Home Page
cover of kinhdaibatnha (513)
kinhdaibatnha (513)

kinhdaibatnha (513)

Phuc Tien

0 followers

00:00-46:32

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech
0
Plays
0
Downloads
0
Shares

Audio hosting, extended storage and much more

AI Mastering

Transcription

Kinh đại Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa Tập 21 Quyển 513 19. Phẩm chân như không một Bấy giờ, thiên tử cõi dục giới, cõi sáp giới đều mang các loại bột hương và nhiều loại hoa trời từ xa trải lên cúng Phật, đảnh lễ hai chân ngại rồi lui đứng qua một bên, chấp tay cùng kính thưa. Bạch Thế Tôn Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa như thế rất là sâu xa, khó thấy khó hiểu, không thể suy nghĩ, vượt cảnh giới suy nghĩ, màu nhịn vắng lặng, người trí thông minh mới có thể biết được. Chẳng phải hạn tầm thường thế gian có thể tin hiểu được, mà phải là quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Ở trong Kinh Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa thâm sâu này, tất cả như lai ứng chánh đẳng giác đều nói, 5 quận tức là trí nhất thiết trí, trí nhất thiết trí tức là 5 quận. Nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng tức là trí nhất thiết trí, trí nhất thiết trí tức là trí nhất thiết tướng. Chiêu Phật tức là trí nhất thiết trí, trí nhất thiết trí tức là chiêu Phật. Vì sao? Vì chân như của 5 quận, hoặc chân như của trí nhất thiết trí, hoặc chân như của tất cả Pháp, đều là một chân như, không hai, không khác. Nói rộng cho đến hoặc chân như của trí nhất thiết tướng, hoặc chân như của trí nhất thiết trí, hoặc chân như của tất cả Pháp đều là một chân như, không hai, không khác. Như chân như của chiêu Phật, hoặc chân như của trí nhất thiết trí, hoặc chân như của tất cả Pháp đều là một chân như, không hai, không khác. Bây giờ, Phật bảo các thiên tử, Đúng vậy! Đúng vậy! Như các vị đã nói, thiên tử nên biết. Khi quan sát nghĩa này, tâm ta chỉ hướng tới sự im lặng chẳng muốn thuyết Pháp. Vì sao? Vì Pháp này sâu xa khó thấy khó hiểu, không thể tìm tòi, suy nghĩ, vượt khỏi sự tìm tòi, suy nghĩ, nhìn màu vắng lặng. Hàng trí tuệ thông minh mới có thể biết được. Chẳng phải hạng tầm thường thế gian có thể tin hiểu được. Nghĩa là bác nhã Palamuddha thâm sâu là quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ mà chưa như lại ứng chánh đẳng giác đã chứng. Thiên tử nên biết. Chiêu Phật đã chứng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ nhưng không năng chứng cũng chẳng phải sợ chứng, không chỗ chứng, không thời chứng. Thiên tử nên biết. Pháp này thâm dự hiện hành của bất nhị. Thế gian chẳng thể so lường được. Thiên tử nên biết. Thư không sâu thẳm nên Pháp này sâu thẳm. Dân như cho đến cảnh giới bất tương nhị sâu thẳm nên Pháp này sâu thẳm. Vô lượng, vô biên sâu thẳm nên Pháp này sâu thẳm. Không vi không đến sâu thẳm nên Pháp này sâu thẳm. Không sanh, không diệt sâu thẳm nên Pháp này sâu thẳm. Không nhiễm, không tịnh sâu thẳm nên Pháp này sâu thẳm. Không biết, không đắc sâu thẳm nên Pháp này sâu thẳm. Không tạo, không tác sâu thẳm nên Pháp này sâu thẳm. Ngã cho đến người thấy sâu thẳm nên Pháp này sâu thẳm. Năm quẩn sâu thẳm nên Pháp này sâu thẳm. Nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng sâu thẳm nên Pháp này sâu thẳm. Tất cả Phật Pháp sâu thẳm nên Pháp này sâu thẳm. Khi ấy, các Thiên tử lại bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Ở đây đã thuyết Pháp sâu xa vì diệu này chẳng phải hạn tầm thường ở thế gian có thể tin nhận. Vì sao? Pháp thâm diệu này chẳng phải nắm giữ năm quẩn mà nói, chẳng vì xả bỏ năm quẩn mà nói với họ. Nói rộng cho đến chẳng vì nắm giữ trí nhất thiết tướng mà nói, chẳng vì xả bỏ trí nhất thiết tướng mà nói với họ. Chẳng vì nắm giữ tất cả Phật Pháp mà nói, chẳng vì xả bỏ tất cả Phật Pháp mà nói với họ. Hữu tình ở thế gian có nhiều hành động nắm giữ, chấp thủ ngã và ngã sở. Nghĩa là sắc là ngã là ngã sở, thọ, tưởng, hành, thức là ngã là ngã sở. Nói rộng cho đến trí nhất thiết là ngã là ngã sở, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là ngã là ngã sở. Bây giờ, Thế Tôn bảo các thiên tử. Đúng vậy. Đúng vậy. Như các ông đã nói. Thiên tử nên biết. Nếu Đại Bồ Tát vì nắm giữ năm quẩn mà tu hành, vì xả bỏ năm quẩn mà tu hành, nói rộng cho đến vì nắm giữ tất cả Phật Pháp mà tu hành, vì xả bỏ tất cả Phật Pháp mà tu hành, thì Đại Bồ Tát này không thể tu hành bác ngã, tình lựu, tinh tấn, an nhẫn, tình giới, vô thí ba la mật đa. Nói rộng cho đến không thể tu hành trí nhất thiết tướng. Khi ấy, Cụ Thọ Thiện hiện lại Bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Pháp sâu xa này có thể tùy thuận tất cả Pháp. Nghĩa là có thể tùy thuận bác ngã, tình lựu, tinh tấn, an nhẫn, tình giới, vô thí ba la mật đa, nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng. Pháp sâu xa này hoàn toàn không bị ngăn ngại. Nghĩa là không ngăn ngại sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng. Pháp thâm sâu này lấy vô ngại làm tướng. Vì sao? Vì hư không bình đẳng, chân như cho đến cảnh giới bất tương nghi bình đẳng, vì không, vô tướng, vô nguyện bình đẳng, vì không sanh, không diệt bình đẳng, không tạo, không tác bình đẳng, không nhiễm, không tịnh bình đẳng, nên Pháp thâm sâu này lấy vô ngại làm tướng. Pháp thâm sâu này vô sanh, vô diệt. Vì sao? Vì sắc không sanh, không diệt, thọ, tưởng, hành, thức không sanh, không diệt, nói rộng cho đến trí nhất thiết không sanh, không diệt, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, không diệt, nên Pháp thâm sâu này không sanh, không diệt. Pháp thâm sâu này hoàn toàn không để lại dấu vết. Vì sao? Vì dấu vết của sắc bất xả đắc, dấu vết của