Home Page
cover of kinhdaibatnha (533)
kinhdaibatnha (533)

kinhdaibatnha (533)

Phuc Tien

0 followers

00:00-42:19

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech
0
Plays
0
Downloads
0
Shares

Audio hosting, extended storage and much more

AI Mastering

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba-la-mật-đa Tập 22 Quyển 533 xxxx Phẩm Thí Bình Đẳng 02 Bây giờ, Cụ Thọ Thiền Hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Nếu các hữu tình và sự hoạt động của họ đều hoàn toàn bất khả đắc thì các Đại Bồ Tát vì ai mà hành Bát Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa? Phật dạy Này Thiền Hiện Các Đại Bồ Tát chỉ lấy thực tế so lường nên hành Bát Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Thiền Hiện nên viết Nếu hữu tình tế khác với thực tế thì các Đại Bồ Tát không nên hành Bát Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Vì các hữu tình tế không khác thực tế nên chúng Đại Bồ Tát hành Bát Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Lại nữa, này Thiền Hiện Các Đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa vì không làm hoại pháp thực tế an lập hữu tình, làm cho họ trụ nơi thực tế. Cụ Thọ Thiền Hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Nếu hữu tình tế tức là thực tế thì vì sao Đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa không làm hoại pháp thực tế an lập hữu tình, làm cho trụ nơi thực tế? Bạch Thế Tôn Đại Bồ Tát nào khi hành Bát Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa an lập hữu tình làm cho trụ nơi thực tế thì an lập thực tế làm cho trụ nơi thực tế? Nếu an lập thực tế làm cho trụ nơi thực tế thì tức là an lập tự tánh làm cho trụ nơi tự tánh. Nhưng đúng lý thì không thể an lập tự tánh trụ nơi tự tánh. Như vậy làm sao cho rằng các Đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng làm hoại pháp thực tế an lập hữu tình làm trụ nơi thực tế? Phật dạy Này Thiện Hiện Đúng lý không nên an lập thực tế trụ nơi thực tế. Cũng không nên an lập tự tánh trụ nơi tự tánh. Nhưng vì các Đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa dùng phương tiện thiện xảo nên có thể an lập hữu tình làm cho trụ nơi thực tế mà hữu tình tế chẳng khác thực tế. Như vậy, này Thiện Hiện Hữu tình tế và thực tế không hai, không khác. Cụ Thỏ Thiện Hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Thế nào gọi là phương tiện thiện xảo của Đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa do oai lực của phương tiện thiện xảo này nên an lập hữu tình làm cho chúng trụ nơi thực tế nhưng không làm hoại tướng của thực tế? Phật dạy Này Thiện Hiện Các Đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã Ba-la-mật-đa sâu xa từ lúc mới phát tâm đã thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy. Do oai lực của phương tiện thiện xảo này nên an lập hữu tình làm cho họ trụ nơi Pháp Bố Thí. Các hữu tình kia trụ nơi Pháp Bố Thí rồi, Đại Bồ Tát vì họ mà nói tướng Bố Thí ở chặng đầu, giữa, sau không sai khác, nói như vậy. Pháp Bố Thí như vậy, ở chặng đầu, giữa, sau đều không? Người Thí, người Nhận, kết quả đen Bố Thí cũng đều không? Tất cả như vậy, ở nơi thực tế đều vô sở hữu, đều bất khả đắc. Các ông không nên chấp có Người Bố Thí, Người Nhận, Quả Thí, thực tế khác nhau. Nếu các ông không chấp vào sự Bố Thí, Người Thí, Người Nhận, Quả Thí, thực tế đều khác nhau thì sự tu phước do Bố Thí sẽ đạt đến cam lộ, và được cam lộ, đều nhờ vào cam lộ mà được giải thoát. Lại nói như vậy. Các ông làm phước do Bố Thí nhưng không chấp vào sát quẩn cho đến thức quẩn. Không nên chấp nhãn xứ cho đến ý xướng. Không nên chấp sát giới cho đến pháp giới. Không nên chấp nhãn giới cho đến ý giới. Không nên chấp sát giới cho đến pháp giới. Không nên chấp nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Không nên chấp nhãn xuất cho đến ý xuất. Không nên chấp các thỏ do nhãn xuất làm duyên sanh ra, cho đến các thỏ do ý xuất làm duyên sanh ra. Không nên chấp đị giới cho đến thức giới. Không nên chấp nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Không nên chấp các pháp theo duyên sanh ra. Không nên chấp vô mình cho đến lão tử. Không nên chấp Bố Thí cho đến bác ngã ba la mật đa. Không nên chấp pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Không nên chấp chân như cho đến cảnh giới bất tương nhi. Không nên chấp thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Không nên chấp bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Không nên chấp bốn tỉnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Không nên chấp pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Không nên chấp tám giải thoát cho đến người biến xướng. Không nên chấp tỉnh quán địa cho đến như lai địa. Không nên chấp được khỉ địa cho đến pháp vân địa. Không nên chấp tất cả pháp môn đà la ni, pháp môn tam ma địa. Không nên chấp năm loại mắt, sáu phép thần thông. Không nên chấp mười lực như lai cho đến mười tám pháp phật bất cộng. Không nên chấp đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã. Không nên chấp ba mươi hai tướng của đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp. Không nên chấp pháp không quên mất, tảnh luôn luôn xã. Không nên chấp trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Không nên chấp quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề. Không nên chấp hạnh của đại bồ tác. Không nên chấp quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Không nên chấp pháp hữu lậu và vô lậu. Không nên chấp pháp thế gian và suất thế gian. Không nên chấp pháp hữu vi và vô vi. Vì sao? Vì tất cả bố thí, bố thí tánh không. Tất cả người thí, người thí tánh không. Tất cả người nhận, người nhận tánh không. Tất cả quả thí, quả thí tánh không. Bố thí tánh không thì người thí, người nhận và các quả thí đều bất khả đắc. Vì sao? Các pháp như vậy tự tánh đều khác nhau, đều hoàn toàn không. Trong hoàn toàn không, các pháp như vậy đều bất khả đắc. Do các pháp bất khả đắc nên pháp được cũng bất khả đắc. Lại nữa, này thiện hiện! Các đại bồ tác khi hành bát nhã Palamuddha sâu xa, từ lúc mới phát tâm thành tự phương tiện thiện phảo như vậy. Do oai lực của phương tiện thiện xảo này nên an lập hữu tình, làm cho họ an trụ nơi tỉnh giới. Các hữu tình kia trụ nơi tỉnh giới rồi, đại bồ tác nói, từ nay các ông đối với tất cả hữu tình nên sanh tâm thương xót, xa lìa sự giết hại sanh mạng, nói rộng cho đến xa lìa tạ kiến, tu hành chánh kiến. Vì sao? Vì các pháp như thế đều vô tự tánh, các ông chẳng nên phân biệt chấp trước. Các ông phải nên quan sát đúng lý pháp nào gọi là sanh mà muốn hại mạng ấy, lại do duyên nào mà hại mạng sống ấy. Nói rộng cho đến pháp nào gọi là cảnh bị tạ kiến, muốn sanh tạ kiến thì do duyên nào mà sanh tạ kiến. Tất cả như vậy, tự tánh đều không. Thiện hiện nên biết, đại bồ tác này khi hành bác nhã Palamarda sâu xa, thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, nên thành thuộc hữu tình một cách hoàn toàn, đem vô lượng pháp môn vì họ mà giảng thuyết bố thí và quả tình giới đều bất khả đắc, làm cho họ biết rõ bố thí và quả tình giới tự tánh đều không. Hữu tình đã biết rõ sự tu bố thí và quả tình giới tự tánh không rồi, nên ngay trong pháp không sanh chấp trước. Do không chấp nên tâm không tán loạn, tâm không tán loạn nên có thể phát sanh diệu tuệ. Nhờ diệu tuệ này, đoạn trừ được tùy niên và các sự trói buộc trội nên nhập vào cảnh giới vô dư y bác nhiết bàn. Thiện hiện nên biết, sự giảng thuyết như vậy đều nương vào thế tục, chẳng nương nơi thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong pháp không, không có mảy may pháp nào khả đắc. Hoặc đã niết bàn, hoặc đang niết bàn, hoặc sẽ niết bàn, hoặc người niết bàn, hoặc do đây nên được nhập vào niết bàn V, V, tất cả như thế đều vô sở hữu, đều hoàn toàn không. Tánh hoàn toàn không tức là niết bàn, nhưng liệt pháp không này sẽ không có thật pháp niết bàn. Lại nữa, này thiện hiện. Các đại Bồ Tát khi hành bác nhã Balamudda sâu xa, từ lúc mới phát tâm thành tựu phương tiện thiện xảo như thế. Do oai lực của phương tiện thiện xảo này nên thấy các hữu tình tâm nhiều giận dữ, nên thương xót, dùng phương tiện giáo giới, nói như vậy, từ nay các ông nên tu an nhẫn, vui pháp an nhẫn, điều phục tâm mình, thọ hành an nhẫn. Pháp mà các ông đã giận dữ, tánh đều không, tại sao đối với pháp ấy sanh tâm giận dữ? Các ông phải nên quan sát đúng lý, ta do pháp nào mà sanh giận dữ? Ai giận dữ? Giận dữ với ai? V, V. Các pháp như vậy, bản tánh đều không? Bản tánh pháp không chưa từng chẳng không? Tánh không như vậy chẳng phải Như Lai tạo ra, chẳng phải Bồ Tát tạo ra, chẳng phải Độc Giác tạo ra, chẳng phải Thanh Văn tạo ra, cũng chẳng phải Đồng Thần, nói rộng cho đến người chẳng phải người tạo ra, cũng chẳng phải Trời Tứ Đại Thiên Vương cho đến Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ tạo ra. Các ông phải nên quan sát đúng lý, giận dữ như vậy do đâu sanh ra? Lệ thuộc vào ai? Đối với ai mà sanh? Sẽ thu nhận quả gì? Hiện tại được lợi ích gì? Tất cả pháp này bản tánh đều không, chẳng phải trong tánh không có sự giận dữ. Vì vậy, phải thu an nhẫn để làm lợi ích cho chính mình. Như vậy, này thiện hiện. Các Đại Bồ Tát khi hành bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, an lập hữu tình, nơi lý tánh không, nhân quả tánh không, tuần tự đem quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề chỉ bày, khuyên bảo, khen ngợi, vui mừng, làm cho an trụ hoàn toàn, mau được chính quả. Thiện hiện nên biết. Sự giảng thuyết như vậy đều nương vào thế tục, chẳng nương nơi thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong bản tánh không, không có người chính, Pháp được chính, thời gian chính, nơi trốn để chính đều không thật có. Thiện hiện nên biết. Đây gọi là lý thực tế bản tánh không. Các Đại Bồ Tát vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình nên nương vào lý thực tế bản tánh không này mà hành bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nhưng chẳng đắt hữu tình và sự hoạt động của chúng. Vì sao? Vì tất cả Pháp đều lị các hữu tình. Hữu tình lị Pháp nên bất khả