề, thì nên quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình, vận dụng tâm Đại Bi vô cùng thống thiết. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát Trụ Bật bất thối chuyển chẳng cần nhưng nhờ pháp sở thuyết, đối với quả vị giác ngộ cao tộc, quyết định hướng đến, đối với quả vị Đại Bồ Đề bất thối chuyển, Đại Bồ Tát cầu chống đạt đến Đại Bồ Đề, thì cần phải nhưng nhờ pháp sở thuyết, đối với quả vị giác ngộ cao tộc, cầu mau đạt đến, thì nên quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình, vận dụng tâm Đại Bi vô cùng thống thiết. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Vì sao? Kiều Thi Ca. Ngộ cao tộc, thuyết pháp tam thừa, cứu độ tất cả, lại dùng vô lượng pháp môn bát nhã ba la mật đa, văn nghĩa xảo dịu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca. Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, nói sao đạt được công đức hơn trước rất nhiều? Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát trụ bật bất thối chuyển chẳng cần nương nhở pháp sở thuyết. Đối với quả vị giác ngộ cao tộc, quyết định hướng đến, đối với quả vị Đại Bồ Đề bất thối chuyển, Đại Bồ Tát cầu chống đạt đến Đại Bồ Đề, thì cần phải nương nhở pháp sở thuyết, đối với quả vị giác ngộ cao tộc, cầu mau đạt đến, thì nên quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình, vận dụng tâm Đại Bi vô cùng thống thiết. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Để riêng các loại hữu tình ở các châu thiện bộ, Đồng Thắng Thân, Tây Ngư Hóa, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, giáo hóa các loại hữu tình trong cả bốn châu thiện bộ, Đồng Thắng Thân, Tây Ngư Hóa, Bắc Cu Lô, đối với quả vị giác ngộ cao tộc đều đắt bất thối chuyển, lại dùng vô lượng pháp môn Bác Nhạ Ba La Mật Đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ đồng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, khuyên một trong số đó. Mau hướng đến quả vị giác ngộ cao tộc, thuyết pháp tam thừa, trú độ tất cả, lại dùng vô lượng pháp môn Bác Nhạ Ba La Mật Đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ đồng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thi này Kiều Thi Ca. Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, nói sao đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát trụ bật bất thối chuyển chẳng cần nương nhờ pháp sở thuyết. Đối với quả vị giác ngộ cao tộc, quyết định hướng đến, đối với quả vị Đại Bồ Đề bất thối chuyển, Đại Bồ Tát cầu chống đạt đến Đại Bồ Đề, thì cần phải nương nhờ pháp sở thuyết, đối với quả vị giác ngộ cao tộc, cầu mau đạt đến, thì nên quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình, vận dụng tâm đại đi vô cùng thống thiết. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Để riêng các loại hữu tình ở bốn đại châu, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V giáo hóa các loại hữu tình trong tiểu thiên thế giới, đối với quả vị giác ngộ cao tộc đều đắt bất thối chuyển, lại dùng vô lượng pháp môn bát nhã Palamata, văn nghĩa sảo dịu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V khuyên một trong số đó mau hướng đến quả vị giác ngộ cao tộc. Thuyết pháp tam thừa, trú độ tất cả, lại dùng vô lượng pháp môn bát nhã Palamata, văn nghĩa sảo dịu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Kiều Thi Ca. Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V nói sao đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát trụ bật bất thối chuyển chẳng cần lương nhờ pháp sở thuyết. Đối với quả vị giác ngộ cao tộc, quyết định hướng đến, đối với quả vị Đại Bồ Đề bất thối chuyển, Đại Bồ Tát cầu chống đạt đến Đại Bồ Đề, thì cần phải lương nhờ pháp sở thuyết, đối với quả vị giác ngộ cao tộc, cầu mau đạt đến, thì nên quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình, vẫn dùng tâm đại đi vô cùng thống thiết. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Để riêng các loại hữu tình ở Tiểu Thiên Thế Giới, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V giáo hóa các loại hữu tình trong Trung Thiên Thế Giới, đối với quả vị giác ngộ cao tộc đều đắt bất thối chuyển, lại dùng vô lượng pháp môn Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, khuyên một trong số đó mau hướng đến quả vị giác ngộ cao tộc, thuyết pháp tam thừa, trú cả, lại dùng vô lượng pháp môn Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, văn nghĩa xảo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Chiều Thi Ca hàng thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, nói sao đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Chiều Thi Ca Vì Đại Bồ Tát Trụ Bật bất thối chuyển chẳng cần nương nhờ pháp sở thuyết Đối với quả vị giác ngộ cao tộc, quyết định hướng đến, đối với quả vị Đại Bồ Đề bất thối chuyển, Đại Bồ Tát cầu chống đạt đến Đại Bồ Đề, thì cần phải nương nhờ pháp sở thuyết, đối với quả vị giác ngộ cao tộc, cầu mau đạt đến, thì nên quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình, vận dụng tâm Đại Bi vô cùng thống thiết. Lại nữa, Chiều Thi Ca Vì Đại Bồ Tát Trụ Bật bất thối chuyển chẳng cần nương nhờ pháp sở thuyết Đối với quả vị giác ngộ cao tộc, quyết định hướng đến, đối với quả vị Đại Bồ Đề bất thối chuyển, Đại Bồ Tát cầu chống đạt đến Đại Bồ Đề, thì cần phải nương nhờ pháp sở thuyết, đối với quả vị giác ngộ cao tộc, cầu mau đạt đến, thì nên quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình, vận dụng tâm Đại Bi vô cùng thống thiết. Lại nữa, Chiều Thi Ca Để riêng các loại hữu tình ở tam thiên đại thiên thế giới này, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân v. v. giáo hóa các loại hữu tình ở vô số thế giới trong người phương, đối với quả vị giác ngộ cao tộc đều đắt bất thối chuyển, lại dùng vô lượng pháp môn bát nhã ba la mật đà, văn nghĩa xáo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân v. v. khuyên một trong số đó mau hướng đến quả vị giác ngộ cao tộc, thuyết. Pháp Tam Thừa, cứu độ tất cả, lại dùng vô lượng pháp môn bát nhã ba la mật đà, văn nghĩa xáo diệu, vì họ rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Chiều Thi Ca. Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhân v. v. nói sao đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Chiều Thi Ca Vì Đại Bồ Tát Trụ Bật bất thối chuyển chẳng cần nương nhờ pháp sở thuyết. Đối với quả vị giác ngộ cao tộc, quyết định hướng đến, đối với quả vị Đại Bồ Đề bất thối chuyển, Đại Bồ Tát cầu chống đạt đến Đại Bồ Đề, thì cần phải nương nhờ pháp sở thuyết, đối với quả vị giác ngộ cao tộc, cầu mau đạt đến, thì nên quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình, vận dụng tâm Đại Bi vô cùng thống thiết. Lại nữa, Chiều Thi Ca. Để riêng các loại hữu tình ở vô số thế giới trong mười phương, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v. v. giáo hóa các loại hữu tình ở tất cả thế giới trong mười phương, đối với quả vị giác ngộ cao tộc đều đắt bất thối chuyển, lại dùng vô lượng pháp môn bác nhã Palamudda, văn nghĩa xảo diệu, vì họ đồng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, và nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân v. v. khuyên một trong số đó mau hướng đến quả vị giác ngộ cao tộc, thuyết pháp. Tam thừa, cứu độ tất cả, lại dùng vô lượng pháp môn bác nhã Palamudda, văn nghĩa xảo diệu, vì họ đồng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì này Chiều Thi Ca. Hàng thiện nam tử, thiện nữ nhân v. v. nói sao đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Chiều Thi Ca. Vì Đại Bồ Tát chủ bật bất thối chuyển chẳng cần lương nhờ pháp sở thuyết. Đối với quả vị giác ngộ cao tộc, quyết định hướng đến, đối với quả vị Đại Bồ Đệ bất thối chuyển, Đại Bồ Tát cầu chống đạt đến Đại Bồ Đệ, thì cần phải lương nhờ pháp sở thuyết, đối với quả vị giác ngộ cao tộc, cầu mau đạt đến, thì nên quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình, vận dụng tâm đại đi vô cùng thống thiết. Lúc bấy giờ, trời đế thích bạch, bạch thế tôn. Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng bố thí Balamudda, mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã Balamudda mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Bạch thế tôn. Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng pháp không nội, mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nỉa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đội khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự. Tánh mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Bạch Thế Tôn Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng chân như mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhì mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Bạch Thế Tôn Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng thánh đế khổ, mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên thánh đế tập, diệt, đạo mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Bạch Thế Tôn Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng bốn tình lự, mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng bốn vô lượng, bốn định vô sắc mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Bạch Thế Tôn Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng tám giải thoát, mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng tám thắng phướng, chính định thứ đệ, mười điến phướng mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Bạch Thế Tôn Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng bốn niệm trụ, mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Bạch Thế Tôn Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng pháp môn giải thoát không, mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Bạch Thế Tôn Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng năm loại mắt, mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng sáu phép thần thông mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Bạch Thế Tôn Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng mười lực Phật, mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, Đại Tự, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Phả, mười tám pháp Phật bất động mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Bạch Thế Tôn Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng pháp không quên mất, mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng tánh luôn luôn sả mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Bạch Thế Tôn Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng trí nhất thiết, mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Bạch Thế Tôn Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng tất cả pháp môn Đà La Ni, mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng tất cả pháp môn Tamma Địa mau chống dạy bảo, trao truyền cho Đại Bồ Tát ấy. Bạch Thế Tôn Như như Đại Bồ Tát gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc như thế, thì nên dùng y phục, đồ ăn uống, mọa cụ, thuốc men tốt nhất, tùy theo nhu cầu, các thứ đồ dùng cũng dường nhất họ Đại Bồ Tát ấy. Bạch Thế Tôn Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. năng dùng pháp thí, tài thí như thế, cũng dường nhất họ Đại Bồ Tát ấy, thì Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. ấy đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vì Đại Bồ Tát ấy nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo, trao truyền về bố thí, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã-ba-la-mật-đa này mà mau chống các quả vị giác ngộ cao tộc. Bạch Thế Tôn Vì Đại Bồ Tát nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không trốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Này mà mau chống các quả vị giác ngộ cao tộc. Bạch Thế Tôn Vì Đại Bồ Tát nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về