thọ, tưởng, hành, thức bất xả đắc, nói rộng cho đến dấu vết của trí nhất thiết bất xả đắc, dấu vết của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng bất xả đắc, nên Pháp thâm sâu này hoàn toàn không có dấu vết. Bây giờ, các thiên tử cõi dục giới, cõi sắc giới lại bạc Phật. Đại Đức Thiện Hiện đúng là con của Phật từ Như Lai sinh ra. Vì sao? Vì những điều mà Đại Đức Thiện Hiện nói đều tương ưng với tánh không. Cụ thọ Thiện Hiện hỏi các thiên tử cõi dục giới, cõi sắc giới. Các người nói ta chính là con của Phật được sinh ra từ Như Lai. Vậy thế nào là Thiện Hiện được sinh ra từ Như Lai? Nghĩa là từ chân như Như Lai sinh ra vậy. Vì sao? Vì chân như Như Lai không đến, không đi, chân như Thiện Hiện cũng không đến đi, nên nói Thiện Hiện được sinh từ Như Lai. Chân như Như Lai tức là chân như tất cả Pháp. Chân như tất cả Pháp tức là chân như Như Lai. Như vậy, chân như không có tánh chân như, cũng không có tánh chẳng chân như. Chân như Thiện Hiện cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện được sinh từ Như Lai. Chân như Như Lai lấy thường trụ làm tướng. Chân như Thiện Hiện cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện được sinh từ Như Lai. Chân như Như Lai không biến đổi, không phân biệt nhưng chuyển biến sắp các Pháp. Chân như Thiện Hiện cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện được sinh từ Như Lai. Chân như Như Lai không bị ngăn ngại, chân như tất cả Pháp cũng không bị ngăn ngại. Nếu chân như Như Lai, hoặc chân như tất cả Pháp đồng một chân như, không hai, không khác, không tạo, không tác, thì chân như này là tướng thường chân như, không lúc nào là tướng phi chân như. Vì tướng thường chân như không lúc nào là tướng phi chân như, nên nó không hai, không khác. Chân như Thiện Hiện cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện được sinh từ Như Lai. Đối với tất cả thứ, chân như Như Lai không nhớ nghĩ, không phân biệt. Chân như Thiện Hiện cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện được sinh từ Như Lai. Chân như Như Lai không khác biệt, không thể nắm bắt được. Chân như Thiện Hiện cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện được sinh từ Như Lai. Chân như Như Lai chẳng lì chân như tất cả Pháp. Chân như tất cả Pháp không lì chân như Như Lai. Chân như này là tướng thường chân như, không lúc nào là tướng phi chân như. Chân như Thiện Hiện cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện được sinh từ Như Lai. Tuy nói được sinh từ Như Lai nhưng không có chỗ sinh, vì chân như Thiện Hiện không khác chân như Phật. Chân như Như Lai chẳng phải thuộc quá khứ, chẳng phải thuộc hiện tại, chẳng phải thuộc vị Lai. Chân như tất cả Pháp cũng chẳng phải thuộc quá khứ, chẳng phải thuộc hiện tại, chẳng phải thuộc vị Lai. Chân như Thiện Hiện cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện được sinh từ Như Lai. Vì chân như quá khứ bình đẳng nên chân như Như Lai bình đẳng. Vì chân như Như Lai bình đẳng nên chân như quá khứ bình đẳng. Vì chân như vị Lai bình đẳng nên chân như Như Lai bình đẳng. Vì chân như Như Lai bình đẳng nên chân như vị Lai bình đẳng. Vì chân như hiện tại bình đẳng nên chân như Như Lai bình đẳng. Vì chân như Như Lai bình đẳng nên chân như hiện tại bình đẳng. Hoặc chân như quá khứ, hoặc chân như vị Lai, hoặc chân như hiện tại bình đẳng, hoặc chân như Như Lai bình đẳng, đồng một chân như bình đẳng, không hai, không khác. Vì chân như của sát bình đẳng nên chân như Như Lai bình đẳng, chân như Như Lai bình đẳng nên chân như sát bình đẳng. Chân như thọ, tưởng, hành, thức bình đẳng nên chân như Như Lai bình đẳng, chân như Như Lai bình đẳng nên chân như thọ, tưởng, hành, thức bình đẳng. Hoặc chân như của sát, hoặc chân như của thọ, tưởng, hành, thức bình đẳng, hoặc chân như Như Lai bình đẳng, đồng một chân như bình đẳng, không hai, không khác. Nói rộng cho đến chân như trí nhất thiết bình đẳng nên chân như Như Lai bình đẳng, chân như Như Lai bình đẳng nên chân như trí nhất thiết bình đẳng. Chân như trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng bình đẳng nên chân như Như Lai bình đẳng, chân như Như Lai bình đẳng nên chân như trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng bình đẳng. Hoặc chân như trí nhất thiết, hoặc chân như trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng bình đẳng, hoặc chân như Như Lai bình đẳng, đồng một chân như bình đẳng, không hai, không khác. Thiên tử nên biết, các Đại Bồ Tát hiện chứng chân như tất cả Pháp bình đẳng như thế nên gọi là Như Lai ứng chánh đẳng giác. Đối với chân như các Pháp này ta rất tin hiểu nên nói thiện hiện được sanh tự Như Lai. Khi đăng thuyết tướng chân như này, sắp ba ngàn đại thiên thế giới rung động sáu cách, đông vọt lên tây lặng xuống, tây vọt lên đông lặng xuống, nam vọt lên bắc lặng xuống, bắc vọt lên nam lặng xuống, giữa vọt lên chung quanh lặng xuống, chung quanh vọt lên giữa lặng xuống. Bây giờ, các thiên tử cõi dục giới, cõi sắc giới lần lượt đem các loại hương bột vi diệu cõi trời và các hoa trời phụng cúng trải lên Thế Tôn và thiện hiện rồi bạch Phật. Bạch Thế Tôn? Thật kỳ lạ, chưa từng có. Đại Đức thiện hiện do chân như mà được sanh ra tự Như Lai. Bây giờ, thiện hiện bảo các thiên tử cõi dục giới, cõi sắc giới. Thiên tử nên biết. Thiện hiện tôi sanh ra tự Như Lai không do sắc, không do thọ, tưởng, hành, thức mà được sanh ra tự Như Lai. Không do chân như của sắc mà được sanh ra tự Như Lai, không do chân như thọ, tưởng, hành, thức mà được sanh ra tự Như Lai. Không lì sắc mà được sanh ra tự Như Lai, không lì thọ, tưởng, hành, thức mà được sanh ra tự Như Lai. Không lì chân như của sắc mà được sanh ra