đắt. Pháp và hữu tình do đối đải nhau mà lập nên, nương vào thắng nghĩa nên nói tất cả đều không. Lại nữa, này thiện hiện. Các Đại Bồ Tát khi hành bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, từ lúc mới phát tâm thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy. Do oai lực của phương tiện thiện xảo này, nên thấy các hữu tình thân tâm lười biến, thối lui không tinh tấn, nên dùng phương tiện khuyên bảo, dẫn dắt làm cho họ phát khởi thân tâm tinh tấn, tù các thiện Pháp, nói như vậy, các thiện nam tử. Hãy nên tin họ sâu xa, trong bản tánh không, không có Pháp lười biến, không có người lười biến, không có lúc lười biến, không do Pháp này mà sanh lười biến. Tất cả như vậy, bản tánh đều không, không vượt qua, không lý lẽ. Các ông nên phát khởi thân tâm tinh tấn, xả bỏ sự lười biến, xuyên tu thiện Pháp, nghĩa là tu bố thí cho đến bát nhã Ba-la-mật-đa. Hoặc tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Hoặc tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Hoặc tu Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Hoặc trụ Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không. Hoặc trụ chân như cho đến cảnh giới bất tư nghi. Hoặc trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Hoặc tu tám giải thoát cho đến mười biến hướng. Hoặc tu tịnh quán địa cho đến như lai địa. Hoặc tu cực khỉ địa cho đến Pháp vân địa. Hoặc tu tất cả Pháp môn Đà-la-ni, Pháp môn Tam-ma địa. Hoặc tu năm loại mắt, sáu phép thần thông. Hoặc tu mười lực như lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Hoặc tu đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã. Hoặc tu ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp của bậc đại sĩ. Hoặc tu Pháp không quên mất, tảnh luôn luôn xã. Hoặc tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Hoặc tu quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề. Hoặc tu tất cả hành của đại Bồ Tát. Hoặc tu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chiêu Phật. Hoặc tu vô lượng, vô biên các Phật Pháp khác. Hãy nên tinh tấn, chớ sanh lười biến, nếu sanh lười biến thì chịu khổ vô cùng. Các thiện nam tử Tất cả Pháp này bản tánh đều không, không có các sự chiếu ngại. Các ông nên quan sát đúng lý trong bản tánh không, không có sự chiếu ngại, không có Pháp lười biến, không có người lười biến, không có lúc lười biến, không có nhân duyên lười biến v... v... đều bất khả đắc. Như vậy, này thiện hiện. Các đại Bồ Tát khi hành bác nhã Balamuddha sâu xa, thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, an lập hữu tình làm cho trụ vào lý các Pháp bản tánh không. Tuy làm cho an trụ nhưng không có hai tưởng. Vì sao? Vì lý bản tánh không, không hai, không khác, chẳng phải đối trong Pháp không hai mà Pháp sanh hai tưởng. Lại nữa, này thiện hiện. Đại Bồ Tát này hành bác nhã Balamuddha sâu xa, nương nơi bản tánh không, giáo hóa, truyền trao cho các loài hữu tình, làm cho họ siêng năng tu học, nói như vậy, các thiện nam tử. Các ông đối với thiện Pháp này phải siêng năng tu học. Nếu khi hành bố thí cho đến bác nhã Balamuddha, thì đối với các Pháp này không nên từ duy tướng hai hay không hai. Nói rộng cho đến nếu khi tu vô lượng, vô biên các Phật Pháp khác, thì đối với các Pháp này cũng không nên từ duy tướng hai hay không hai. Vì sao? Các thiện nam tử. Vì các Pháp như vậy, bản tánh đều không. Vì lý bản tánh không, nên không từ duy tướng hai hay không hai. Như vậy, này thiện hiện. Các đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Balamuddha sâu xa, thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, hành hành Bồ-Tát, thành phục hữu tình, các loài hữu tình đã được thành thục rồi, tùy theo chỗ thích ứng của họ, tuần tự giáo hóa làm cho an trụ quả dữ lưu, hoặc trụ quả nhất lai, bất hoàng, à-la-háng, độc giác bồ-đề, hoặc trụ vào các địa vị đại Bồ-Tát, hoặc quả vị vô thường chánh đẳng bồ-đề của chiêu Phật. Lại nữa, này thiện hiện. Các đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Balamuddha sâu xa, từ lúc mới phát tâm thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy. Do oai lực của phương tiện thiện xảo này, nên thấy các hữu tình tâm nhiều tán loạn, đối với các dục cảnh không chìm chế các căng, phát sanh các nghiệp không thanh tịnh. Bồ-Tát thấy rồi dùng phương tiện giáo giới truyền trao, làm cho họ nhập vào thắng định, nói như vậy, các thiện nam tử. Hãy đến đây. Các ông nên tu tập Tama địa thù thắng, không nên sanh tâm tán loạn, nên tưởng thắng định. Vì sao? Vì các Pháp như vậy, bản tánh đều không. Trong bản tánh không, không có Pháp khả đắc, không có Pháp tán loạn, hoặc nhất tâm. Nếu các ông có thể an trụ vào thắng định này, thì làm các việc thiện mau được thành tựu viên mãn, và tùy theo sự mong cầu đều trụ vào bản tánh không. Các việc thiện đã làm là như thế nào? Nghĩa là phát sanh nghiệp tịnh thắng nơi thân, khẩu, ý, hoặc là tu bố thí cho đến Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Nói rộng cho đến tu hành của Đại Bồ-Tát và quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ của Chiêu Phật, hoặc thành thuộc hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Tất cả thiện Pháp tịnh thắng như vậy, do oai lực thắng định, nên mau thành tựu viên mãn và tùy theo sở nguyện trụ vào bản tánh không? Như vậy, này thiện hiện. Các Đại Bồ-Tát hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo vì muốn làm lợi ích cho các loài hữu tình, nên từ lúc mới phát tâm cho đến cuối cùng làm các việc thiện lợi, luôn không ngừng nghỉ. Vì muốn làm lợi ích an vui cho các hữu tình, nên từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, gần gũi cúng dường Chiêu Phật Thế Tôn, lắng nghe Chiêu Phật thuyết giảng chánh Pháp, trải qua vô số kiếp xả thân, thỏ thân cho đến khi thành quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, ở trong giai đoạn ấy quyết chẳng quên mất. Đại Bồ-Tát này được Đà-La-Ni, căng thân, khẩu, ý thường không suy giảm. Vì sao? Vì Đại Bồ-Tát này thường tu trí nhất thiết tướng một cách hoàn toàn, các việc làm suy lượng hoàn toàn. Do tu trí nhất thiết tướng và việc làm suy lượng hoàn toàn nên đối với tất cả đạo đều có thể tu tập. Đó là Đạo Thanh Văn, Đạo Độc Giác, Đạo Bồ-Tát, Đạo Như Lai, Đạo Thắng Thiên, Đạo Thắng Nhân, Đạo Thần Thông Thù Thắng của các Bồ-Tát. Đại Bồ-Tát này do trụ vào Đạo Thần Thông Thù Thắng nên thường làm các việc lợi ích cho các hữu tình, dù phải nhiều kiếp trôi lăng trong vòng sanh tử nhưng Thần Thông Thù Thắng thường không suy giảm. Vì không suy giảm gì thuộc Thần Thông nên thường làm các việc lợi ích thù thắng cho mình và người. Như vậy, này thiện hiện. Các Đại Bồ-Tát hành bác nhã Palamuddha sâu xa trụ vào bản tánh không, dùng phương tiện thiện xảo làm lợi ích cho các loài hữu tình một cách hoàn toàn. Lại nữa, này thiện hiện. Các Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Palamuddha sâu xa, từ lúc mới phát tâm thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, do oai lực của phương tiện thiện xảo này nên trụ vào bản tánh không, thấy các hữu tình trí tuệ cạn trật, ngu si điên đảo, gây nhiều ác nhịp, Bồ-Tát giáo hóa truyền trao phương tiện, dự dắt chúng vào bác nhã Palamuddha sâu xa, nói như vậy, các thiện nam tử nên tu bác nhã Palamuddha, quán tất cả pháp bản tánh đều không. Nếu các ông có thể tu được bác nhã Palamuddha này và quán tất cả pháp bản tánh đều không, thì sự tu hành về nhịp thân, khẩu, ý sẽ đạt đến cam lộ, được cam lộ và đều nhờ vào cam lộ mà được giải thoát. Các thiện nam tử Tất cả pháp này bản tánh đều không. Trong bản tánh không, hữu tình và pháp tuy bất khả đắc nhưng sự tu hành cũng chẳng suy giảm. Vì sao? Này thiện nam tử Lý bản tánh không, không tăng không giảm. Trong bản tánh không, không có pháp tăng giảm, không có người tăng giảm. Vì sao? Vì lý bản tánh không, chẳng phải có tự tánh, chẳng phải vô tự tánh, lì các sự phân biệt, đoạn các khí luận, nên ở trong ấy không có pháp tăng giảm, không có người tăng giảm, do đây việc làm cũng không suy giảm. Vì vậy, các ông nên tu bác nhã Palamuddha, quán bản tánh không, làm việc đáng làm. Như vậy, này thiện hiện Các Đại Bồ Tát hành bác nhã Palamuddha sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo giáo giới truyền trao cho các loài hữu tình, làm cho họ an trụ vào bác nhã Palamuddha, trụ vào bản tánh không, tu các nghiệp lành. Thiện hiện nên biết Đại Bồ Tát này giáo hóa truyền trao cho hữu tình như vậy, tu các nghiệp lành, luôn không lười biến. Nghĩa là, tự mình thường hành 10 thiện nghiệp đạo, cũng khuyên người khác hành 10 thiện nghiệp đạo. Tự mình giữ gìn 5 giới cận sự, cũng khuyên người khác giữ gìn 5 giới cận sự. Tự mình giữ gìn 8 giới cận sự, cũng khuyên người khác giữ gìn 8 giới cận sự. Tự mình thọ trị các giới xuất gia, cũng khuyên người khác thọ trị các giới xuất gia. Tự mình tu hành 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, cũng khuyên người khác tu hành 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc. Tự mình tu hành 4 niệm trụ cho đến 8 chi thánh đạo, cũng khuyên người khác tu hành 4 niệm trụ cho đến 8 chi thánh đạo. Tự mình tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, cũng khuyên người khác tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tự mình tu hành bố thí cho đến bác nhã ba la mật đa, cũng khuyên người khác tu hành bố thí cho đến bác nhã ba la mật đa. Tự mình an trụ pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không, cũng khuyên người khác an trụ pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Tự mình an trụ chân như cho đến cảnh giới bất tư nghị, cũng khuyên người khác an trụ chân như cho đến cảnh giới bất tư nghị. Tự mình an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, cũng khuyên người khác an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Tự mình tu hành tám giải thoát cho đến mười biến phướng, cũng khuyên người khác tu hành tám giải thoát cho đến mười biến phướng. Tự mình tu hành các địa vị Bồ Tát, cũng khuyên người khác tu hành các địa vị Bồ Tát. Tự mình tu hành pháp môn Đà La Ni, pháp môn Tam Ma Địa, cũng khuyên người khác