black friday sale

Big christmas sale

Premium Access 35% OFF

Home Page
cover of kinhdaibatnha (81)
kinhdaibatnha (81)

kinhdaibatnha (81)

Phuc Tien

0 followers

00:00-47:32

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech

Audio hosting, extended storage and much more

AI Mastering

Transcription

Kinh đại Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa Quyển 81 xxxii Phẩm Thiên Đế 05 Thiện hiện Tâm Như Lai chẳng trụ bố thí Ba-La-Mật-Đa, chẳng trụ tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Vì sao? Vì bố thí Ba-La-Mật-Đa v.v. chẳng thể nắm bắt được. Thiện hiện Tâm Như Lai chẳng trụ bố tình lự, chẳng trụ bố vô lượng, bố định vô sắc. Vì sao? Vì bố tình lự v.v. chẳng thể nắm bắt được. Thiện hiện Tâm Như Lai chẳng trụ tám giải thoát, chẳng trụ tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng. Vì sao? Vì tám giải thoát v.v. chẳng thể nắm bắt được. Thiện hiện Tâm Như Lai chẳng trụ bốn niệm trụ, chẳng trụ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Vì sao? Vì bốn niệm trụ v.v. chẳng thể nắm bắt được. Thiện hiện Tâm Như Lai chẳng trụ pháp môn giải thoát không, chẳng trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không v.v. chẳng thể nắm bắt được. Thiện hiện Tâm Như Lai chẳng trụ năm loại mắt, chẳng trụ sáu phép thần thông. Vì sao? Vì năm loại mắt v.v. chẳng thể nắm bắt được. Thiện hiện Tâm Như Lai chẳng trụ mười lực của Phật, chẳng trụ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì mười lực của Phật v.v. chẳng thể nắm bắt được. Thiện hiện Tâm Như Lai chẳng trụ Pháp không quên mất, chẳng trụ tánh luôn luôn xã. Vì sao? Vì Pháp không quên mất v.v. chẳng thể nắm bắt được. Thiện hiện Tâm Như Lai chẳng trụ tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng trụ tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni v.v. chẳng thể nắm bắt được. Thiện hiện Tâm Như Lai chẳng trụ trí nhất thiết, chẳng trụ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì trí nhất thiết v.v. chẳng thể nắm bắt được. Thiện hiện Tâm Như Lai chẳng trụ thanh văn thừa, chẳng trụ độc giác thừa, vô thường thừa. Vì sao? Vì thanh văn thừa v.v. chẳng thể nắm bắt được. Thiện hiện Tâm Như Lai chẳng trụ dự lưu và dự lưu hướng, quả, chẳng trụ nhất lai, bất hoàng, à-la-hán và nhất lai, bất hoàng, à-la-hán hướng, quả. Vì sao? Vì dự lưu v.v. chẳng thể nắm bắt được. Thiện hiện Tâm Như Lai chẳng trụ độc giác và quả vị độc giác, chẳng trụ bồ tát, như lai và pháp của bồ tát, như lai. Vì sao? Vì độc giác v.v. chẳng thể nắm bắt được. Thiện hiện Tâm Như Lai chẳng trụ bậc cực khỉ và pháp, chẳng trụ bậc ly cấu, bậc pháp quan, bậc diện tuệ, bậc cực nang thắng, bậc hiện tiện, bậc viễn hành, bậc bất động, bậc thiện tuệ, bậc pháp vân và pháp. Vì sao? Vì bậc cực khỉ v.v. chẳng thể nắm bắt được. Thiện hiện Tâm Như Lai chẳng trụ bậc phàm phu và pháp, chẳng trụ bậc trũng tánh, bậc tệ bác, bậc cụ kiến, bậc bạc, bậc ly dục, bậc dĩ biện, bậc độc giác, bậc bồ tát, bậc như lai và pháp. Vì sao? Vì bậc phàm phu v.v. chẳng thể nắm bắt được. Như vậy, thiện hiện Tâm Như Lai đối với tất cả pháp, hoàn toàn không có chỗ trụ cũng chẳng phải chẳng trụ. Khi ấy, cụ thọ thiện hiện nói với xá lợi tử, như vậy, đại bồ tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa nhưng đồng với Như Lai, đối với tất cả pháp, hoàn toàn không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Xá lợi tử Vì đại bồ tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với sắc, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì sắc quẩn V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại bồ tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với nhãn xứ chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì nhãn xứ V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại bồ tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với sắc xứ chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ ấy chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì sắc xứ V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại bồ tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với nhãn giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các họ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì nhãn giới V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại bồ tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với nhãn giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với thanh giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các họ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì nhãn giới V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại bồ tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với nhãn giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với thanh giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các họ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì nhãn giới V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại bồ tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với thiệt giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các