Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
This transcription is a discussion about the concept of "Palamatta" in Buddhism. The speaker explains that Palamatta refers to the idea that all phenomena, including sensory experiences and mental activities, do not increase or decrease in size, duration, or intensity. It is also said that Palamatta does not have any inherent characteristics, such as being permanent or impermanent, and does not possess any inherent power or force. The speaker emphasizes that Palamatta cannot be perceived or understood directly, and it is not something that can be attained through practice or study. The discussion also touches on the importance of differentiating between the teachings of Palamatta and other concepts in Buddhism, as well as the potential misunderstandings and misinterpretations that can arise from not properly understanding Palamatta. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 21, Quyển 506, Ích Phẩm Điện 102 Bây giờ, Cụ Thọ Thiện Hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Bát Nhã Ba La Mật Đa Thầm Thâm tức là Ba La Mật Đa Trọng Lớn Phật Dạy Thiện Hiện Ông vừa vào ý gì mà nói Bát Nhã Ba La Mật Đa Thầm Thâm tức là Ba La Mật Đa Trọng Lớn? Thiện Hiện Thư Bạch Thế Tôn Vì Bát Nhã Ba La Mật Đa Thầm Thâm đối với sắc không làm lớn, không làm nhỏ, đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng không làm lớn, không làm nhỏ. Như vậy cho đến đối với quả vị vô thượng chánh đẳng bồ đề của chư Phật không làm lớn, không làm nhỏ, đối với chư Như Lai ứng chánh đẳng giác cũng không làm lớn, không làm nhỏ. Đối với sắc không làm hợp, không làm tan, đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng không làm hợp, không làm tan. Như vậy cho đến đối với quả vị vô thượng chánh đẳng bồ đề của chư Phật không làm hợp, không làm tan, đối với chư Như Lai ứng chánh đẳng giác cũng không làm hợp, không làm tan. Đối với sắc không làm hữu lượng, không làm vô lượng, đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng không làm hữu lượng, không làm vô lượng. Như vậy cho đến đối với quả vị vô thượng chánh đẳng bồ đề của chư Phật không làm hữu lượng, không làm vô lượng, đối với chư Như Lai ứng chánh đẳng giác cũng không làm hữu lượng, không làm vô lượng. Đối với sắc không làm rộng, không làm hẹp, đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng không làm rộng, không làm hẹp. Như vậy cho đến đối với quả vị vô thượng chánh đẳng bồ đề của chư Phật không làm rộng, không làm hẹp, đối với chư Như Lai ứng chánh đẳng giác cũng không làm rộng, không làm hẹp. Đối với sắc không làm hữu lực, không làm vô lực, đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng không làm hữu lực, không làm vô lực. Như vậy cho đến đối với quả vị vô thượng chánh đẳng bồ đề của chư Phật không làm hữu lực, không làm vô lực, đối với chư Như Lai ứng chánh đẳng giác cũng không làm hữu lực, không làm vô lực. Con dựa vào ý này nên nói bác ngã Palamatta thầm thâm tức là Palamatta trọng lớn. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát mới học Đại Thư, đi chỉ bác ngã cho đến bố thí Palamatta, nếu vọng tưởng như vậy, bác ngã Palamatta thầm thâm đối với sắc không làm lớn, không làm nhỏ, không làm hợp, không làm tan, không làm hữu lượng, không làm vô lượng, không làm rộng, không làm hẹp, không làm hữu lực, không làm vô lực, như vậy cho đến đối với chư Như Lai ứng chánh đẳng giác không làm lớn, không làm nhỏ, không làm hợp, không làm tan, không làm hữu lượng, không làm vô lượng, không làm rộng, không làm hẹp. Không làm hữu lực, không làm vô lực, thì Đại Bồ Tát này do vọng tưởng như vậy nên chẳng phải hành bác ngã Palamatta. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát mới học Đại Thư, đi chỉ vào bác ngã cho đến bố thí Palamatta mà vọng tưởng như vậy, bác ngã Palamatta thầm thâm đối với sắc làm lớn, làm nhỏ, làm hợp, làm tan, làm hữu lượng, làm vô lượng, làm rộng, làm hẹp, làm hữu lực, làm vô lực, như vậy cho đến đối với chư Như Lai ứng chánh đẳng giác làm lớn, làm nhỏ, làm hợp, làm tan, làm hữu lượng, làm vô lượng, làm rộng, làm hẹp, làm hữu lực, làm vô lực, thì Đại Bồ Tát này do vọng tưởng như vậy nên chẳng phải hành bác ngã Palamatta. Đa Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát mới học Đại Thừa không đi chỉ bác ngã cho đến bố thí Palamatta mà vọng tưởng như vậy, bác ngã Palamatta thầm thâm đối với sắc không làm lớn, không làm nhỏ, không làm hợp, không làm tan, không làm hữu lượng, không làm vô lượng, không làm rộng, không làm hẹp, không làm hữu lực, không làm vô lực, như vậy cho đến đối với chư Như Lai ứng chánh đẳng giác không làm lớn, không làm nhỏ, không làm hợp, không làm tan, không làm hữu lượng, không làm vô lượng, không làm rộng, không làm. Hẹp, không làm hữu lực, không làm vô lực, thì Đại Bồ Tát này do vọng tưởng như vậy nên chẳng phải hành bác ngã Palamatta. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát mới học Đại Thừa không y chỉ bác ngã cho đến bố thí Palamatta mà vọng tưởng như vậy, bác ngã Palamatta thầm thâm đối với sắc làm lớn, làm nhỏ, làm hợp, làm tan, làm hữu lượng, làm vô lượng, làm rộng, làm hẹp, làm hữu lực, làm vô lực, như vậy cho đến chư Như Lai ứng chánh đẳng giác làm lớn, làm nhỏ, làm hợp, làm tan, làm hữu lượng, làm vô lượng, làm rộng, làm hẹp, làm hữu lực, làm vô lực, thì Đại Bồ Tát này do vọng tưởng như vậy nên chẳng phải hành bác ngã Palamatta. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vì nếu Đại Bồ Tát khởi vọng tưởng như vậy, bác ngã Palamatta đối với sắc hoặc làm lớn nhỏ, không làm lớn nhỏ, hoặc làm hợp tan, không làm hợp tan, hoặc làm hữu lượng vô lượng, không làm hữu lượng vô lượng, hoặc làm rộng hẹp, không làm rộng hẹp, hoặc làm hữu lực vô lực, không làm hữu lực vô lực, như vậy cho đến đối với chư Như Lai ứng chánh đẳng giác hoặc làm lớn nhỏ, không làm lớn nhỏ, hoặc làm hợp tan, không làm hợp tan, hoặc làm hữu lượng vô lượng, không làm hữu lượng vô lượng, hoặc làm... rộng hẹp, không làm rộng hẹp, hoặc làm hữu lực vô lực, không làm hữu lực vô lực, thì như vậy tất cả đều chẳng phải quả đẳng lưu của bác ngã Palamatta. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát nào vòng tưởng như vầy, bác ngã Palamatta thầm thầm đối với sát cho đến đối với chư Như Lai ứng chánh đẳng giác hoặc làm lớn nhỏ, không làm lớn nhỏ, hoặc làm hợp tan, không làm hợp tan, hoặc làm hữu lượng vô lượng, không làm hữu lượng vô lượng, hoặc làm rộng hẹp, không làm rộng hẹp, hoặc làm hữu lực vô lực, không làm hữu lực vô lực, thì Đại Bồ Tát này gọi là có sở đắc lớn, chẳng phải hành bác ngã Palamatta. Vì sao? Vì chẳng phải tưởng có sở đắc mà có thể chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Vì sao? Vì hữu tình vô sanh, vô tử tánh, vô sở hữu, không, vô tướng, vô nguyện, viễn ly, tịch tịnh, bất khả đắc, bất khả tư nghị, không hoài diệt, không hiểu biết, nên sức không thành tựu. Nên biết bác ngã Palamatta cũng vô sanh, cho đến sức không thể thành