tự Như Lai, không lì chân như thọ, tưởng, hành, thức mà được sanh ra tự Như Lai. Nói rộng cho đến không do trí nhất thiết mà được sanh ra tự Như Lai, không do trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà được sanh ra tự Như Lai. Không do chân như của trí nhất thiết mà được sanh ra tự Như Lai, không do chân như trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà được sanh ra tự Như Lai. Không do trí nhất thiết mà được sanh ra tự Như Lai, không do trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà được sanh ra tự Như Lai. Không lì chân như của trí nhất thiết mà được sanh ra tự Như Lai, không lì chân như trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà được sanh ra tự Như Lai. Không do hữu vi nên được sanh ra tự Như Lai, không do vô vi nên được sanh ra tự Như Lai. Không do chân như của hữu vi nên được sanh ra tự Như Lai, không do chân như vô vi nên được sanh ra tự Như Lai. Không lì hữu vi nên được sanh ra tự Như Lai, không lì vô vi nên được sanh ra tự Như Lai. Không lì chân như của hữu vi nên được sanh ra tự Như Lai, không lì chân như vô vi nên được sanh ra tự Như Lai. Vì sao? Tất cả pháp này đều vô sở hữu. Những người tùy theo pháp này mà sanh, hoặc là sự tùy sanh của pháp này, hoặc do đây mà sanh và chỗ để tùy sanh đều không thể nắm bắt được, vì tất cả pháp tự tánh đều là không. Bây giờ, xá lợi tử Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Chân như các pháp, nói rộng cho đến cảnh giới bất tương nhị đều rất sâu xa. Nghĩa là trong đó sắc bất khả đắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Chân như của sắc bất khả đắc, chân như của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Vì sao? Trong đây, sắc cho đến thức còn bất khả đắc, hủng chi lại có chân như sắc cho đến chân như thức có thể đắc ư, nói rộng cho đến trong đây, trí nhất thiết bất khả đắc, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng bất khả đắc. Chân như trí nhất thiết bất khả đắc, chân như trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng bất khả đắc. Vì sao? Trong đây, trí nhất thiết, đạo tướng trí, trí nhất thiết tướng còn bất khả đắc, hủng chi có chân như trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể đắc. Bây giờ, Phật bảo xá lợi tử. Đúng vậy. Đúng vậy. Đúng như lời ông nói. Khi đang nói về tướng chân như này, hai ngàn bí sô chấm dứt các lậu, tâm được giải thoát, thành bậc A-la-háng. Lại có năm trăm bí sô ni sa lì trần cấu, ở trong các Pháp chứng được Pháp nhãn tịnh. Năm ngàn Bồ-Tát đồng một lúc chứng đắc vô sanh Pháp nhẫn. Sáu ngàn Bồ-Tát chấm dứt các lậu, tâm được giải thoát, chứng quả A-la-háng. Bây giờ, Phật bảo xá lợi tử. Này trong chúng này sáu ngàn Bồ-Tát đã ở chỗ năm trăm đứt Phật quá khứ, gần gũi cúng dường, chánh tính Phước gia, xiên tu phạm hành. Tuy có hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lượng nhưng chẳng nhất họ bác nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu với phương tiện thiện xảo, lại khởi lên tưởng khác biệt, hành hành khác biệt. Khi tu bố thí, nghĩ như vậy, đây là bố thí, đây là người nhận, đây là vật thí, ta năng hành thí. Khi tu tịnh giới, nghĩ như vậy, đây là tịnh giới, đây gây ra tội nghiệp, đây là đối tượng phải hộ trị, ta năng trì giới. Khi tu an nhẫn, nghĩ như vậy, đây là an nhẫn, đây là chứng ngại của nhẫn, đây là cảnh giới để nhẫn, ta năng an nhẫn. Khi tu tinh tấn, nghĩ như vậy, đây là tinh tấn, đây là giải đải, đây là việc đã làm, ta năng tinh tấn. Khi tu tịnh lượng, nghĩ như vậy, đây là tịnh lượng, đây là táng loạn, đây là đã tu, ta năng tu định. Người ấy chẳng nhất thọ bác nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu với phương tiện thiện xảo, chỉ dựa vào tư tưởng khác biệt mà tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lượng khác biệt. Do tư tưởng khác biệt, hành khác biệt nên chẳng chứng được Bồ-Tát không có tư tưởng khác biệt và mất hành của Bồ-Tát không khác biệt. Do nhân duyên này nên chẳng được vào ngôi vị tránh tánh ly xanh của Bồ-Tát. Do không được nhập vào ngôi vị tránh tánh ly xanh của Bồ-Tát nên được quả dự lưu, dần dần mới đến quả A-la-háng. Thế nên, xá lợi tử. Đại Bồ-Tát nào tuy có đạo của Đại Bồ-Tát và có pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện nhưng chẳng nhất thọ bác nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu với phương tiện thiện xảo liền chứng đắc thực tế thì sẽ rơi vào hàng thanh văn và bật độc giác. Khi ấy, xá lợi tử bạch Phật. Do nhân duyên nào mà các Đại Bồ-Tát tu pháp không, vô tướng, vô nguyện nhưng vì không nhất thọ bác nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu với phương tiện thiện xảo nên khi chứng thực tế lại rơi vào hàng thanh văn hoặc bật độc giác. Lại có Bồ-Tát tu pháp không, vô tướng, vô nguyện nhưng do nhất thọ bác nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu với phương tiện thiện xảo nên được nhập vào ngôi tránh tánh ly xanh của Bồ-Tát, lần lượt tu hành các hành Đại Bồ-Tát và sẽ chứng được quả vị vô thường tránh đẳng Bồ-đề. Bây giờ, Thế Tôn Bảo xá lợi tử. Nếu Bồ-Tát xa lìa tâm của trí nhất thiết trí, chẳng lấy Đại Bi làm đầu, tu pháp không, vô tướng, vô nguyện, do không nhất thọ bác nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu với phương tiện thiện xảo, liền chứng đắc thực tế nên rơi vào hàng thanh văn hoặc bật độc giác. Nếu các Bồ-Tát chẳng lìa tâm của trí nhất thiết trí, lại lấy Đại Bi làm đầu, tu pháp không, vô tướng, vô nguyện, lại do nhất thọ bác nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu với phương tiện thiện xảo, liền được nhập vào ngôi tránh tánh ly xanh của Bồ-Tát, lần lượt tu hành các hành Bồ-Tát thì sẽ chứng đắc quả