họ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì thiệt giới V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại bồ tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với thân giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các họ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì thân giới V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại bồ tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với ý giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các họ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì ý giới V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại bồ tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với ý giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì ý giới V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại bồ tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với thánh đế khổ chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì thánh đế khổ V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại bồ tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với vô minh chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với hành, thức, danh sách, luật sứ, xuất, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì vô minh V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại bồ tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với cái không nội chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt tráo, cái không không biên giới, cái không tảng mạng, cái không không đội khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không tổng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái... Không không tánh tự tánh cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì cái không nội V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại Bồ Tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với chân như chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhị cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì chân như V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại Bồ Tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với bố thí ba la mật đa chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lựu, bác nhã ba la mật đa cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì bố thí ba la mật đa V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại Bồ Tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với bốn tình lựu chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì bốn tình lựu V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại Bồ Tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với tám giải thoát chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tám giải thoát V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại Bồ Tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với bốn niệm trụ chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm trăng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì bốn niệm trụ V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại Bồ Tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với pháp môn giải thoát không chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại Bồ Tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với năm loại mắt chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với sáu phép thần thông cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì năm loại mắt V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại Bồ Tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với mười lực của Phật chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì mười lực của Phật V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại Bồ Tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với Pháp không quên mất chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với tánh luôn luôn xã cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì Pháp không quên mất V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại Bồ Tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với tất cả Pháp môn Đà La Ni chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với tất cả Pháp môn Tam Ma Địa cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tất cả Pháp môn Đà La Ni V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại Bồ Tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với trí nhất thiết chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì trí nhất thiết V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại Bồ Tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với thanh văn thừa chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với độc giác thừa, vô thường thừa cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì thanh văn thừa V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại Bồ Tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với dự lưu và dự lưu hướng, quả chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với nhất lai, bất hoàng, à la hán và nhất lai, bất hoàng, à la hán