tựu. Con dựa vào ý này nên nói, bác ngã Palamatta thầm thầm tức là Palamatta rộng lớn. Lúc bấy giờ, xá lợi tử Bạch Phật, Bạch Thế Tôn, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Tát, Đại Bồ Nếu Đại Bồ Tát đối với bác ngã Palamatta có thể tin hiểu từ chỗ nào đến sanh ở thế gian này, phát tâm quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ đã trải qua bao nhiêu lâu, tôn trọng, thân cận, cúng dường chư Phật? Đã trải qua bao nhiêu thời gian tu hành bố thí cho đến bác ngã Palamatta? Sao lại tin hiểu nghĩa lý sâu xa của bác ngã Palamatta như vậy? Phật dậy! Xá lợi tử! Nếu Đại Bồ Tát nào đối với bác ngã Palamatta thầm thâm, có thể tin hiểu là vì ở trong pháp hội của chư Phật mười phương thế giới, mất lại sanh đến thế gian này, phát tâm quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ đã trải qua vô lượng, vô số, vô biên, trăm ngàn muôn ước kiếp. Đã từng thân cận cúng dường vô lượng, vô số, vô biên, bất xả tương nghị, bất xả xưng dương đức Phật Bạc gia Phạm. Từ lúc mới phát tâm, thường tu bố thí cho đến bác ngã Palamatta, trải qua vô lượng, vô số, vô biên, trăm ngàn muôn ước kiếp. Nếu Đại Bồ Tát đối với bác ngã Palamatta thầm thâm, hoặc thấy, hoặc nghe, liền nghĩ như vậy, này tôi thấy Phật, nghe lời Phật thuyết. Đại Bồ Tát này dùng vô tướng, vô nhị, vô sở đắc làm phương tiện, có thể tin hiểu đúng đắn nghĩa lý sâu xa bác ngã Palamatta như thế. Cụ thỏ thiện hiện bạch Phật Bạch Thế Tôn Bác ngã Palamatta thầm thâm là có thể nghe, có thể thấy không? Phật dạy Thiện hiện Bác ngã Palamatta thầm thâm không thể nghe, không thể thấy. Vì sao? Vì bác ngã Palamatta thầm thâm thật sự chẳng phải là Pháp để nghe, để thấy. Thiện hiện nên biết Sắc không nghe, không thấy các Pháp ẩn mật. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không nghe, không thấy các Pháp ẩn mật. Cho đến quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của chư Phật cũng không nghe, không thấy các Pháp ẩn mật. Tất cả như lai ứng chánh đặng giác cũng không nghe, không thấy các Pháp ẩn mật. Cụ thỏ thiện hiện lại bạch Phật Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát đối với quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề đã tích lũy bao nhiêu công hành mới có thể tinh cần tu học bác ngã Palamatta thầm thâm. Phật dạy Thiện hiện Đối với việc này cần phải thuyết phân biệt. Thiện hiện nên biết Có Đại Bồ Tát từ lúc mới phát tâm có thể tu học bác ngã Palamatta, cũng có thể tu học tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bổ thí Palamatta. Đại Bồ Tát này có dùng phương tiện thiện xảo, không phỉ bán các Pháp, không thấy các Pháp có tăng, có giảm, thường không xa lì chánh hành tương ưng với bổ thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác ngã Palamatta, thường không xa lì chiêu Phật Bồ Tát. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, dùng các loại thượng diệu cúng dường, cung chính, tôn trọng, ngợi khen chiêu Phật, Bồ Tát đều tùy theo ý mà có thể thành tựu, cũng có thể đối với các thiện căng khác làm cho mau chống viên mãng. Sanh đến nơi nào cũng không rơi vào trong bào thai mẹ. Tâm thường không cùng trụ với phiền não, cũng không khởi tâm nhì thưa. Luôn luôn không xa lì thần thông thù thắng ở các cõi Phật, thành thuộc hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Đại Bồ Tát này có thể phiên năng tu học bác ngã Palamatta thầm thâm. Lại có các thiện nam, thiện nữ v.v. hành Bồ Tát thừa, tuy từng được thấy trăm ngạn, hoặc vô lượng Phật, ở nơi