vị vô thường tránh đẳng Bồ-đề. Xá lợi tử. Vĩ như một con chim, thân nó to lớn chiếm khoảng hàng trăm do tuần, hoặc hai trăm cho đến năm trăm do tuần mà chẳng có cánh. Chim này hoặc từ cung trời ba mươi ba gieo mình rơi xuống châu thiện bộ. Giữa đường rơi, nó nghĩ như vậy, ta muốn lên lại trời ba mươi ba. Ý ông thế nào? Chim này có thể trở lên trời ba mươi ba được không? Xá lợi tử bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Không thể. Bạch Thiện Thệ. Không thể. Phật bảo. Xá lợi tử. Nếu giữa đường rơi, chim này mong, thân ta khi tới châu thiện bộ sẽ không bị tổn hại. Ý ông thế nào? Ý muốn của chim này có thể tọa nguyền không? Xá lợi tử bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Không. Bạch Thiện Thệ. Không. Khi đến châu thiện bộ, thân chim này nhất định có tổn hại, hoặc đến mất mạng, hoặc đau đớn gần chết. Vì sao? Vì thân chim này quá to, lại rơi quá xa mà không có cánh. Phật bảo. Xá lợi tử. Đúng vậy. Đúng vậy. Đúng như lời ông nói. Xá lợi tử. Có các bồ tát cũng lại như vậy, tuy đã trải qua vô lượng, vô số đại kiếp xiên tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, cũng tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện nhưng không nhít thọ bát ngã ba la mật đa thâm sâu với phương tiện thiện xảo, liền chứng đắc thật tế nên rơi vào hàng thanh văn hoạt bật độc giác. Vì sao? Vì các bồ tát này xa lìa tâm của trí nhất thiết ký, chẳng lấy đại bi làm đầu, tuy đã trải qua vô lượng, vô số đại kiếp xiên tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, cũng tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện nhưng không nhít thọ bát ngã ba la mật đa thâm sâu với phương tiện thiện xảo, liền rơi vào thanh văn hoạt bật độc giác. Vì sao? Xá lợi tử. Vì không nhít thọ bát ngã ba la mật đa thâm sâu với phương tiện thiện xảo, nên dù đêm cát căng lành đã tu được để hồi hướng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, nhưng các bồ tát này vẫn rơi vào hàng thanh văn hoạt bật độc giác. Vì sao? Xá lợi tử. Vì không nhít thọ bát ngã ba la mật đa thâm sâu với phương tiện thiện xảo, nên dù đêm cát căng lành đã tu được để hồi hướng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, nhưng các bồ tát này vẫn rơi vào hàng thanh văn hoạt bật độc giác. Lại nữa, xá lợi tử. Có những bồ tát từ lúc mới phát tâm chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, thường lấy đại bi làm đầu, xiên tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, cũng thường nhít thọ bát ngã ba la mật đa thâm sâu với phương tiện thiện xảo, tuy có niệm giới quẩn, định quẩn, tuệ quẩn, giải thoát quẩn, giải thoát trí chiến quẩn của chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, vĩ lai, hiện tại nhưng chẳng chấp tướng, dù tu Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng chẳng chấp tướng, dù nhớ nghĩ các công đức và người cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng nhau hồi hướng đến quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, nhưng cũng chẳng chấp tướng, xá lợi tử. Nên biết, đại bồ tát này thẳng tới quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, chẳng rơi vào hàng thanh văn và bật độc giác. Vì sao? Vì đại bồ tát này từ lúc mới phát tâm cho đến cứu cánh chặn liệt tâm trí nhất thiết trí, thường lấy đại bi làm đầu, tuy thu hành bố thí, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lượng nhưng chẳng chấp tướng, tuy niệm giới quẩn, định quẩn, tuệ quẩn, giải thoát quẩn, giải thoát trí chiến quẩn của chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, vĩ lai, hiện tại nhưng cũng chẳng chấp tướng, tuy tu đạo của đại bồ tát và Pháp không, vô tướng, vô nguyện cũng chẳng chấp tướng, xá lợi tử. Vì đại bồ tát này có phương tiện thiện xảo, dùng tâm ly tướng tu hành bố thí cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến dùng tâm ly tướng tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Do đó, nhất định chính đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ đã mong cầu. Khi ấy, xá lợi tử liền bạch Phật. Như con hiểu, lời Phật nói có nghĩa như vậy, đại bồ tát từ lúc mới phát tâm cho đến khi cứu cánh, thường nhiếp thọ bác nhã Ba-la-mật-đa thăm sâu với phương tiện thiện xảo, là đại bồ tát này sẽ gần quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ. Vì sao? Vì đại bồ tát này lúc mới phát tâm cho đến cứu cánh, hoàn toàn không thấy có Pháp nhỏ nào có thể nắm bắt được. Nghĩa là hoặc năng chính, hoặc sở chính, hoặc chỗ chính, hoặc thời chính, hoặc do đây mà chính hoàn toàn không thể nắm bắt. Nhưng Pháp được gọi là sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức, nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng đều không thể nắm bắt. Lại nữa, Bạch Thế Tôn. Có các thiện nam tử V, V, trụ bồ tát thừa không thể nhiếp thọ bác nhã Ba-la-mật-đa thăm sâu với phương tiện thiện xảo, mà cầu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ. Phải biết quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ mà vị ấy đã cầu đáng nghi hoặc, do dự, hoặc được, hoặc chẳng được. Vì sao? Vì các thiện nam tử V, V, trụ bồ tát thừa này không thể nhiếp thọ bác nhã Ba-la-mật-đa thăm sâu với phương tiện thiện xảo, đối với các hành đã tu hành như bố thí, tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã Ba-la-mật-đa đều chấp lấy tướng ấy, nói rộng cho đến đối với các hành đã tu hành như trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều chấp lấy tướng ấy. Do nhân duyên này, các thiện nam tử V, V, trụ bồ tát thừa đều nghi ngờ, do dự, hoặc chứng, hoặc chẳng chứng đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ. Thế nên, Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát nào