Home Page
cover of kinhdaibatnha (79)
kinhdaibatnha (79)

kinhdaibatnha (79)

Phuc Tien

0 followers

00:00-39:45

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech
0
Plays
0
Downloads
0
Shares

Audio hosting, extended storage and many more

AI Mastering

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 4 Quyển 79 xxxii Phẩm Thiên Đế 03 Lại nữa, Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là sắc, chẳng nên chấp đây là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là nhãn phướng, chẳng nên chấp đây là nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xướng. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là sắc xướng, chẳng nên chấp đây là thanh, hương, vị, xúc, pháp xướng. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là nhãn giới, chẳng nên chấp đây là sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là nhĩ giới, chẳng nên chấp đây là thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là tỉ giới, chẳng nên chấp đây là hương giới, tỉ thức giới và tỉ xúc cùng các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là thiệt giới, chẳng nên chấp đây là vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là thân giới, chẳng nên chấp đây là xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là ý giới, chẳng nên chấp đây là pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là địa giới, chẳng nên chấp đây là thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là thánh đế khổ, chẳng nên chấp đây là thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là vô minh, chẳng nên chấp đây là hành, thức, danh sát, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưa, não. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là cái không nội, chẳng nên chấp đây là cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nhĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không trốt tráo, cái không không biên giới, cái không tạng mạng, cái không không đội khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không tổng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không. Tánh tự tánh. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là chân như, chẳng nên chấp đây là pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghị. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là bố thí Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lựu, Bát Nhã Ba La Mật Đa. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là bốn tình lựu, chẳng nên chấp đây là bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là tám giải thoát, chẳng nên chấp đây là tám thắng thướng, chính định thứ đệ, mười biến thướng. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là bốn niệm trụ, chẳng nên chấp đây là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là pháp môn giải thoát không, chẳng nên chấp đây là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là năm loại mắt, chẳng nên chấp đây là sáu phép thần thông. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là mười lực của Phật, chẳng nên chấp đây là bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại thả, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là pháp không quên mất, chẳng nên chấp đây là tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là tất cả pháp môn Đà La Nhi, chẳng nên chấp đây là tất cả pháp môn Ta Ma Địa. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là trí nhất thiết, chẳng nên chấp đây là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là thanh văn thừa, chẳng nên chấp đây là độc giác thừa, vô thường thừa. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là quả dự lưu, chẳng nên chấp đây là quả nhất lai, bất hoàng, à la hắng, độc giác, Bồ Tát, như lai. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là bậc cực khỉ, chẳng nên chấp đây là bậc ly cấu, bậc phát quan, bậc dịnh tuệ, bậc cực ngang thắng, bậc hiện tiền, bậc viễn hành, bậc bất động, bậc thiện tuệ, bậc pháp vân. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên chấp đây là bậc phạm phu, chẳng nên chấp đây là bậc trũng tánh, bậc tệ bác, bậc cụ kiến, bậc bạc, bậc ly dục, bậc dĩ biện, bậc độc giác, bậc Bồ Tát, bậc như lai. Vì sao? Vì chấp là lấy hưởng sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên trụ sắc là thương, hoặc vô thương, chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức là thương, hoặc vô thương, chẳng nên trụ sắc là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ sắc là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ sắc là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức là tịnh, hoặc bất tịnh, ch chẳng nên trụ sắc là tịnh, hoặc chẳng tịnh, chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức là tịnh, hoặc chẳng tịnh, chẳng nên trụ sắc là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ sắc là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ sắc là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức là hữu tướng, hoặc vô tướ Chẳng nên trụ sắc là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Triều Thi Ca Tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ nhãn sứ là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ nhãn sứ là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ nhãn sứ là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ nhĩ, tỉ ý sứ là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ nhãn sứ là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ là hữu tướng, hoặc vô tướng chẳng nên trụ nhãn sứ là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ là hữu nguyện, hoặc vô nguyện Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện Lại nữa, kiều thi ca Đại Bồ Tát, khi hành bác nhã ba la mật đa, chẳng nên trụ sắc sứ là thường, hoặc vô thường, chẳng nên trụ thanh, hương, vị, súc, pháp sứ là thường, hoặc vô thường, chẳng nên trụ sắc sứ là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ thanh, hương, vị, súc, pháp sứ là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ sắc sứ là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ thanh, hương, vị, súc, pháp sứ là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ sắc sứ là tình hoặc bất tình, chẳng nên trụ thanh, hương, vị, súc, pháp sứ là tình, hoặc bất tình, chẳng nên trụ sắc sứ là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ thanh, hương, vị, súc, pháp sứ là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ sắc sứ là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ thanh, hương, vị, súc, pháp sứ là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ sắc sứ là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ thanh, hương, vị, súc, pháp sứ là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ sắc sứ là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ thanh, hương, vị, súc, pháp sứ là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ sắc sứ là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ thanh, hương, vị, súc, pháp sứ là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành bác ngã Ba-la-mật-đa, chẳng nên trụ nhãn giới là thường, hoặc vô thường, chẳng nên trụ sắc giới, nhãn thức giới và nhãn súc cùng các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra là thường, hoặc vô thường, chẳng nên trụ nhãn giới là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ sắc giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ nhãn giới là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ sắc giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra là ngã, hoặc vô ng Giới là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ sắc giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ nhãn giới là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ sắc giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ nhãn giới là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ sắc giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly Chẳng nên trụ nhãn giới là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ sắc giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ nhãn giới là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ sắc giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ nhãn giới là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ sắc giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, hoặc vô nguyện Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện Lại nữa, Kiều Thi Ca Hoặc vô ngã, chẳng nên trụ nhãn giới là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ thanh giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ nhãn giới là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ thanh giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ nhãn giới là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ thanh giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra là viễn ly, hoặc chẳng Chẳng nên trụ nhãn giới là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ thanh giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ nhãn giới là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ thanh giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ nhãn giới là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ thanh giới cho đến các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Chiều Thi Ca Hoặc vô ngã, chẳng nên trụ tỉ giới là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ hương giới cho đến các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ tỉ giới là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ hương giới cho đến các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ tỉ giới là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ hương giới cho đến các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly. Chẳng nên trụ tỉ giới là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ hương giới cho đến các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ tỉ giới là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ hương giới cho đến các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ tỉ giới là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ hương giới cho đến các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Triều Thi Ca. Thiệt giới là tỉnh, hoặc bất tỉnh, chẳng nên trụ vị giới cho đến các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra là tỉnh, hoặc bất tỉnh, chẳng nên trụ thiệt giới là tịch tỉnh, hoặc chẳng tịch tỉnh, chẳng nên trụ vị giới cho đến các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra là tịch tỉnh, hoặc chẳng tịch tỉnh, chẳng nên trụ thiệt giới là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ vị giới cho đến các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly. Chẳng nên trụ thiệt giới là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ vị giới cho đến các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ thiệt giới là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ vị giới cho đến các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ thiệt giới là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ vị giới cho đến các thọ do tỉ súc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Chẳng nên trụ thân giới là tỉnh, hoặc bất tỉnh, chẳng nên trụ súc giới cho đến các thọ do thân súc làm duyên sanh ra là tỉnh, hoặc bất tỉnh, chẳng nên trụ thân giới là tịch tỉnh, hoặc chẳng tịch tỉnh, chẳng nên trụ súc giới cho đến các thọ do thân súc làm duyên sanh ra là tịch tỉnh, hoặc chẳng tịch tỉnh, chẳng nên trụ thân giới là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ súc giới cho đến các thọ do thân súc làm duyên sanh ra là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly. Chẳng nên trụ thân giới là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ súc giới cho đến các thọ do thân súc làm duyên sanh ra là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ thân giới là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ súc giới cho đến các thọ do thân súc làm duyên sanh ra là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ thân giới là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ súc giới cho đến các thọ do thân súc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Hoặc vô ngã, chẳng nên trụ ý giới là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ pháp giới cho đến các thọ do ý súc làm duyên sanh ra là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ ý giới là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ pháp giới cho đến các thọ do ý súc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ ý giới là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ pháp giới cho đến các thọ do ý súc làm duyên sanh ra là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly. Chẳng nên trụ ý giới là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ pháp giới cho đến các thọ do ý súc làm duyên sanh ra là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ ý giới là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ pháp giới cho đến các thọ do ý súc làm duyên sanh ra là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ ý giới là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ pháp giới cho đến các thọ do ý súc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Chiều Thi Ca Hoặc bất tỉnh, chẳng nên trụ địa giới là tịch tỉnh, hoặc chẳng tịch tỉnh, chẳng nên trụ thủy, hoả, phông, không, thức giới là tịch tỉnh, hoặc chẳng tịch tỉnh, chẳng nên trụ thủy, hoả, phông, không, thức giới là tịch tỉnh, hoặc chẳng tịch tỉnh, chẳng nên trụ địa giới là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ thủy, hoả, phông, không, thức giới là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ địa giới là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ th không, không, thức giới là không, hoặc bất không chẳng nên trụ địa giới là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ thủy, hoả, phông, không, thức giới là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ địa giới là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ thủy, hoả, phông, không, thức giới là hữu nguyện, hoặc vô nguyện Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện Lại nữa, Kiều Thi Ca Đại Bồ Tát, khi hành bác nhã ba la mật đa, chẳng nên trụ thánh đế khổ là thường, hoặc vô thường, chẳng nên trụ thánh đế tập, việt, đạo là thường, hoặc vô thường, chẳng nên trụ thánh đế khổ là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ thánh đế tập, việt, đạo là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ thánh đế khổ là ngã, hoặc vu ngã, chẳng nên trụ thánh đế tập, việt, đạo là ngã, hoặc vu ngã, chẳng nên trụ thánh đế khổ là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ thánh đế tập, vi hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ thánh đế khổ là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ thánh đế tập, việt, đạo là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ thánh đế khổ là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ thánh đế tập, việt, đạo là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ thánh đế khổ là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ thánh đế tập, việt, đạo là không, hoặc bất không. Chẳng nên trụ thánh đế khổ là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ thánh đế tập, việt, đạo là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ thánh đế khổ là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ thánh đế tập, việt, đạo là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Chiều Thi Ca Chẳng nên trụ vô minh là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ thánh cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ vô minh là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ thánh cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ vô minh là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ thánh cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh, chẳng nên trụ vô minh là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ thánh cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ vô minh là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ thánh cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ vô minh là hữu tướng, hoặc bất không, chẳng nên trụ thánh cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não là hữu tướng, hoặc bất không, chẳng nên trụ vô minh là hữu tướng, hoặc bất không, chẳng nên trụ vô minh là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ thánh cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Triều Thi Ca. Cái không không tánh tự tánh là thường, hoặc vô thường, chẳng nên trụ cái không nội là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ cái không nội là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ cái không nội là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là tịnh, hoặc bất tịnh. Chẳng nên trụ cái không nội là tịnh, hoặc chẳng tịnh, chẳng nên trụ cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là tịnh, hoặc chẳng tịnh, chẳng nên trụ cái không nội là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ cái không nội là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ cái không. Nội là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ cái không nội là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Kiều Thi Ca Bất tư nghị là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ pháp giới cho đến cảnh giới. Bất tư nghị là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ chân như là tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên trụ pháp giới cho đến cảnh giới. Chẳng nên trụ chân như là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ pháp giới cho đến cảnh giới. Bất tư nghị là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ chân như là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ pháp giới cho đến cảnh giới. Bất tư nghị là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ chân như là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ pháp giới cho đến cảnh giới. Bất tư nghị là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Tiều Thi Ca. Đại Bồ-Tát, khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa, chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa là thường, hoặc vô thường, chẳng nên trụ tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự. Bác nhã Ba-la-mật-đa là thường, hoặc vô thường, chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa là lạc, hoặc khổ, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là lạc, hoặc khổ. Chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa là tình, hoặc bất tình. Chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là