chỗ chiêu Phật và đệ tử kia, phần nhiều tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác ngã nhưng còn dùng có sở đắc làm phương tiện, nên không có thể tu học bác ngã Palamatta thầm thâm cho đến bố thí Palamatta. Thiện hiện nên biết, các thiện nam, thiện nữ v.v. này nghe thuyết bác ngã Palamatta thầm thâm như thế, tâm sanh khinh mạng, liền rời chỗ ngồi đứng dậy ma đi. Người kia đã khinh mạng bác ngã Palamatta thầm thâm thì cũng khinh mạng Phật. Đã xả bỏ bác ngã Palamatta thầm thâm như thế thì cũng xả bỏ chiêu Phật. Này trong chúng này cũng có loại người đó, nghe ta tuyên thuyết bác ngã Palamatta thầm thâm thâm không cung kính, bỏ đại chúng mà đi. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ v.v. này đời trước ở thế gian nghe bác ngã Palamatta thầm thâm đã từng bỏ đi. Do sự huân tập thói quen từ trước nên bây giờ nghe ta thuyết cũng lại bỏ đi. Các thiện nam, thiện nữ v.v. này đối với bác ngã Palamatta thầm thâm thân, khẩu và ý đều không hòa hợp. Do sự tạo tác đó nên tăng trưởng nhiệt ngu si, ác tuệ, tội chướng. Bởi do việc tạo tác làm tăng trưởng nhiệt ngu si, ác tuệ, tội chướng nên nghe bác ngã Palamatta thầm thâm liền khinh hủy, phỷ bán, cản trở, phá hoại, xả bỏ. Đã khinh hủy, phỷ bán, cản trở, phá hoại, xả bỏ bác ngã Palamatta thầm thâm rồi, tức liền khinh hủy, phỷ bán, cản trở, phá hoại, xả bỏ chí nhất thiết trí của chiêu Phật ba đời. Do tạo tác tăng trưởng chiêu nghiệp cảm thiếu chánh pháp kia nên rơi vào địa ngục lớn, trải qua hơn trăm năm cho đến hơn trăm ngàn muôn ức năm, chịu các khổ lớn gây gớm mạnh liệt. Tội năng kêu vô ở thế gian này, từ địa ngục lớn này đến địa ngục lớn khác, cho đến khi kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa phát khởi thì đã lãnh chịu các khổ lớn gây gớm mạnh liệt. Hoặc khi kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong ở thế giới này phát khởi thì phải chịu nhiệt thiếu chánh pháp. Vẫn chưa hết, khi chết rồi lại sanh ở thế giới khác, cùng đồng loại này trong địa ngục lớn, trải qua hơn trăm năm cho đến hơn trăm ngàn muôn ức năm, lãnh chịu các khổ lớn gây gớm mạnh liệt. Tội năng kia ở thế giới khác, từ địa ngục lớn này đến địa ngục lớn khác, cho đến khi kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa phát khởi thì đã lãnh chịu các khổ lớn gây gớm mạnh liệt. Hoặc khi kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong ở thế giới này phát khởi thì phải chịu nhiệt thiếu chánh pháp. Vẫn chưa hết, khi chết rồi lại sanh ở thế giới khác nữa, cùng đồng loại này ở trong địa ngục lớn, trải qua hơn trăm năm cho đến hơn trăm ngàn muôn ức năm, chịu các khổ lớn gây gớm mạnh liệt. Tội năng kia ở thế giới khác nữa, từ địa ngục lớn này đến địa ngục lớn khác, cho đến thời kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa phát khởi thì đã chịu các khổ lớn gây gớm mạnh liệt. Như vậy lần lượt khắp trong địa ngục lớn ở mười phương các thế giới khác, chịu các khổ lớn gây gớm mạnh liệt. Hoặc khi kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong ở mười phương thế giới phát khởi thì bị nhiệt thiếu chánh pháp. Vẫn chưa hết, khi chết rồi lại sanh trở lại ở trong địa ngục lớn ở cõi xăm nhẫn này, từ địa ngục lớn này đến địa ngục lớn khác, cho đến thời kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa phát khởi thì đã chịu các khổ lớn gây gớm mạnh liệt. Nếu khi kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong ở thế giới này phát khởi thì bị nhiệt thiếu chánh pháp. Vẫn chưa hết, đến khi