chân như pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hưu vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất cứ nghi này mà mau chống các quả vị giác ngộ cao tộc. Bạch Thế Tôn Vì Đại Bồ Tát nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về thánh đế khổ, thánh đế tập, thánh đế diệt, thánh đế đạo này mà mau chống các quả vị giác ngộ cao tộc. Bạch Thế Tôn Vì Đại Bồ Tát nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về bốn tình lựu, bốn vô lượng, bốn định vô sắc này mà mau chống các quả vị giác ngộ cao tộc. Bạch Thế Tôn Vì Đại Bồ Tát nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về tám giải thoát, tám thắng khứ, chính định thứ đệ, mười biến khứ này mà mau chống các quả vị giác ngộ cao tộc. Bạch Thế Tôn Vì Đại Bồ Tát nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về bốn niềm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo này mà mau chống các quả vị giác ngộ cao tộc. Bạch Thế Tôn Vì Đại Bồ Tát nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện này mà mau chống các quả vị giác ngộ cao tộc. Bạch Thế Tôn Vì Đại Bồ Tát nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về năm loại mắt, sáu phép thần thông này mà mau chống các quả vị giác ngộ cao tộc. Bạch Thế Tôn Vì Đại Bồ Tát ấy nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng này mà mau chống các quả vị giác ngộ cao tộc. Bạch Thế Tôn Vì Đại Bồ Tát ấy nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã này mà mau chống các quả vị giác ngộ cao tộc. Bạch Thế Tôn Vì Đại Bồ Tát ấy nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng này mà mau chống các quả vị giác ngộ cao tộc. Bạch Thế Tôn Vì Đại Bồ Tát ấy nhờ đã nhiếp thọ sự dạy bảo trao truyền về tất cả pháp môn Đà La Ni, tất cả pháp môn Tam Ma Địa này mà mau chống các quả vị giác ngộ cao tộc. Bạch Thế Tôn Vì Đại Bồ Tát ấy lại nhờ đã nhiếp thọ y phục, đồ ăn uống, hòa cụ, thuốc men, các đồ dùng tùy theo nhu cầu này mà mau chống các quả vị giác ngộ cao tộc. Lúc bấy giờ, cụ thọ, thiền hiện bảo trời đế thích, hay thay? Hay thay? Này Kiều Thi Ca! Chỉ người mới có khả năng khuyên bảo, khích lệ Đại Bồ Tát ấy lại có khả năng nhiếp thọ Đại Bồ Tát ấy, cũng có khả năng hỗ trợ Đại Bồ Tát ấy. Người này đã là thánh đệ tử của Phật, đã làm việc nên làm. Tất cả các thánh đệ tử của Như Lai vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên phương tiện khuyên bảo, khích lệ Đại Bồ Tát ấy, khiến mau hướng đến quả vị giác ngộ cao tộc, dùng pháp thí, tài thí nhiếp thọ, hỗ trợ Đại Bồ Tát ấy, khiến mau chống các quả vị giác ngộ cao tộc. Vì sao? Kiều Thi Ca Vì tất cả Như Lai, Thanh Văn, Độc Giác, và các thắng sự trong thế gian đều do Đại Bồ Tát ấy mà được sanh ra. Vì sao? Vì nếu không có Đại Bồ Tát xác tâm cầu quả vị giác ngộ cao tộc, thì không có khả năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã ba la mật đa, cũng không có khả năng an trụ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng mỉa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không trốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cậu. Tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng không có khả năng an trụ chân như pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghị, cũng không có khả năng an trụ thánh đế khổ, thánh đế tập, thánh đế diệt, thánh đế đạo. Cũng không có khả năng tu học 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, cũng không có khả năng tu học 8 giải thoát, 8 tháng xứng, 9 định thứ đệ, 10 biến xứng, cũng không có khả năng tu học 4 niệm trụ, 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, cũng không có khả năng tu học pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện, cũng không có khả năng tu học 5 loại mắt, 6 phép thần thông, cũng không có khả. Năng tu học 10 lực Phật, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp Phật bất trọng, cũng không có khả năng tu