hướng, quả cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì dự lưu V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại Bồ Tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với độc giác và quả vị độc giác chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với Bồ Tát, như lai và pháp của Bồ Tát, như lai cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì độc giác V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại Bồ Tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với bậc thực khỉ và pháp chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với bậc ly cấu, bậc phát quan, bậc dịnh tuệ, bậc thực nang thắng, bậc hiện tiền, bậc viễn hành, bậc bất động, bậc thiện tuệ, bậc pháp vân và pháp cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì bậc thực khỉ V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại Bồ Tát tuy trụ bác nhã ba la mật đa, nhưng đối với bậc phàm phu và pháp chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, đối với bậc trũng tánh, bậc tệ bác, bậc cụ kiến, bậc bạc, bậc ly dục, bậc dĩ biện, bậc độc giác, bậc bồ tát, bậc như lai và pháp cũng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì bậc phàm phu V, V, không có hai tướng. Xá lợi tử Đại Bồ Tát đối với bác nhã ba la mật đa, tùy theo cái chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên học như vậy. xxiii phẩm chiêu thiên tử không một Lúc bấy giờ, trong hội có các thiên tử móng khởi ý nghĩ thế này, các dược xoa V, V, đối với ngôn từ thần chú tuy là ẩn mật nhưng có thể biết, còn tôn giả thiện hiện đối với bác nhã ba la mật đa này, tuy dùng các thứ ngôn từ để chỉ bày nhưng bọn chúng ta hoàn toàn chẳng thể hiểu. Thiện hiện biết tâm niệm của họ, liên bảo với họ, này thiên tử các ngươi. Đối với những điều ta nói chẳng thể hiểu ư. Các thiên tử đáp, đúng vậy. Đúng vậy. Cụ thọ thiện hiện lại bảo họ, đối với pháp này, ta chưa từng nói một chữ. Các ngươi cũng chẳng nghe thì lấy gì để hiểu? Vì sao? Vì bác nhã ba la mật đa thâm sâu, văn tự ngôn thuyết đều phải xa liền. Do đó, trong ấy, người nói, người nghe và người hiểu đều chẳng thể nắm bắt được. Quả vị giác ngộ cao tột mà tất cả như lai ứng chánh đặng giác đã chứng, tưởng của nó sâu xa, cũng lại như vậy. Thiên tử nên biết. Như hóa thân của Phật hóa làm vô lượng bí sô, bí sô ni, ô ba sách ca, ô ba tư ca đều đến nhóm học, rồi lại hóa làm một người có thể thuyết pháp, ở trong chúng này, tuyên dương dịu pháp, theo ý các ngươi thì sao? Trong đó, thật có người có thể thuyết, có thể nghe và có thể hiểu chăng? Các thiên tử đáp, dạ không, bạch đại đức. Thiện hiện nói, chiêu thiên tử. Như thế đó, vì tất cả pháp đều như biến hóa, nên trong bác nhã, người nói, người nghe, người hiểu, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Như ở trong mộng, mộng thấy có Phật dạy bảo, trao truyền cho Bồ Tát, thanh văn. Theo ý các ngươi thì sao? Trong ấy, thật có người có thể nói, có thể nghe và có thể hiểu chăng? Các thiên tử đáp, dạ không, bạch đại đức. Thiện hiện nói, chiêu thiên tử. Như thế đó, vì tất cả pháp đều như biến hóa, nên trong bác nhã, người nói, người nghe, người hiểu, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Như có hai người ở trong một hang núi, mỗi người ở một bên khen ngợi Phật, Pháp, Tăng, cùng lúc phát ra tiếng vang, theo ý các ông thì sao? Hai tiếng vang này có thể nghe nhau và hiểu nhau chăng? Các thiên tử đáp, dạ không, bạch đại đức. Thiện hiện nói, chiêu thiên tử. Như thế đó, vì tất cả pháp đều như tiếng vang, nên trong bác nhã, người nói, người nghe và người có thể hiểu, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Như nhà ảo thuật hoặc đệ tử của y, ở ngã tư đường, biến hóa ra bốn chúng và một thân Phật, ở trong đó thuyết pháp theo ý các ông thì sao? Trong ấy, thật có người có thể nói, có thể nghe và có thể hiểu chăng? Các thiên tử đáp, dạ không, bạch đại đức. Thiện hiện nói, chiêu thiên tử. Như thế đó, vì tất cả pháp đều như huyển, nên trong bác nhã, người nói, người nghe và người có thể hiểu, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Khi ấy, các thiên tử lại nghĩ thế này, tôn giả thiện hiện, đối với bác nhã Palamarda này, tuy lại dùng các thứ phương tiện nói rõ, muốn cho dễ hiểu nhưng mà ý thú đã thầm thâm lại càng thầm thâm, đã vi tế lại thêm vi tế, khó thể đo lượng được. Thiện hiện biết tâm niệm của họ liền bảo họ, thiên tử nên biết. Sắc chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của sắc chẳng thể nắm bắt được, tánh thầm thâm vi tế của thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Nhãn xứ chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Sắc xứ chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, thanh, hương, vị, xuất, pháp xứ cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của sắc xứ chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của thanh, hương, vị, xuất, pháp xứ cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Nhãn giới chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của nhãn giới chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Nhãn giới chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, thanh giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của nhãn giới chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của thanh giới cho đến các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Tỉ giới chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, hương giới, tỉ thức giới và tỉ xuất cùng các thọ do tỉ xuất làm duyên sanh ra cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của tỉ giới chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của hương giới cho đến các thọ do tỉ xuất làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Thiệt giới chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, hương giới, tỉ thức giới và tỉ xuất cùng các thọ do tỉ xuất làm duyên sanh ra cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của thiệt giới chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của vị giới cho đến các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Thân giới chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, xuất giới, thân thức giới và thân xuất cùng các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của thân giới chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của xuất giới cho đến các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Ý giới chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, pháp giới, ý thức giới và ý xuất cùng các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của ý giới chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của pháp giới cho đến các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Địa giới chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của địa giới chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Thánh đế khổ chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Vô minh chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, hành, thức, danh sách, lục sứ, xuất, phỏ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của vô minh chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Cái không nội chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không trốt tráo, cái không không biên giới, cái không tản mạng, cái không không đội khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không tổng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải. Vi tế Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của cái không nội chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Chân như chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nhi cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của chân như chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nhi cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của tình giới cho đến bát nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Bốn tịnh lự chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của bốn tình lự chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Tám giải thoát chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, tám tháng xứ, chính định thứ đệ, mười điến xứ cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của tám giải thoát chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của tám tháng xứ, chính định thứ đệ, mười điến xứ cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Bốn niệm trụ chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đạn giác, tám chi thánh đạo cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của bốn niệm trụ chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Năm loại mắt chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, sáu phép thần thông cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của sáu phép thần thông cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Mười lực của Phật chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại đi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của mười lực Phật chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Pháp không quên mất chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, tánh luôn luôn xã cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của Pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của tánh luôn luôn xã cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Tất cả Pháp môn Đà-la-Ni chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, tất cả Pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của tất cả Pháp môn Đà-la-Ni chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của tất cả Pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Trí nhất thiết chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Thanh văn thừa chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, độc giác thừa, vô thượng thừa cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của thanh văn thừa chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của độc giác thừa, vô thượng thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Dự lưu chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, nhất