tình, hoặc bất tình, chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa là tịch tình, hoặc chẳng tịch tình, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là tịch tình, hoặc chẳng tịch tình. Chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly. Chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình gi giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến b bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tình giới cho đến bác nhã Ba Mười biến xứ là không, hoặc bất không, chẳng nên trụ tám giải thoát là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ tám thắng sướng, chính định thứ đệ. Mười biến xứ là hữu tướng, hoặc vô tướng, chẳng nên trụ tám giải thoát là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tám thắng sướng, chính định thứ đệ. Mười biến xứ là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tám thắng sướng, chính định thứ đệ. Mười biến xứ là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tám thắng sướng, chính định thứ đệ. Mười biến xứ là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tám thắng sướng, chính định thứ đệ. Mười biến xứ là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tám thắng sướng, chính định thứ đệ. Mười biến xứ là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tám thắng sướng, chính định thứ đệ. Mười biến xứ là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tám thắng sướng, chính định thứ đệ. Mười biến xứ là hữu nguyện, hoặc vô nguyện, chẳng nên trụ tám thắng sướng Chẳng nên trụ bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là tịnh, hoặc bất tịnh. Chẳng nên trụ bốn niệm trụ là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh. Chẳng nên trụ bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh. Chẳng nên trụ bốn niệm trụ là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly. Chẳng nên trụ bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly. Chẳng nên trụ bốn niệm trụ là không, hoặc bất không. Chẳng nên trụ bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không, hoặc bất không. Chẳng nên trụ bốn niệm trụ là hữu tướng, hoặc vô tướng. Chẳng nên trụ bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là hữu tướng, hoặc vô tướng. Chẳng nên trụ bốn niệm trụ là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Chẳng nên trụ bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Kiều Thi Ca Chẳng nên trụ pháp môn giải thoát không là ngã, hoặc vô ngã. Chẳng nên trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là ngã, hoặc vô ngã. Chẳng nên trụ pháp môn giải thoát không là tịnh, hoặc bất tịnh. Chẳng nên trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là tịnh, hoặc bất tịnh. Chẳng nên trụ pháp môn giải thoát không là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh. Chẳng nên trụ pháp môn giải thoát vô tử thoát vô tử tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh. Chẳng nên trụ pháp m dạy thoát vô tướng, vô nguyện là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly. Chẳng nên trụ pháp môn giải thoát không là không, hoặc bất không. Chẳng nên trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không, hoặc bất không. Chẳng nên trụ pháp môn giải thoát không là hữu tướng, hoặc vô tướng. Chẳng nên trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là hữu tướng, hoặc vô tướng. Chẳng nên trụ pháp môn giải thoát không là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Chẳng nên trụ pháp môn giải thoát vô tướng, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Đại Bồ Tát, khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa, chẳng nên trụ năm loại mắt là thường, hoặc vô thường. Chẳng nên trụ sáu phép thần thông là thường, hoặc vô thường. Chẳng nên trụ năm loại mắt là lạc, hoặc khổ. Chẳng nên trụ sáu phép thần thông là lạc, hoặc khổ. Chẳng nên trụ năm loại mắt là ngã, hoặc vô ngã. Chẳng nên trụ sáu phép thần thông là ngã, hoặc vô ngã. Chẳng nên trụ năm loại mắt là tịnh, hoặc bất tịnh. Chẳng nên trụ sáu phép thần thông là tịnh, hoặc bất tịnh. Chẳng nên trụ năm loại mắt là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh. Chẳng nên trụ sáu phép thần thông là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh. Chẳng nên trụ năm loại mắt là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly. Chẳng nên trụ sáu phép thần thông là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly. Chẳng nên trụ năm loại mắt là không, hoặc bất không. Chẳng nên trụ sáu phép thần thông là không, hoặc không. Chẳng nên trụ năm loại mắt là hữu tướng, hoặc vô tướng. Chẳng nên trụ sáu phép thần thông là hữu tướng, hoặc vô tướng. Chẳng nên trụ năm loại mắt là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Chẳng nên trụ sáu phép thần thông là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện. Lại nữa, Kiều Thi Ca Bất cộng là ngã, hoặc vô ngã. Chẳng nên trụ bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật. Bất cộng là tịnh, hoặc bất tịnh. Chẳng nên trụ mười lực của Phật là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh. Chẳng nên trụ bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật. Bất cộng là tịnh, hoặc bất tịnh. Chẳng nên trụ mười lực của Phật là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh. Chẳng nên trụ bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật. Bất cộng là tịch tịnh, hoặc chẳng tịch tịnh. Chẳng nên trụ mười lực của Phật là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly. Chẳng nên trụ bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật. Bất cộng là viễn ly, hoặc chẳng viễn ly. Chẳng nên trụ mười lực của Phật là không, hoặc bất không. Chẳng nên trụ bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật. Bất cộng là không, hoặc bất không. Chẳng nên trụ mười lực của Phật là hữu tướng, hoặc vô tướng. Chẳng nên trụ bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật. Bất cộng là hữu tướng, hoặc vô tướng. Chẳng nên trụ mười lực của Phật là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Chẳng nên trụ bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật. Bất cộng là hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ là lấy hữu sở đắc làm phương tiện.

Listen Next

Other Creators