học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã, cũng không có khả năng tu học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng không có khả năng tu học tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Nếu không có Đại Bồ-Tát chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì không có khả năng an lập Bồ-Tát, thanh văn, độc giác, và các tháng sự trong thế gian. Này Triều Thi Ca! Pháp không trọng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng lại có khả năng an trụ chân như pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhị, cũng lại có khả năng an trụ thánh đế khổ, thánh đế tập, thánh đế diệt, thánh đế đạo. Cũng lại có khả năng tu học 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, cũng lại có khả năng tu học 8 giải thoát, 8 thánh phướng, 9 định thứ đệ, 10 điến phướng, cũng lại có khả năng tu học 4 niệm trụ, 4 chánh đoạn, 4 thần trúc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, cũng lại có khả năng tu học pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện, cũng lại có khả năng tu học 5 loại mắt, 6 phép thần thông, cũng lại có khả năng tu học 10 lực Phật, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp Phật vất cộng, cũng lại có khả năng tu học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã, cũng lại có khả năng tu học trí nhất thuyết, trí đạo tướng, trí nhất thuyết tướng, cũng lại có khả năng tu học tất cả pháp môn Đà-La-Ni, tất cả pháp môn Tam-Ma-Địa. Vì do có Đại Bồ-Tát tu học, an trụ các pháp như thế, nên mới có khả năng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Do có Đại Bồ-Tát chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, nên giúp trữ tất cả địa ngục, bàn sanh, quỹ giới trong thế gian, cũng có khả năng làm tổn giảm bè đảng A-Tố-Lạc, làm tăng thêm thiên chúng. Vì do có Đại Bồ-Tát chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, nên mới có dòng dõi lớn sát đế lợi, dòng dõi lớn bà la môn, dòng dõi lớn trưởng giả, dòng dõi lớn cư sĩ xuất hiện ở thế gian, do đó lại có chúng trời trời Tứ Đại Vương, trời Ba Mươi Ba, trời Dạ Mạ, trời Đỗ Sử Đa, trời Lạch Biến Hóa, trời Tha Hóa Tự Tại xuất hiện ở thế gian, do đó lại có trời Phạm Chúng, trời Phạm Phù, trời Phạm Hồi, trời Đại Phạm, trời Quang, trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quang, trời Cực Quang Tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh, trời Quảng, trời Thiểu Quảng, trời Vô Lượng Quảng, trời Quảng Quả xuất hiện ở thế gian, do đó lại có trời trời Vô Phiền, trời Vô Nhiệt, trời Thiện Hiền, trời Thiện Kiến, trời Sát Chú Cánh xuất hiện ở thế gian, do đó lại có trời Không Vô Biên Sứ, trời Thức Vô Biên Sứ, trời Vô Sở Hữu Sứ, trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Hứ xuất hiện ở thế gian. Do đó lại có bố thí Ba-la-mật-đa, tỉnh giới Ba-la-mật-đa, an nhẫn Ba-la-mật-đa, tình tấn Ba-la-mật-đa, tình lự Ba-la-mật-đa, bác ngã Ba-la-mật-đa xuất hiện ở thế gian, do đó lại có pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đội khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh xuất hiện ở thế gian, do đó lại có chân như pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghi xuất hiện ở thế gian, do đó lại có thánh đế khổ, thánh đế tập, thánh đế diệt, thánh đế đạo xuất hiện ở thế gian. Do đó lại có 4 tỉnh lử, 4 vô lượng, 4 định vô sắc xuất hiện ở thế gian, do đó lại có 8 giải thoát, 8 thắng hướng, 9 định thứ đệ, 10 biến phiếu xuất hiện ở thế gian, do đó lại có 4 niềm trụ, 4 chánh đoạn, 4 thân túc, 5 trăng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo xuất hiện ở thế gian, do đó lại có pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện xuất hiện ở thế gian, do đó lại có 5 loại mắt, 6 phép thần thông xuất hiện ở thế gian, do đó lại có 10 lực Phật, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp Phật bất cộng xuất hiện ở thế gian, do đó lại có pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã xuất hiện ở thế gian, do đó lại có trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng xuất hiện ở thế gian, do đó lại có tất cả pháp môn Đà-la-Ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa xuất hiện ở thế gian, do đó lại có tất cả thanh văn thừa, tất cả độc giác thừa, tất cả đại thừa xuất hiện ở thế gian. Lúc bấy giờ, Đại Bồ-Tát Di-lạc Bạch Thượng tỏa thiện hiện, thưa Đại Đức! Nếu Đại Bồ-Tát đối với tất cả hữu tình, đen công đức có được, tùy hỷ cùng làm các sự nghiệp phước đức và nếu Đại Bồ-Tát dùng sự nghiệp phước đức này cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột và vị dùng vô sở đắc làm phương tiện, nên nếu sự nghiệp phước đức tùy hỷ hồi hướng của các hữu tình khác như sự nghiệp phước đức của Phạm Phu, Thanh Văn, Độc Giác đó là ba sự nghiệp phước đức của Thí Tánh, Giới Tánh, Tu Tánh, hoặc sự nghiệp phước đức của bốn Niệm Trụ, bốn Chánh Đo V, thì công đức có được do tùy hỷ hồi hướng của Đại Bồ-Tát ấy, so với sự nghiệp phước đức của Phạm Phu, Thanh Văn, Độc Giác kia là trức tối thắng, là tôn quý, là cao siêu, là vị dùng, là sự nghiệp phước đức của Đại Bồ-Tát, hoặc sự nghiệp phước đức của Phạm Phu, Thanh Văn, Độc Giác kia là trức tối thắng, là tôn quý, là cao siêu, là vị dùng, là sự nghiệp phước đức của Đại Bồ-Tát, hoặc sự nghiệp phước đức của Phạm Phu, Thanh Văn, Độc Giác kia là trức tối thắng, là sự nghiệp phước đức của Đại Bồ-Tát, hoặc sự nghiệp phước đức của Phạm Phu, Thanh Văn, Độc Giác kia là trức tối thắng, là sự nghiệp phước đức của Đại Bồ-Tát, hoặc sự nghiệp phước đức của Phạm Phu, Thanh Văn, Độc Giác kia là trức tối thắng, là sự nghiệp phước đức của Đại Bồ-Tát, hoặc sự nghiệp phước đức của Phạm Phu, Thanh Văn, Độc Giác kia là trức tối thắng, là sự nghiệp phước đức của Đại Bồ-Tát, hoặc sự nghiệp phước đức của Phạm Phu, Thanh Văn, Độc Giác kia là tr� Thưa Đại sĩ! Tâm tùy nghĩ hồi hướng của Đại Bồ-Tát duyên khắp vô số, vô lượng, vô biên thế giới trong mười phương. Trong mỗi thế giới có vô số, vô lượng, vô biên các đức Phật đã nhập Niết Bàn, từ sơ Pháp Tâm cho đến chính đắc quả vị giác ngộ cao tột, đều lần lượt như thế, sau khi nhập vô dư y Niết Bàn, cho đến khi giáo Pháp Việt, ở khoảng giữa, có thiện căn tương ưng với sáu phép ba la mật và có thiện căn khác tương ưng với vô số, vô lượng, vô biên Phật Pháp. Nếu đệ tử Phạm Phu kia có ba sự nghiệp Phước Đức là thí tánh, giới tánh và tu tánh, nếu đệ tử Thanh Văn kia có thiện căn vô lậu là hữu học, vô học, nếu chư như lại ứng chánh Đặng Giác có giới quẩn, định quẩn, tuệ quẩn, giải thoát quẩn, giải thoát tri kiến quẩn thì làm lợi lạc tất cả hữu tình bằng đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã và vô số, vô lượng, vô biên Phật Pháp. Các Pháp mà Chiêu Phật đã nói, nếu nương vào Pháp ấy mà xiên năng tu học thì đắc quả Dự Lưu, đắc quả Nhất Lai, đắc quả Bất Hoàng, đắc quả A-La-Hán, đắc quả Độc Giác, đắc nhập chánh tánh ly xanh của Bồ-Tát. Tất cả thiện căn đã có như thế và thiện căn của hữu tình khác với thiện căn đã gieo trồng của các chiếm đệ tử thanh văn, Bồ-Tát của các Đức như lại ứng chánh Đặng Giác, hoặc còn trụ thế, hoặc sau khi nhập Niết Bạn là các thiện căn nhắm tụ tất cả sự tuy hỷ hiện tại và sự tuy hỷ quá khứ. Lại dùng sự tuy hỷ như thế đều làm các sự nghiệp Phước Đức cùng với tất cả hữu tình đồng hội hướng quả vị giác ngộ cao tột. Con xin đem thiện căn này cùng với tất cả hữu tình đồng dẫn phát quả vị giác ngộ cao tột, thì sự tuy hỷ, hội hướng đã phát khởi như thế so với những nghiệp Phước Đức đã phát khởi khác là tối thắng, là tôn quý, là cao siêu, là vi diệu, là cao cả, là tối cao, không gì bằng, không gì hơn. Thưa Đại sĩ Di Lạc! Theo ý ngài thì sao? Đại Bồ-Tát ấy, duyên các việc như thế, khởi tâm tuy hỷ hội hướng, có phải là có sự sở duyên như thế, như cái tướng sở thủ của Đại Bồ-Tát kia chăng?

Listen Next

Other Creators