chết rồi lại sanh ở các thế giới khác, ở trong địa ngục lớn khắp mười phương, chịu các khổ lớn gây gớm mạnh liệt. Luân hồi như vậy, trải qua vô số kiếp. Tội nghiệp thiếu chánh pháp kia, thế lực giảm dần, ra khỏi địa ngục lại đòa vào loại bàn xanh, trải qua hơn trăm năm cho đến trăm ngàn muôn tức năm, chịu thân bàn xanh, gặp đủ các khổ, tàn hại, bức bách v.v. Vì tội chưa hết nên ở thế giới này, từ nơi hiểm ác này đến chống hiểm ác khác, cho đến thời kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa phát khởi, phải chịu các khổ tàn hại, bức bách v.v. Khi tàm tài ở thế giới này hoại, bị nhiệt thiếu chánh pháp, thế lực vẫn chưa hết, chết rồi lại sanh ở thế giới phương khác, cùng đồng loại này, trong loại bàn xanh, trải qua hơn trăm năm cho đến hơn trăm ngàn muôn ức năm, chịu đủ các khổ, tàn hại, bức bách v.v. Tội chưa hết nên sanh ở thế giới khác, từ nơi hiểm ác này đến chống hiểm ác khác, cho đến thời kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa phát khởi, phải chịu các khổ tàn hại, bức bách v.v. Khi tàm tài ở thế giới này hoại, bị nhiệt thiếu chánh pháp, thế lực vẫn chưa hết, chết rồi lại sanh ở thế giới phương khác, cùng đồng loại này, trong loại bàn xanh, trải qua hơn trăm năm cho đến hơn trăm ngàn muôn ức năm, chịu đủ các khổ, tàn hại, bức bách v.v. Tội chưa hết nên sanh ở thế giới khác, từ nơi hiểm ác này đến chống hiểm ác khác, cho đến thời kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa phát khởi, lại bị các khổ tàn hại, bức bách v.v. Như vậy lần lượt cải khắp các thế giới mười phương, chịu các khổ tàn hại, bức bách ở thân bàn xanh. Hoặc khi tàm tài ở mười phương thế giới hoại diệt, nhưng nhiệt thiếu chánh pháp kia thế lực vẫn chưa dứt, chết rồi sanh trở lại trong loại bàn xanh ở thế giới kham nhẫn. Từ chỗ hiểm ác này đến chỗ hiểm ác khác, cho đến thời kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa phát khởi, vẫn chịu các khổ tàn hại, bức bách v.v. Hoặc khi tàm tài ở thế giới này hoại, nhưng nhiệt thiếu chánh pháp kia thế lực vẫn chưa dứt, chết rồi vẫn sanh trở lại thế giới khác, ở khắp mười phương trong loại bàn xanh, chịu nhiều việc khổ. Cứ xoay vần như thế trải qua vô số kiếp. Tội thiếu chánh pháp kia nhiệt lực mỏng dần, thoát khỏi loại bàn xanh, lại đọa trong ngạ quỷ, trải hơn trăm năm cho đến hơn trăm ngàn muôn ức năm, chịu đủ các khổ, ống đói, tiêu tụy, khổ khát. Tội chưa hết, nên sanh trong thế giới này, từ cõi ngạ quỷ này đến cõi ngạ quỷ khác, cho đến thời kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa phát khởi lại chịu nhiều thống khổ, ống đói, tiêu tụy, khổ khát v.v. Hoặc khi tam tai ở thế giới này hoại, nhưng nhiệt thiếu chánh pháp kia thế lực vẫn chưa dứt, chết rồi sanh lại thế giới phương khác, cùng đồng loại này trong loài ngạ quỷ, trải qua hơn trăm năm cho đến hơn trăm ngàn muôn ức năm, chịu đủ các khổ, ống đói, tiêu tụy, khổ khát v.v. Tội vẫn chưa hết, nên sanh trong thế giới này, từ cõi ngạ quỷ này đến cõi ngạ quỷ khác, cho đến thời kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa phát khởi lại chịu nhiều thống khổ, ống đói, tiêu tụy, khổ khát v.v. Hoặc khi tam tai ở thế giới này hoại, nhưng nhiệt thiếu chánh pháp kia thế lực vẫn chưa dứt, chết rồi sanh lại thế giới phương khác, cùng đồng loại này trong loài ngạ quỷ, trải qua hơn trăm năm cho đến hơn trăm ngàn muôn ức năm, chịu đủ các thống khổ, ống đói, tiêu tụy, khổ khát v.v. Tội vẫn chưa hết, nên sanh trong thế giới này, từ cõi ngạ quỷ này đến cõi