muốn đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ quyết định không nên xa liệt phương tiện thiện xảo của bác nhã Ba-la-mật-đa. Khi Đại Bồ Tát này an trụ phương tiện thiện xảo của bác nhã Ba-la-mật-đa, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đèn tầm tương tương với vô tướng để tu bố thí cho đến bác nhã Ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến đèn tầm tương tương với vô tướng để tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Khi an trụ phương tiện thiện xảo của bác nhã Ba-la-mật-đa, nếu Đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, đèn tầm tương tương với vô tướng để tu tất cả Phật Pháp như thế chắc chắn chính đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ. Bây giờ, các thiên tử ở cõi dục giới, cõi sát giới đồng Bạch Phật, quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ của chư Phật rất khó tin hiểu, rất khó chính đắc. Vì sao? Vì các Đại Bồ Tát đều phải chứng ki tự tướng, tổng tướng của tất cả Pháp mới có thể đạt được sự mong cầu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ mà chỗ biết Pháp tướng của các Đại Bồ Tát đều vô sở hữu và bất khả đắc. Khi ấy, Phật bảo các thiên tử, Đúng vậy. Đúng vậy. Đúng như điều các ông nói. Quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ của chư Phật rất khó hiểu, rất khó chính đắc. Thiên tử nên biết, ta cũng đang chứng trí tất cả Pháp tướng để chính đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ mà hoàn toàn chẳng được thắng nghĩa Pháp tướng, có thể nói, đây là năng chứng, đây là sở chứng, đây là chỗ chứng, đây là thời chứng, và có thể nói do đây mà chứng được. Vì sao? Các thiên tử, vì tất cả Pháp rốt tráo thanh tịnh nên hữu vi hay vô vi rốt tráo đều là không. Do đó, quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ rất khó tin hiểu, rất khó chính đắc. Cụ Thọ Thiện Hiện Liền Bạch Phật Như thế tôn nói quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ chư Phật rất khó tin hiểu, rất khó chính đắc. Theo con suy nghĩ thì lời Phật nói có nghĩa là quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ của chư Phật đều rất dễ tin hiểu, rất dễ chính đắc. Vì sao? Vì nếu có thể tin hiểu được, không Pháp năng chứng, không Pháp sở chứng, không có chỗ chứng, không có thời chứng, cũng không do đây mà có sở chứng, thì có thể tin hiểu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ chư Phật. Nếu có chứng tri rằng, không Pháp năng chứng, không Pháp sở chứng, không có chỗ chứng, không có thời chứng, cũng không do đây mà có sở chứng, tức là có thể chứng được sự mong cầu quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ. Vì sao? Vì tất cả Pháp rốt ráo đều không. Trong chỗ rốt ráo không, hoàn toàn không có Pháp có thể gọi là năng chứng, có thể gọi là sở chứng, có thể gọi là chỗ chứng, có thể gọi là thời chứng, có thể gọi là do đây mà có sở chứng. Vì sao? Vì tánh và tướng của tất cả Pháp đều là không, đều tăng hoặc giảm đều vô sở hữu và hoàn toàn bất khả đắc. Do nhân duyên này các Đại Bồ-Tát đã tu bố thí cho đến Bát Nhã-Ba-La-Mật-đa hoàn toàn vô sở hữu, đều bất khả đắc. Nói rộng cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoàn toàn vô sở hữu, đều bất khả đắc. Các Đại Bồ-Tát đã quán các Pháp hoặc hữu sắc, hoặc vô sắc, hoặc hữu kiến, hoặc vô kiến, hoặc hữu đối, hoặc vô đối, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc hữu vi, hoặc vô vi đều vô sở hữu và bất khả đắc. Do nhân duyên này, con suy nghĩ nghĩ lý lời Phật đã nói là quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật rất dễ tin hiểu, rất dễ chứng đắc. Ở trong đó, các Đại Bồ-Tát không nên bảo rằng khó tin hiểu và khó chứng được. Vì sao? Vì sắc, tử tánh của sắc là không, thọ, tưởng, hành, thức, tử tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Nói rộng cho đến trí nhất thiết, tử tánh của trí nhất thiết là không, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, tử tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Đối với nghĩa tử tánh không như thế, nếu Đại Bồ-Tát tin hiểu sâu xa, không trái ngược mà chứng, thì liền đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Do nghĩa này, con nói quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề chẳng khó tin hiểu, chẳng khó chứng được. Khi ấy, xá lời tử bảo thiền hiện. Cũng do nhân duyên này mà quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề chư Phật rất khó tin hiểu, rất khó chứng đắc. Vì sao? Vì các Đại Bồ-Tát quán tất cả pháp hoàn toàn không tử tánh, đều như hư không? Vì như hư không chẳng nghĩ, ta sẽ tin hiểu, chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Các Đại Bồ-Tát cũng như thế, chẳng nghĩ, ta sẽ tin hiểu, chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Vì sao? Vì tánh, tướng tất cả pháp đều là không, bình đẳng như hư không? Các Đại Bồ-Tát cần phải tin hiểu các pháp đều là không, và bình đẳng như hư không, không trái ngược mà chứng, mới đạt được quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Đại Bồ-Tát nào tin hiểu các pháp với hư không bình đẳng thì dễ sanh tin hiểu, dễ chứng đắc đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, thì không có hàng hà sa số Đại Bồ-Tát khoát áo giáp Đại Công Đức, hướng đến quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, mới nửa chừng lại thối lui. Nên biết quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề rất khó tin hiểu, rất khó chứng đắc. Khi ấy, Cụ Thọ Thiện Hiện Thư xá lợi tử. Ý tôn giả thế nào? Sắc đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật có thối thất chăng? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Ý tôn giả thế nào? Thọ, tưởng, hành, thức đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật có thối thất chăng? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Ý tôn giả thế nào? Thọ, tưởng, hành, thức đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật có thối thất chăng? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Ý tôn giả thế nào? Thọ, tưởng, hành, thức đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật có thối thất chăng? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Ý tôn giả thế nào? Thọ, tưởng, hành, thức đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật có thối thất chăng? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Ý tôn giả thế nào? Thọ, tưởng, hành, thức đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật có thối thất chăng? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Ý tôn giả thế nào? Lì chân như sát có pháp đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật có thối thất chăng? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Ý tôn giả thế nào? Lì chân như thọ, tưởng, hành, thức có pháp đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật có thối thất chăng? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Ý tôn giả thế nào? Nếu nói rộng cho đến trí nhất thiết đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật có thối thất chăng? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Ý tôn giả thế nào? Trí đào tướng, trí nhất thiết tướng đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật có thối thất chăng? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Ý tôn giả thế nào? Trí đào tướng, trí nhất thiết tướng đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật có thối thất chăng? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Ý tôn giả thế nào? Lý trí đào tướng, trí nhất thiết tướng có pháp đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật có thối thất chăng? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Ý tôn giả thế nào? Trí đào tướng, trí nhất thiết tướng có pháp đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật có thối thất chăng? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Ý tôn giả thế nào? Trí đào tướng, trí nhất thiết tướng có pháp đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật có thối thất chăng? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Ý tôn giả thế nào? Trí đào tướng, trí nhất thiết tướng có pháp đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật có thối thất chăng? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Ý tôn giả thế nào? Trí đào tướng, trí nhất thiết tướng có pháp đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật có thối thất chăng? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Lại nữa, xá lợi tử. Ý tôn giả thế nào? Chân như các pháp nói rộng cho đến cảnh giới bất tương nghi đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật có thối thất chăng? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Ý tôn giả thế nào? Lì chân như các pháp nói rộng cho đến cảnh giới bất tương nghi mà có pháp thì đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của Chiêu Phật có thối thất chăng? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo xá lợi tử. Nếu tất cả pháp vì chắc thật, vì an trụ nên hoàn toàn vô sở hữu và đều bất khả đắc, thì những pháp nào có thể có sự thối thất đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề? Khi ấy, xá lợi tử hỏi Thiện Hiện. Như lời tôn giả nói. Trong vô sanh pháp nhẫn hoàn toàn vô sở hữu, cũng không có Bồ Tát nói có thối thất đối với quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Nếu vậy tại sao Phật nói ba hạng người trụ Bồ Tát thừa, đúng ra chỉ nên nói một. Lại như tôn giả nói, lẽ ra không có ba thừa Bồ Tát sai khác, chỉ nên có một thừa chánh đẳng giác thôi. Khi ấy, mãn từ tử liền thưa cụ thọ xá lợi tử. Hãy hỏi Thiện Hiện rằng chỉ cần một thừa Bồ Tát chăng? Sau đó hỏi tiếp, cần gì phải thành lập ba thừa khác nhau hay chỉ cần có một thừa chánh đẳng giác mà thôi? Xá lợi tử hỏi Thiện Hiện. Chỉ cần một Bồ Tát thừa có được không? Cụ thọ Thiện Hiện bảo xá lợi tử. Ý tôn giả thế nào? Trong chân như của tất cả Pháp còn có ba hạng người trụ Bồ Tát thừa với tướng khác nhau không? Nghĩa là có người rơi vào thanh văn thừa, hoặc có người rơi vào độc giác thừa, hoặc có người chính đắc vô thường thừa ưng. Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Ý tôn giả thế nào? Trong chân như tất cả Pháp có ba thừa Bồ Tát khác nhau không? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Ý tôn giả thế nào? Trong chân như tất cả Pháp thật có một thừa chánh đẳng giác của các đại Bồ Tát chăng? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Ý tôn giả thế nào? Chân như các Pháp có một hay có hai, có ba tướng không? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Ý tôn giả thế nào? Trong chân như của tất cả Pháp phải có một Pháp hay một Bồ Tát có thể đắc không? Xá lợi tử nói. Thiện Hiện. Chẳng có. Khi ấy, cụ Thọ Thiện Hiện nói với xá lợi tử. Nếu tất cả Pháp là chắc thật, là an trụ, hoàn toàn vô sở hữu và đều bất khả đắc thì tại sao xá lợi tử lại phởi lên ý nghĩ, đối với quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật, Bồ Tát này nhất định có thối thất, hay đối với quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật, Bồ Tát này nhất định không có thối thất? Hay đối với quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật, Bồ Tát này nói chẳng quyết định? Như vậy, Bồ Tát này là Thanh Văn Thừa, hay Bồ Tát này là Độc Giác Thừa, hay Bồ Tát này là Vô Thượng Thừa? Như vậy là 3 hay là 1? Xá lợi tử Nếu Đại Bồ Tát hoàn toàn vô sở đắc đối với tất cả Pháp, đối với chân như tất cả Pháp, cũng