tu hành pháp môn Đà La Ni, pháp môn Tam Ma Địa. Tự mình tu học năm loại mắt, sáu phép thần thông, cũng khuyên người khác tu học năm loại mắt, sáu phép thần thông. Tự mình tu học mười lực như lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, cũng khuyên người khác tu học mười lực như lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tự mình tu học đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, cũng khuyên người khác tu học đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã. Tự mình tu học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã, cũng khuyên người khác tu học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã. Tự mình tu học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng khuyên người khác tu học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Tự mình tu học ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp của bậc đại sĩ, cũng khuyên người khác tu học ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp của bậc đại sĩ. Tự mình nỗ lực tu quả dự lưu cho đến độc giác Bồ Đề, nhưng không trụ vào quả dự lưu cho đến độc giác Bồ Đề, cũng khuyên người khác nỗ lực tu quả dự lưu cho đến độc giác Bồ Đề, hoặc làm cho họ ăn trụ quả dự lưu cho đến độc giác Bồ Đề. Tự mình phát sanh các hành của Đại Bồ Tát, cũng khuyên người khác phát sanh các hành của Đại Bồ Tát. Tự mình phát sanh đạo quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật, cũng khuyên người khác phát sanh đạo quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật. Như vậy, này thiện hiện! Các Đại Bồ Tát hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo, tự mình tu nghiệp lành luôn không biến nhát, giáo giới truyền trao cho các loài hữu tình cũng tu theo nghiệp lành, thường không biến nhát. Này thiện hiện! Đây gọi là các Đại Bồ Tát khi hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo, do oai lực của phương tiện thiện xảo này nên an lập hữu tình, làm cho họ trụ nơi thực tế, nhưng không làm hoại tướng thực tế, mau chứng được quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Bây giờ, thiện hiện Bạch Phật! Bạch Thế Tôn Nếu tất cả pháp bản tánh đều không, trong bản tánh không, có hữu tình và pháp đều bất khả đắc. Bởi vì trong ấy cũng không phi pháp, nên Đại Bồ Tát làm sao vì các hữu tình cầu mau chứng trí nhất thiết trí? Phật dạy! Này thiện hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, các pháp chứng được bản tánh đều không. Trong bản tánh không, hữu tình và pháp đều bất khả đắc, bởi vì trong ấy cũng không phi pháp. Thiện hiện nên biết! Nếu tất cả pháp tánh chẳng không thì các Đại Bồ Tát khi hành bác nhã Balamudda sâu xa, không nên an trụ vào lý bản tánh không, cầu mau chứng được trí nhất thiết trí, vì sự lợi ích cho hữu tình mà thuyết pháp bản tánh không. Bởi tất cả pháp bản tánh đều không. Cho nên các Đại Bồ Tát khi hành bác nhã Balamudda sâu xa, an trụ vào lý của tất cả pháp bản tánh đều không, để cầu mau chứng đắc trí nhất thiết trí, vì làm lợi ích cho hữu tình mà thuyết pháp bản tánh không. Các pháp bản tánh đều không là như thế nào mà các Đại Bồ Tát khi hành bác nhã Balamudda sâu xa, như thật biết rõ bản tánh không rồi, an trụ vào bản tánh không ấy vì các hữu tình mà thuyết pháp. Thiện hiện nên biết. Sắc cho đến thức bản tánh đều không. Nhãn xứ cho đến ý xứ bản tánh đều không. Sắc xứ cho đến pháp xứ bản tánh đều không. Nhãn giới cho đến ý giới bản tánh đều không. Sắc giới cho đến pháp giới bản tánh đều không. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới bản tánh đều không. Nhãn xúc cho đến ý xúc bản tánh đều không. Các họ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các họ do ý xúc làm duyên sanh ra bản tánh đều không. Địa giới cho đến thức giới bản tánh đều không. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên bản tánh đều không. Các pháp theo duyên sanh ra bản tánh đều không. Vô minh cho đến lão tử bản tánh đều không. Bố thí cho đến bác nhã Balamudda bản tánh đều không. Pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không bản tánh đều không. Chân như cho đến cảnh giới bất tương nghi bản tánh đều không. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo bản tánh đều không. 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc bản tánh đều không. 4 niệm trụ cho đến 8 chi thánh đạo bản tánh đều không. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện bản tánh đều không. 8 giải thoát cho đến 10 điến xứ bản tánh đều không. Tình quán địa cho đến như lai địa bản tánh đều không. Cực khỉ địa cho đến pháp vân địa bản tánh đều không. Pháp môn Dalani, pháp môn Tamma địa bản tánh đều không. 5 loại mắt, 6 phép thần thông bản tánh đều không. 10 lực như lai cho đến 18 pháp Phật bất cộng bản tánh đều không. Đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã bản tánh đều không. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã bản tánh đều không. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng bản tánh đều không. 