ngạ quỷ khác, cho đến thời kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa phát khởi lại chịu nhiều thống khổ, ống đói, tiêu tụy, khổ khát v.v. Như thế lần lượt trải pháp mười phương, ở cõi ngạ quỷ chịu nhiều thống khổ, ống đói, tiêu tụy, khổ khát v.v. Hoặc khi tam tai ở mười phương thế giới khác hoại, nhưng nhiệt thiếu chánh pháp kia thế lực vẫn chưa dứt, chết rồi sanh trong loài ngạ quỷ ở cõi cam nhẫn này, từ cõi ngạ quỷ này đến cõi ngạ quỷ khác, cho đến thời kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa phát khởi, chịu nhiều thống khổ, ống đói, tiêu tụy, khổ khát v.v. Hoặc khi tam tai ở mười phương thế giới khác hoại, nhưng nhiệt thiếu chánh pháp kia thế lực vẫn chưa dứt, nên chết rồi sanh ở thế giới khác, trải khắp mười phương, trong loài ngạ quỷ chịu nhiều sự khổ. Luân hồi như thế trải qua vô số kiếp, nhiệt thiếu chánh pháp kia thế lực sắp dứt, phát khỏi cõi ngạ quỷ, sanh trong loài người. Tuy được làm người nhưng ở trống hạ tiện, nghĩa là sanh trong nhà mù điếc, nhà làm thuê, nhà gánh thay chết, nhà hàng thịt, nhà đánh cá, sang bắn, nhà công thợ, nhà cho người mua vui, nhà tà kiến, nhà thiếu văn hóa, sen tạp ác luật nghi. Hoặc phải chịu thân không mắt, không tay, không mũi, không lưỡi, không tay, không chân, đùi điết căm ngọng, ung thư, hủy lát, phong cuồng, điên khùng, tàn tật, lưng gụ, lùng xấu, cục tay, cục chân, các căn thiếu thốn, da đen tiều tụy, khờ khảo không hiểu biết. Có làm việc gì cũng bị người xinh chê. Hoặc sanh ở chỗ không nghe danh hiệu Phật, Pháp, Tăng, Bồ Tát, độc giác. Hoặc lại sanh ở thế giới ưu ám, thường không có ngày đêm, hoàn toàn không có ánh sáng. Ở chỗ hiểm nạn, quế trực, ác độc. Vì sao? Vì nghiệp thiếu chánh Pháp làm tăng trưởng rất nặng, chịu đủ quả khổ như vậy, ưa thích điều gì cũng không được viên mãng. Phẩm loại rất nhiều khó có thể nói hết. Nếu muốn nói đủ, cùng kiếp cũng không hết. Lúc bấy giờ, xá lời tử bạch Phật. Bạch Thế Tôn Chiêu cảm nghiệp thiếu chánh Pháp, tạo tác tăng trưởng kia có thể nói cùng tương tự với năm nghiệp vô gián không? Phật dạy Xá lợi tử Chiêu cảm nghiệp thiếu chánh Pháp rất là sâu nặng, không thể đem so sánh với năm nghiệp vô gián. Nghĩa là người kia nghe thuyết bác nhã Palamuddha thầm thâm liền chống cử, phản đối, phỉ bán, khiêm chê, nói như vậy, lời này chẳng phải lời Phật thuyết, chẳng phải Pháp, chẳng phải luật, chẳng phải đại sư dạy. Chúng tôi đối với điều này không đáng tin học. Người phỉ bán chánh Pháp này là tự phỉ bán bác nhã Palamuddha, cũng dạy bảo người khác phỉ bán. Tự hoại thân mình, cũng phá hoại người khác. Tự uống thuốc độc, cũng khiến người khác uống. Tự mình mất quả báo sanh thiên, giải thoát an lạc, cũng làm cho người khác mất quả báo sanh thiên, giải thoát an lạc. Tự đưa mình đến lửa địa ngục, cũng dẫn người khác đến lửa địa ngục. Tự mình không tin hiểu bác nhã Palamuddha thầm thâm, cũng dạy người khác không tin hiểu bác nhã Palamuddha thầm thâm. Tự mình chìm trong biển khổ, cũng lôi người khác chìm trong biển khổ. Xá lợi tử. Tà đối với bác nhã Palamuddha thầm thâm như thế, không muốn cho người phỉ bán chánh Pháp nghe danh tự bác nhã Palamuddha, huống chi là thuyết cho họ. Xá lợi tử. Người phỉ bán chánh Pháp, tà không cho các thiện nam tử v.v. an trụ bồ tát thường nghe danh tự của họ, huống là mắt thấy, hay cùng sống chung. Vì sao? Xá lợi tử. Vì các người phỉ bán bác nhã Palamuddha thầm thâm nên biết đó là tên gọi khác của người phá hoại chánh Pháp, đọa vào loại đen tối