lai, bất hoàng, A-la-hán cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của dự lưu chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của nhất lai, bất hoàng, A-la-hán cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Dự lưu hướng, dự lưu quả chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của dự lưu hướng, dự lưu quả chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của nhất lai hướng, nhất lai quả cho đến A-la-hán hướng, A-la-hán quả cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Độc giác chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, độc giác hướng, độc giác quả cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của độc giác chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của độc giác hướng, độc giác quả cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Đại Bồ-Tát chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, quả vị giác ngộ cao tột cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của Đại Bồ-Tát chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của quả vị giác ngộ cao tột cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Pháp của Đại Bồ-Tát chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, quả vị giác ngộ cao tột cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của Pháp Đại Bồ-Tát chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của quả vị giác ngộ cao tột cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Bật cực khỉ chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, bật ly cấu, bật phát quan, bật diệm tuệ, bật cực ngang thắng, bật hiện tiện, bật viễn hành, bật bất động, bật thiện tuệ, bật pháp vân cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của bật cực khỉ chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của bật ly cấu cho đến bật pháp vân cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Bật phàm phu chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, bật ly cấu, bật pháp quan, bật diệm tuệ, bật cực ngang thắng, bật hiện tiện, bật viễn hành, bật bất động, bật thiện tuệ, bật pháp vân cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của bật cực khỉ chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của bật ly cấu cho đến bật pháp vân cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Bật phàm phu chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, bật chủng tánh, bật ệ bác, bật cụ kiến, bật bạc, bật ly dục, bật dĩ điện, bật độc giác, bật bồ tát, bật như lai cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của bật phàm phu chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của bật chủng tánh cho đến bật như lai cũng chẳng thể nắm bắt được. Thiên tử nên biết. Pháp của bật phàm phu chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế, pháp của bật chủng tánh, bật ệ bác, bật cụ kiến, bật bạc, bật ly dục, bật dĩ điện, bật độc giác, bật bồ tát, bật như lai cũng chẳng phải thầm thâm, chẳng phải vi tế. Vì sao? Vì tánh thầm thâm vi tế của pháp bật phàm phu chẳng thể nắm bắt được, vì tánh thầm thâm vi tế của pháp bật chủng tánh cho đến bật như lai cũng chẳng thể nắm bắt được. Khi ấy, các thiên tử lại nghĩ như vầy, trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết sắc, chẳng thi thiết thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì tánh của sắc quẩn V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết nhãn xứ, chẳng thi thiết nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì tánh của nhãn xứ V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết sắc xứ, chẳng thi thiết thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì tánh của sắc xứ V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết nhãn giới, chẳng thi thiết sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tánh của nhãn giới V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết nhãn giới, chẳng thi thiết thanh giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tánh của nhãn giới V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết tỉ giới, chẳng thi thiết hương giới, tỉ thức giới và tỉ xúc cùng các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tánh của tỉ giới V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết thiệt giới, chẳng thi thiết vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tánh của thiệt giới V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết thân giới, chẳng thi thiết xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tánh của thân giới V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết ý giới, chẳng thi thiết pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tánh của ý giới V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết địa giới, chẳng thi thiết thủy, hỏa, phòng, không, thức giới. Vì sao? Vì tánh của địa giới V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết thánh đế khổ, chẳng thi thiết thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì tánh của thánh đế khổ V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết vô minh, chẳng thi thiết hành, thức, danh sách, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não. Vì sao? Vì tánh của vô minh V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết cái không nội, chẳng thi thiết cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không trốt tráo, cái không không biên giới, cái không tảng mạng, cái không không đội khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không trọng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì tánh của cái không nội V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết chân như, chẳng thi thiết pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghị. Vì sao? Vì tánh của chân như V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng thi thiết tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì tánh của bố thí Ba-la-mật-đa V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết bốn tình lự, chẳng thi thiết bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Vì tánh của bốn tình lự V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết tám giải thoát, chẳng thi thiết tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng. Vì sao? Vì tánh của tám giải thoát V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết bốn niệm trụ, chẳng thi thiết bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm trăng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Vì sao? Vì tánh của bốn niệm trụ V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết pháp môn giải thoát không, chẳng thi thiết pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Vì tánh của pháp môn giải thoát không V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết năm loại mắt, chẳng thi thiết sáu phép thần thông. Vì sao? Vì tánh của năm loại mắt V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết mười lực của Phật, chẳng thi thiết bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì tánh của mười lực Phật V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết pháp không quên mất, chẳng thi thiết tánh luôn luôn xã. Vì sao? Vì tánh của Pháp không quên mất V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng thi thiết tất cả pháp môn Ta-ma-địa. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết trí nhất thiết, chẳng thi thiết trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì tánh của trí nhất thiết V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết thanh văn thừa, chẳng thi thiết độc giác thừa, vô thường thừa. Vì sao? Vì tánh của thanh văn thừa V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết dự lưu, chẳng thi thiết nhất lai, bất hoạn, à-la-hán. Vì sao? Vì tánh của dự lưu V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết dự lưu hướng, dự lưu quả, chẳng thi thiết nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoạn hướng, bất hoạn quả, à-la-hán hướng, à-la-hán quả. Vì sao? Vì tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết độc giác, chẳng thi thiết độc giác hướng, độc giác quả. Vì sao? Vì tánh của độc giác V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết Đại Bồ-Tát, chẳng thi thiết Tam-Mịu-Tam-Phật-Đà. Vì sao? Vì tánh của Đại Bồ-Tát V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết Pháp của Đại Bồ-Tát, chẳng thi thiết quả vị giác ngộ trao tột. Vì sao? Vì tánh của Pháp Đại Bồ-Tát V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết bậc cực khỉ, chẳng thi thiết bậc ly cấu, bậc phát quan, bậc dịm tuệ, bậc cực nang thắng, bậc hiện tiền, bậc viễn hành, bậc bất động, bậc thiện tuệ, bậc pháp vân. Vì sao? Vì tánh của bậc cực khỉ V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết Pháp của bậc cực khỉ, chẳng thi thiết Pháp của bậc ly cấu, bậc phát quan, bậc dịm tuệ, bậc cực nang thắng, bậc hiện tiền, bậc viễn hành, bậc bất động, bậc thiện tuệ, bậc pháp vân. Vì sao? Vì tánh của Pháp bậc cực khỉ V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết bậc phàm phu, chẳng thi thiết bậc chủng tánh, bậc tệ bác, bậc cụ kiến, bậc bạc, bậc ly dục, bậc dĩ biện, bậc độc giác, bậc bồ tác, bậc như lai. Vì sao? Vì tánh của bậc phàm phu V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết chẳng thi thiết pháp của bậc phàm phu, chẳng thi thiết pháp của bậc chủng tánh, bậc tệ bác, bậc cụ kiến, bậc bạc, bậc ly dục, bậc dĩ biện, bậc độc giác, bậc bồ tác, bậc như lai. Vì sao? Vì tánh của pháp bậc phàm phu V, V, là bất khả thuyết. Trong pháp mà tôn giả thiện hiện đã thuyết cũng chẳng thi thiết văn tử, ngữ ngôn. Vì sao? Vì tánh của văn tử, ngữ ngôn V, V, là bất khả thuyết. Lúc bấy giờ, thiện hiện biết điều tâm niệm của các thiên tử liên bảo, đúng vậy. Đúng vậy. Như các ông nghĩ, các pháp cho đến quả vị giác ngộ cao tột, văn tử, ngữ ngôn đều chẳng đạt được. Cho nên đối với bác nhã Ba-la-mật-đa, không có người nói, không có người nghe, cũng không có người hiểu. Vì vậy, các ông ở trong các pháp nên theo điều đã nói, tu nhận kiên cố. Các hữu tình muốn an trụ, muốn chứng đắc quả dự lưu, nhất lai, bất hoàng, A-la-hán cũng