tin hiểu hoàn toàn và chúng đều vô sở đắc, đối với các Bồ Tát cũng vô sở đắc, đối với quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật cũng vô sở đắc, phải biết đây mới thật là Đại Bồ Tát. Xá lợi tử Nếu Đại Bồ Tát này nghe thuyết tướng chân như các Pháp bất khả đắc mà tâm vị ấy chẳng tin, chẳng sợ, chẳng hoãn hốt, không nghi, không hối, không lui, không mất thì Đại Bồ Tát này mau chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, nửa chừng nhất định không thối lui. Bây giờ, Thế Tôn khen nợi thiện hiện Lành thay! Lành thay! Hôm nay ông đã vì các Đại Bồ Tát thuyết Pháp trọng yếu. Những điều ông nói đều nhờ là sức quai thần của Như Lai. Thiện hiện nên biết. Đại Bồ Tát tin hiểu sâu xa đối với tướng bất khả đắc của chân như các Pháp và biết được tất cả Pháp không tướng khác nhau. Khi nghe thuyết về tướng bất khả đắc của chân như các Pháp như thế, tâm vị ấy chẳng tin, chẳng sợ, chẳng hoãn hốt, không nghi, không hối, không lui, không mất thì Đại Bồ Tát này mau chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề. Bây giờ, xá lợi tử Bạch Phật! Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát thành tựu Pháp này thì mau chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề ư? Khi ấy, Phật bảo xá lợi tử Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Nếu Đại Bồ Tát thành tựu Pháp này thì mau chứng quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, không trơi vào hàng thanh văn, vật độc giác. Cụ thọ thiện hiện lại Bạch Phật Nếu Đại Bồ Tát muốn mau chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề đã mong cầu thì phải trụ vào cái gì và trụ bằng cách nào? Phật bảo Thiện hiện Nếu Đại Bồ Tát muốn mau chứng đắc để cầu quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề thì phải trụ tâm bình đẳng đối với tất cả hữu tình, không nên trụ tâm bất bình đẳng. Phải khởi tâm bình đẳng đối với tất cả hữu tình, không nên khởi tâm bất bình đẳng. Phải đem tâm bình đẳng nói với tất cả hữu tình, không nên đem tâm bất bình đẳng nói với họ. Phải khởi tâm đại tự đối với tất cả hữu tình, không nên khởi tâm sân giận đối với họ. Phải đem tâm đại bi mà đối với tất cả hữu tình, không nên đem tâm não hại mà đối với họ. Phải đem tâm đại bi mà nói với tất cả hữu tình, không nên đem tâm não hại mà nói với họ. Phải khởi tâm đại hỷ đối với tất cả hữu tình, không nên khởi tâm đối kỵ đối với họ. Phải đem tâm đại hỷ mà nói với tất cả hữu tình, không nên đem tâm đối kỵ mà nói với họ. Phải khởi tâm đại xã đối với tất cả hữu tình, không nên khởi tâm thiên vị đối với họ. Phải đem tâm đại xã mà nói với tất cả hữu tình, không nên đem tâm thiên vị mà nói với họ. Phải khởi tâm cung chính đối với tất cả hữu tình, không nên khởi tâm kiêu ngạo đối với họ. Phải đem tâm cung chính mà nói với tất cả hữu tình, không nên đem tâm kiêu ngạo mà nói với họ. Phải khởi tâm chân thật đối với tất cả hữu tình, không nên khởi tâm dối nịnh đối với họ. Phải đem tâm chân thật mà nói với tất cả hữu tình, không nên đem tâm dối nịnh mà nói với họ. Phải khởi tâm mềm mại đối với tất cả hữu tình, không nên khởi tâm cứng cõi đối với họ. Phải đem tâm hiền hòa mà nói với tất cả hữu tình, không nên đem tâm hung bạo mà nói với họ. Phải khởi tâm lợi ích đối với tất cả hữu tình, không nên khởi tâm không lợi ích đối với họ. Phải đem tâm lợi ích mà nói với tất cả hữu tình, không nên đem tâm không lợi ích mà nói với họ. Phải khởi tâm an vui đối với tất cả hữu tình, không nên khởi tâm chẳng an vui đối với họ. Phải đem tâm an vui mà nói với tất cả hữu tình, không nên đem tâm chẳng an vui mà nói với họ. Phải khởi tâm không trở ngại đối với tất cả hữu tình, không nên khởi tâm có trở ngại đối với họ. Phải đem tâm không trở ngại mà nói với tất cả hữu tình, không nên đem tâm có trở ngại mà nói với họ. Phải khởi tâm như cha mẹ, như anh em, như chị em, như nam nữ, như bà con thân thuộc đối với tất cả hữu tình, cũng đem tâm này mà nói cho họ. Phải khởi tâm bè bạn đối với tất cả hữu tình, cũng đem tâm này mà nói với họ. Đối với tất cả hữu tình, phải khởi tâm như giáo sư, như thầy mô phạm, như đệ tử, như đồng học, cũng đem tâm này mà nói với họ. Đối với tất cả hữu tình, phải khởi tâm như bậc dự lưu, nhất lai, bất hoàng, à la hán, độc giác, đại bồ tát, như lai ứng chánh đẳng giác, cũng nên đem tâm này mà nói với họ. Đối với tất cả hữu tình, phải khởi tâm nên cúng dường, cung chính, tôn trọng, ngợi khen, cũng nên đem tâm này mà nói với họ. Đối với tất cả hữu tình, phải khởi tâm nên cứu giúp, thương xót, bảo bọc, cũng đem tâm này mà nói với họ. Đối với tất cả hữu tình, phải khởi tâm rốt tráo không, vô sở hữu, bất khả đắc, cũng đem tâm này mà nói với họ. Đối với tất cả hữu tình, phải khởi tâm không, vô tướng, vô nguyện, cũng đem tâm này mà nói với họ. Thiện hiện Đại Bồ Tát nào muốn mau chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, phải dùng vô sở đắc làm phương tiện mà trụ nơi đây. Lại nữa, thiện hiện Đại Bồ Tát nào muốn mau chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, nên tự xa lì sự giết hại sanh mạng, cũng khuyên người khác xa lì sự giết hại sanh mạng. Thường chân chánh khen ngợi Pháp xa lì giết hại sanh mạng, hoan hỷ táng tháng người xa lì giết hại sanh mạng. Nói rộng cho đến nên tự xa lì tạ kiến, cũng khuyên người khác xa lì tạ kiến. Thường chân chánh khen ngợi Pháp xa lì tạ kiến, hoan hỷ táng tháng người xa lì tạ kiến. Phải tự tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng khuyên người khác tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Phải tự viên mạng bố thí ba-la-mật-đa cho đến bác nhã ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác viên mạng bố thí ba-la-mật-đa