32 tướng, 80 vẻ đẹp bản tánh đều không. Quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề bản tánh đều không. Tất cả hành của Đại Bồ Tát bản tánh đều không. Quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật bản tánh đều không. Đoạn trừ tất cả sự tương tục của tập khí phiền não bản tánh đều không. Trí nhất thiết trí bản tánh đều không. Các Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, như thật biết sắc v, v, năm quẩn, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí bản tánh là không rồi, trụ vào bản tánh không, vì các hữu tình mà giảng thuyết chánh pháp bản tánh không như vậy. Lại nữa, này thiện hiện. Nếu tánh pháp nội không bản tánh chẳng không, cho đến tánh pháp vô tính tự tính không bản tánh chẳng không, thì các Đại Bồ Tát khi hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, không nên vì các hữu tình mà giảng thuyết tất cả pháp bản tánh đều không. Nếu nói như thế thì tức là làm hoại bản tánh không. Nhưng lý bản tánh không không thể hoại, chẳng thường, chẳng đoạn. Vì sao? Vì lý bản tánh không không có phương hướng, không nơi trốn, không từ đâu đến, cũng không đi về đâu. Lý không như vậy gọi là pháp trụ. Trong đây không pháp, không tụ, không tán, không giảm, không tăng, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, bản tánh trụ vào tất cả pháp. Các Đại Bồ Tát an trụ trong ấy cầu mau chính đắc trí nhất thiết trí. Không thấy có pháp, có sự mong cầu chính đắc, cũng không thấy có pháp không có sự mong cầu chính đắc, vì tất cả pháp đều vô sở trụ, nên gọi là pháp trụ. Các Đại Bồ Tát an trụ trong ấy hành bác nhã Palamuddha sâu xa, thấy tất cả pháp bản tánh không rồi, nhất định ở nơi quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề Quyết không thối chuyển. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này không thấy có pháp có thể chiếu ngại. Vì thấy tất cả pháp không chiếu ngại, nên đối với quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề không sanh nghi ngờ, cũng không thối chuyển. Lại nữa, này thiện hiện. Các Đại Bồ Tát trụ trong tất cả pháp bản tánh không, quán bản tánh không đều vô sở đắc. Nghĩa là ngã, hữu tình, nói rộng cho đến người biết, người thấy và sự hoạt động kia đều bất khả đắc. Xác cho đến thức và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Nhãn xứ cho đến ý xứ và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Xác xứ cho đến pháp xứ và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Nhãn giới cho đến ý giới và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Xác giới cho đến pháp giới và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Nhãn xúc cho đến ý xúc và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Địa giới cho đến thức giới và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Các pháp theo duyên sanh ra và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Vô minh cho đến lão tử và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Bố thí cho đến bác nhã ba la mật đa và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Chân như cho đến cảnh giới bất tư nghi và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Bốn tỉnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Tám giải thoát cho đến mười biến khứ và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Tỉnh quán địa cho đến như lai địa và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Cực khỉ địa cho đến pháp vân địa và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Pháp môn đà-la-ni, pháp môn tam-ma-địa và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Năm loại mắt, sáu phép thần thông và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Mười lực như lai cho đến mười tám pháp vật bất cộng và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Tất cả hành của Đại Bồ Tát, quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Pháp hữu lậu, vô lậu và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Pháp thế gian, suốt thế gian và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Pháp hữu vi, vô vi và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp của Bậc Đại Sĩ và sự hoạt động kia cũng bất khả đắc. Thiện hiện nên biết. Vĩ như có như là ứng chánh đẳng giác hóa làm bốn chúng là bí sô, bí sô ni, cần sự nam, cần sự nữ. Giả sử có vị hóa Phật sống lâu một kiếp hoặc hơn một kiếp, vì bốn chúng được hóa ấy mà giảng thuyết chánh Pháp. Ý ông thế nào? Hóa chúng như thế có thể chứng được quả Dự Lưu, quả Nhất Lai, quả Bất Hoàng, quả A-la-hán, quả Bồ-đệ, cho đến chứng được quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đệ bất thối chuyển không? Thiện hiện Bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Không chứng được. Vì sao? Vì những chúng biến hóa này đều không thật. Chẳng phải Pháp không thật mà có thể được thọ ký bất thối chuyển. Phật dạy. Này Thiện hiện! Các Pháp cũng vậy, bản tánh đều không, quyết không thật sự. Đối với Đại Bồ-Tát nào, vì các hữu tình mà giảng thuyết những Pháp gì có thể làm cho họ chứng đắc quả Dự Lưu cho đến được thọ ký bất thối chuyển? Thiện hiện nên biết. Các Đại Bồ-Tát tuy vì hữu tình giảng