nương vào nhẫn này mà được cứu tránh. Các hữu tình muốn an trụ, muốn chứng độc giác, đắc quả giác ngộ cũng nương vào nhẫn này mà được cứu tránh. Các hữu tình muốn an trụ, muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột cần phải nương vào nhẫn này để được cứu tránh. Như vậy, chiêu thiên tử, các đại Bồ Tát, từ sơ phát tâm cho đến cứu tránh, nên an trụ bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa vô thuyết, vô thính, vô giải, thường xuyên ngăn tu học, chẳng nên phả ly. Khi ấy, các thiên tử lại nghĩ, này đây, tôn giả thiện hiện muốn vì hữu tình nào và thuyết pháp gì? Lúc bấy giờ, thiện hiện biết điều tâm niệm của các thiên tử, liền bảo với họ, thiên tử nên biết, này ta muốn vì hữu tình như huyển, như hóa, như mộng mà thuyết pháp như huyển, như hóa, như mộng. Vì sao? Vì người nghe như vậy, đối với điều đã thuyết, không nghe, không hiểu, không có chỗ chứng. Khi ấy, các thiên tử lại hỏi, người nói, người nghe và pháp đã nói đều là việc như huyển, như hóa, như mộng chăng? Thiện hiện đáp, đúng vậy. Đúng vậy. Như các ông đã nói, hữu tình như huyển, vì đối tượng như huyển nên thuyết pháp như huyển. Hữu tình như hóa, vì đối tượng như hóa, nên thuyết pháp như hóa. Hữu tình như mộng, vì đối tượng như mộng, nên thuyết pháp như mộng. Thiên tử nên biết, đã thấy ngã là như huyển, như hóa, như mộng. Đã thấy hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hội, người do người sanh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, tự thọ quả báo, khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy như huyển, như hóa, như mộng. Vì sao? Vì tự tánh của ngã V, V là không. Thiên tử nên biết, đã thấy sắc là như huyển, như hóa, như mộng, đã thấy thọ, tưởng, hành, thức là như huyển, như hóa, như mộng. Vì sao? Vì tự tánh của sắc quẩn V, V là không. Thiên tử nên biết, đã thấy nhãn xứ là như huyển, như hóa, như mộng, đã thấy nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ là như huyển, như hóa, như mộng. Vì sao? Vì tự tánh của nhãn xứ V, V là không. Thiên tử nên biết, đã thấy sắc xứ là như huyển, như hóa, như mộng, đã thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là như huyển, như hóa, như mộng. Vì sao? Vì tự tánh của sắc xứ V, V là không. Thiên tử nên biết, đã thấy nhãn giới là như huyển, như hóa, như mộng, đã thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là như huyển, như hóa, như mộng. Vì sao? Vì tự tánh của nhãn giới V, V là không. Thiên tử nên biết, đã thấy nhãn giới là như huyển, như hóa, như mộng, đã thấy thanh giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là như huyển, như hóa, như mộng. Vì sao? Vì tự tánh của nhãn giới V, V là không. Thiên tử nên biết, đã thấy thịt giới là như huyển, như hóa, như mộng, đã thấy hương giới, thịt thức giới và thịt xúc cùng các thọ do thịt xúc làm duyên sanh ra là như huyển, như hóa, như mộng. Vì sao? Vì tự tánh của thịt giới V, V là không. Thiên tử nên biết, đã thấy thịt giới là như huyển, như hóa, như mộng, đã thấy vị giới, thịt thức giới và thịt xúc cùng các thọ do thịt xúc làm duyên sanh ra là như huyển, như hóa, như mộng. Vì sao? Vì tự tánh của thịt giới V, V là không. Thiên tử nên biết, đã thấy thân giới là như huyển, như hóa, như mộng, đã thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là như huyển, như hóa, như mộng. Vì sao? Vì tự tánh của thân giới V, V là không. Thiên tử nên biết, đã thấy ý giới là như huyển, như hóa, như mộng, đã thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là như huyển, như hóa, như mộng. Vì sao? Vì tự tánh của ý giới V, V là không. Thiên tử nên biết, đã thấy địa giới là như huyển, như hóa, như mộng, đã thấy thủy, hóa, phong, không, thức giới là như huyển, như hóa, như mộng. Vì sao? Vì tự tánh của địa giới V, V là không. Thiên tử nên biết, đã thấy thánh đế khổ là như huyển, như hóa, như mộng, đã thấy thánh đế tập, diệt, đạo là như huyển, như hóa, như mộng. Vì sao? Vì tự tánh của thánh đế khổ V, V là không. Thiên tử nên biết, đã thấy vô minh là như huyển, như hóa, như mộng, đã thấy hành, thức, danh sách, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não là như huyển, như hóa, như mộng. Vì sao? Vì tự tánh của vô minh V, V là không. Thiên tử nên biết, đã thấy cái xong nội là như huyển, như hóa, như mộng, đã thấy cái xong ngoại, cái xong nội ngoại, cái xong không, cái xong lớn, cái xong thắng nghĩa, cái xong hữu vi, cái xong vô vi, cái xong trốt tráo, cái xong không biên giới, cái xong tảng mạng, cái xong không đội khác, cái xong bản tánh, cái xong tự tướng, cái xong cộng tướng, cái xong tất cả pháp, cái xong chẳng thể nắm bắt được, cái xong không tánh, cái xong tự tánh, cái xong không tánh tự tánh là như huyển, như hóa, như... Mộng, vì sao? Vì tự tánh của cái xong nội V, V là không. Thiên tử nên biết, Đã thấy chân như là như huyển, như hóa, như mộng, đã thấy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất trương nghị là như huyển, như hóa, như mộng, vì sao? Vì tự tánh của chân như V, V là không.

Listen Next

Other Creators