cho đến bác nhã ba-la-mật-đa. Thường chân chánh khen ngợi Pháp viên mạng bố thí ba-la-mật-đa cho đến bác nhã ba-la-mật-đa, hoan hỷ táng tháng người viên mạng bố thí ba-la-mật-đa cho đến bác nhã ba-la-mật-đa. Nên tự an trụ trong Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không, cũng khuyên người khác an trụ trong Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không. Thường chân chánh khen ngợi an trụ Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không, hoan hỷ táng tháng người an trụ Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không. Phải tự an trụ chân nhiều cho đến cảnh giới bất tương nghi, cũng khuyên người khác an trụ chân nhiều cho đến cảnh giới bất tương nghi. Thường chân chánh khen ngợi Pháp an trụ chân nhiều cho đến cảnh giới bất tương nghi, hoan hỷ táng tháng người an trụ chân nhiều cho đến cảnh giới bất tương nghi. Phải tự an trụ bốn thánh đế, cũng khuyên người khác an trụ bốn thánh đế. Thường chân chánh khen ngợi Pháp an trụ bốn thánh đế, hoan hỷ táng tháng người an trụ bốn thánh đế. Phải tự tu tập bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, cũng khuyên người khác tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Thường chân chánh khen ngợi Pháp tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, hoan hỷ táng tháng người tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Phải tự tu Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, cũng khuyên người khác tu Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Thường chân chánh khen ngợi Pháp tu Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, hoan hỷ táng tháng người tu Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Phải tự tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ, cũng khuyên người khác tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Thường chân chánh khen ngợi Pháp tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ, hoan hỷ táng tháng người tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Phải tự viên mãn các bậc Bồ Tát, cũng khuyên người khác viên mãn các bậc Bồ Tát. Thường chân chánh khen ngợi Pháp viên mãn các bậc Bồ Tát, hoan hỷ táng tháng người viên mãn các bậc Bồ Tát. Phải tự viên mãn Pháp môn Đà-la-Ni, Pháp môn Tam-ma-địa, cũng khuyên người khác viên mãn Pháp môn Đà-la-Ni, Pháp môn Tam-ma-địa. Thường chân chánh khen ngợi Pháp viên mãn Pháp môn Đà-la-Ni, Pháp môn Tam-ma-địa, hoan hỷ táng tháng người viên mãn Pháp môn Đà-la-Ni, Pháp môn Tam-ma-địa. Phải tự viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông, cũng khuyên người khác viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông. Thường chân chánh khen ngợi Pháp viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông, hoan hỷ táng tháng người viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông. Phải tự viên mãn mười lực nhiêu lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng, cũng khuyên người khác viên mãn mười lực nhiêu lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Thường chân chánh khen ngợi Pháp viên mãn mười lực nhiêu lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng, hoan hỷ táng tháng người viên mãn mười lực nhiêu lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Phải tự viên mãn đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, cũng khuyên người khác viên mãn đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã. Thường chân chánh khen ngợi Pháp viên mãn đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, hoan hỷ táng tháng người viên mãn đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã. Phải tự viên mãn 32 tướng, 80 vẻ đẹp, cũng khuyên người khác viên mãn 32 tướng, 80 vẻ đẹp. Thường chân chánh khen ngợi Pháp viên mãn 32 tướng, 80 vẻ đẹp, hoan hỷ táng tháng người viên mãn 32 tướng, 80 vẻ đẹp. Phải tự viên mãn Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã, cũng khuyên người khác viên mãn Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã. Thường chân chánh khen ngợi Pháp viên mãn Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã, hoan hỷ táng tháng người viên mãn Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã. Phải tự quán thuận nghịch 12 chi duyên khởi, cũng khuyên người khác quán thuận nghịch 12 chi duyên khởi. Thường chân chánh khen ngợi Pháp quán thuận nghịch 12 chi duyên khởi, hoan hỷ khen người quán thuận nghịch 12 chi duyên khởi. Phải tự viết khổ, đoạn tập, chính việc, tu đạo, cũng khuyên người khác viết khổ, đoạn tập, chính việc, tu đạo. Thường chân chánh khen ngợi Pháp viết khổ, đoạn tập, chính việc, tu đạo, hoan hỷ táng tháng người viết khổ, đoạn tập, chính việc, tu đạo. Phải từ khởi ký chính quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề mà chẳng chính đắc quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề thực tế, cũng khuyên người khác khởi ký chính quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề và chính đắc quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề thực tế. Thường chân chánh khen ngợi Pháp khởi ký chính quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề và Pháp chính đắc quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề thực tế, hoan hỷ táng tháng người khởi ký chính quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề và chính đắc quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề thực tế. Phải tự vào ngôi vị chánh tánh ly xanh của Bồ Tát, cũng khuyên người khác vào ngôi vị chánh tánh ly xanh của Bồ Tát. Thường chân chánh khen ngợi Pháp vào ngôi vị chánh tánh ly xanh của Bồ Tát, hoan hỷ táng tháng người đã vào ngôi vị chánh tánh ly xanh của Bồ Tát.

Listen Next

Other Creators