thuyết Pháp không nhưng các hữu tình thật bất khả đắc. Vì thương pháp họ bị đoạ trong Pháp điên đảo nên cứu vớt làm cho trụ vào Pháp không điên đảo. Pháp không điên đảo là Pháp không còn phân biệt, không còn phân biệt tức là không điên đảo. Nếu người nào còn phân biệt thì còn điên đảo và còn trong quả đẳng lưu. Thiện hiện nên biết. Điên đảo tức là Pháp không điên đảo. Trong không điên đảo, không có ngã và hữu tình, nói rộng cho đến không có người biết, người thấy. Cũng không có sát quẩn cho đến thức quẩn. Cho đến cũng không có 32 tướng, 80 vẻ đẹp. Thiện hiện nên biết. Vô sở hữu này là bản tánh không? Các đại Bồ Tát khi hành bác ngã Palamatta sâu xa, an trụ trong đây, thấy các hữu tình đọa vào tưởng điên đảo, dùng phương tiện thiện xảo độ họ được giải thoát, nghĩa là giải thoát không có ngã, tưởng có ngã, nói rộng cho đến không có người thấy, biết tưởng có người thấy, biết. Cũng giải thoát, không có sát tưởng có sát, nói rộng cho đến không có 80 vẻ đẹp tưởng có 80 vẻ đẹp. Cũng làm cho giải thoát 5 thủ quẩn V, V, các pháp hữu lậu, giải thoát 4 niệm trụ V, V, các pháp vô lậu. Vì sao? Vì 4 niệm trụ V, V, các pháp vô lậu chẳng phải là thắng nghĩa, vô sanh, vô diệt, vô tướng, vô vi, vô hí luận, vô phân biệt. Vì vậy, nên giải thoát các pháp trên. Chân thắng nghĩa tức là bản tánh không? Bản tánh không ở đây tức là sự tu chứng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề chư Phật. Thiện hiện nên biết, trong đây không có ngã cho đến người thấy có thể đắt. Không có sát quẩn cho đến thức quẩn có thể đắt. Không có nhãn xứ cho đến ý xứ có thể đắt. Không có sát xứ cho đến pháp xứ có thể đắt. Không có nhãn giới cho đến ý giới có thể đắt. Không có sát giới cho đến pháp giới có thể đắt. Không có nhãn thức giới cho đến ý thức giới có thể đắt. Không có nhãn xuất cho đến ý xuất có thể đắt. Không có các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra có thể đắt. Cũng không địa giới cho đến thức giới có thể đắt. Không có nhân duyên cho đến tăng thượng duyên có thể đắt. Không có các pháp theo duyên sanh ra có thể đắt. Không có vô mình cho đến lão tử cũng không. Không có bố thí cho đến bác nhã ba la mật đa cũng không. Không có pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không có thể đắt. Không có chân như cho đến cảnh giới bất tương nghị có thể đắt. Không có thánh đế khổ, tập, diệt, đạo có thể đắt. Không có bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo có thể đắt. Không có bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể đắt. Không có pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện có thể đắt. Không có tám giải thoát cho đến mười biến xứ có thể đắt. Không có tỉnh quán địa cho đến như lai địa có thể đắt. Không có cực khỉ địa cho đến pháp vân địa có thể đắt. Không có pháp môn đà la ni, pháp môn tam ma địa có thể đắt. Không có năm loại mắt, sáu phép thần thông có thể đắt. Không có mười lực như lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng có thể đắt. Không có đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã có thể đắt. Không có pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã có thể đắt. Không có trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể đắt. Không có quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề có thể đắt. Không có các hạnh của đại bồ tác, quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật có thể đắt. Không có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp của bậc đại sĩ có thể đắt. Thiện hiện nên biết. Các đại bồ tác chẳng vì đạo quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề mà cầu đến quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, chỉ vì các pháp bản tánh không nên cầu đến quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Bản tánh không này, chặn đầu, giữa, sau bản tánh đều không, không có đoạn nào là chẳng không. Các đại bồ tác trụ bản tánh không ba la mật đa vì muốn giải thoát các loài hữu tình, chấp tưởng hữu tình và tưởng pháp nên hành trí đạo tướng. Đại bồ tác này khi hành trí đạo tướng tức là hành tất cả đạo, đó là đạo thanh văn, đạo độc giác, đạo bồ tác, đạo như lai. Thiện hiện nên biết. Đại bồ tác này đối với tất cả đạo được viên mãn rồi, thành thuộc hữu tình, trang nghiêm thanh tình cõi Phật, thọ mạng lâu dài, chứng đến quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Đã chứng đến quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề rồi mới có thể làm cho Phật nhãn thường không đoạn gì. Phật nhãn là như thế nào? Đó là bản tánh không. Chiêu Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại trụ khắp mười phương thế giới vì các hữu tình mà giảng thuyết chánh pháp đều dùng bản tánh không này mà làm Phật nhãn. Thiện hiện nên biết. Chắc chắn không có vị Phật nào lìa bản tánh không mà xuất hiện ở đây. Chiêu Phật tra đời đều thuyết nghĩa bản tánh không, cốt yếu giáo hóa hữu tình nghe Phật thuyết nghĩa bản tánh không mới nhập vào thánh đạo, chứng được thánh quả. Nếu lìa bản tánh không thì không có phương tiện nào khác. Vì vậy, này thiện hiện. Các Đại Bồ Tát muốn mau chứng đắc trí nhất thiết trí nên phải an trụ vào lý bản tánh không, tu hành sáu pháp Balamuddha và các hành của Đại Bồ Tát. Nếu đã an trụ vào bản tánh không, tu hành sáu pháp Balamuddha và các hành của Đại Bồ Tát thì chắc chắn chẳng thối lui trí nhất thiết trí thường làm lợi ích cho tất cả hữu tình. Cụ thỏ thiện hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát rất là hy hữu đặc biệt, tuy hành tất cả pháp bản tánh không, nhưng đối với bản tánh không thường không hoại gì. Nghĩa là không chấp sắc, thọ, tưởng, hành, thứ khác bản tánh không, cho đến không chấp quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật khác bản tánh không. Bạch Thế Tôn Sắc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sắc. Cho đến quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật tức là bản tánh không, bản tánh không tức là quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật. Phật dạy Này thiện hiện Đúng vậy Đúng như lời ông nói Các Đại Bồ Tát rất hy hữu, tuy hành tất cả pháp bản tánh không, nhưng đối với bản tánh không thường không hoại mất. Thiện hiện nên biết Sắc chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác sắc. Sắc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sắc. Cho đến quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật. Quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật tức là bản tánh không, bản tánh không tức là quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật. Thiện hiện nên biết Nếu sắc khác bản tánh không, bản tánh không khác sắc. Sắc chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải sắc. Cho đến quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật khác bản tánh không, bản tánh không khác quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật. Quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật. Thì các Đại Bồ Tát khi hành bác nhã Balamudda sâu xa, chẳng nên quán tất cả pháp bản. Tánh đều không, cũng không thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Thiện hiện nên biết Vì sắc chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác sắc. Sắc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sắc. Cho đến quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật. Quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật tức là bản tánh không, bản tánh không tức là quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật. Vì thế nên các Đại Bồ Tát khi hành bác nhã Balamudda sâu xa, quán tất cả pháp bản tánh đều không mà có thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì lìa bản tánh không, không còn một pháp nào là thật có, thường hằng, hoại diệt. Trong bản tánh không, cũng không có một pháp nào là thật có, thường hằng, hoại diệt. Chỉ vì những kẻ ngu si, mê lầm, điên đảo, suy nghĩ có khác nhau, nghĩa là phân biệt sắc khác bản tánh không, cho đến phân biệt quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật khác bản tánh không. Vì những kẻ ngu si này phân biệt các pháp cùng với bản tánh không có khác nhau, nên không như thật biết sắc, không như thật biết thọ, tưởng, hành, thức. Bởi vì chẳng biết nên chấp trước sắc, chấp trước thọ, tưởng, hành, thức. Do chấp trước nên đối với sắc chấp có ngã và ngã sở, đối với thọ, tưởng, hành, thức chấp có ngã và ngã sở. Do vì vọng chấp có vật trong ngoài, còn thọ thân đời sao có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Do đây nên không thể giải thoát các đường sanh, lão, bệnh, tử, sầu, thang, khổ, ưu, não, qua lại trong ba cõi, luôn chuyển không ngừng. Do nhân duyên này, nên các đại Bồ Tát trụ vào bản tánh không ba la mật đa, hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, không chấp thọ sắc, cũng không hoại sắc, hoặc không, hoặc chẳng không. Cho đến quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ của Chiêu Phật cũng không hoại quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ của Chiêu Phật, hoặc không, hoặc chẳng không. Vì sao? Vì sắc chẳng hoại không, không chẳng hoại sắc, nghĩa là đây là sắc, đây là không. Cho đến quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ của Chiêu Phật chẳng hoại không, không chẳng hoại quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ của Chiêu Phật, nói đây là quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ của Chiêu Phật, đây là không. Ví như hư không chẳng làm hoại hư không, cõi hư không trong không làm hoại cõi hư không ngoài, cõi hư không ngoài chẳng làm hoại cõi hư không trong. Như vậy, này thiện hiện, sắc chẳng hoại không, không chẳng hoại sắc. Cho đến quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ của Chiêu Phật chẳng hoại không, không chẳng hoại quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ của Chiêu Phật. Vì sao? Vì các Pháp như thế đều vô tự tánh, không thể phân biệt đây là không, đây là chẳng không, vì tất cả Pháp bản tánh đều không. Trong bản tánh không, không còn phân biệt. Hãy đăng kí cho kênh lalaschool Để không bỏ lỡ những video hấp dẫn

Listen Next

Other Creators