như ốc sên ô huế. Tự dơ bẩn lại làm người người khác dơ bẩn, như đóng phân hôi thối. Nếu ai tin lời người phá hoại chánh Pháp cũng chịu khổ lớn đã nói ở trước. Xá lợi tử. Nếu có phá hoại bác nhã Palamuddha thầm thâm, nên biết loại ấy tức là địa ngục, bàn xanh, ngạ quỷ, nhất định sẽ chịu vô biên khổ lớn, độc hại rất nặng. Vì vậy, người biết không nên hủy bán bác nhã Palamuddha thầm thâm. Lúc này, xá lợi tử lại bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Sao như Lai chỉ thuyết người phá hoại chánh Pháp khi đọa vào đại địa ngục, bàn xanh, ngạ quỷ chịu nhiều thống khổ mà không thuyết thân lượng hình dạng? Phật dạy. Xá lợi tử. Thôi, chẳng nên nói hình dạng của người phá hoại chánh Pháp phải chịu sanh vào đường ác ở đời tương lai. Vì sao? Vì nếu ta nói đủ hình dạng kia, thì họ nghe được sẽ kinh hải, sợ sệt đến ngất xỉu, giận đến mất mạng, hoặc khổ gần chết, tầm đau khổ như trúng tên độc, thân khô héo như dây đứt gốc. Người kia nghe thuyết việc người hủy bán chánh Pháp sẽ chịu khổ thân rất xấu như thế, từ kinh hoàng đến nổi mất mạng. Ta vì thương xót kẻ ấy nên không thuyết. Xá lợi tử bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Tôi xin Phật thuyết hình dạng xấu xí kia để trăng dậy đời sau, để biết vị bán chánh Pháp sẽ gặp khổ lớn và không dám tạo tội. Phật dạy. Xá lợi tử. Lời dạy trên của ta cũng đủ trăng dậy, sáng suốt, nghĩa là các thiện nam tử V.V. ở đời vị lai, nghe ta thuyết người tạo nghiệp phá hoại chánh Pháp, làm tăng trưởng đầy đủ sẽ rơi vào đại địa ngục, bàn xanh, ngạ quỷ. Trong tất cả cõi đó, chịu quả khổ lâu dài, nên tự giữ ghiền, không hủy bán chánh Pháp. Xá lợi tử bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Cúi xin Thế Tôn. Cúi xin Đấng Thiện Thệ. Các thiện nam tử ở đời vị lai nghe Phật thuyết nghiệp cảm phá hoại chánh Pháp trước sẽ chịu khổ lâu dài, đủ làm lợi trăng dậy sáng suốt, thà bỏ thân mạng, trọng đời không hủy bán chánh Pháp, chớ để đời sau phải chịu khổ ấy. Trước bấy giờ, thiện hiện liền bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Nếu có các thiện nam tử V, V, thông minh, nghe Phật thuyết người hủy bán chánh Pháp ở đời vị lai sẽ chịu khổ nặng lâu dài, thì phải hồ trì thân, khẩu, ý nghiệp, chớ nên hủy bán phá hoại chánh Pháp, đọa trong ba đường ác, chịu khổ lâu dài trong nhiều kiếp, nhiều đời không thấy chư Phật, không nghe chánh Pháp, không gặp chúng tăng, không được sanh nơi nước có Phật. Bạch Thế Tôn. Tạo tác tăng trưởng nghiệp cảm thiếu chánh Pháp có phải do nghiệp ác ngữ huân tập không? Phật dạy. Thiện hiện. Đúng vậy. Đúng vậy. Đúng thật là do nghiệp ác ngữ tích tập, tạo tác tăng trưởng nghiệp cảm thiếu chánh Pháp. Thiện hiện. Đúng vậy. Đúng vậy. Đúng thật là do nghiệp ác ngữ tích tập, tạo tác tăng trưởng nghiệp cảm thiếu chánh Pháp. Ở trong chánh Pháp tùy nại gia của ta, sẽ có các người ngu si xuất gia. Người kia tuy xưng ta là đại sư, nhưng đối với bác nhã Ba-la-mật-đa thầm thâm của ta thuyết lại hủy bán phá hoại. Thiện hiện. Nên biết, nếu hủy bán bác nhã Ba-la-mật-đa thầm thâm là hủy bán quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ của chư Phật. Nếu hủy bán quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ của chư Phật là hủy bán trí nhất thiết trí của chư Phật ba đời. Nếu hủy bán trí nhất thiết trí chư Phật ba đời là hủy bán Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Nếu hủy bán Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo thì hủy bán chánh kiến thế gian. Nếu hủy bán chánh kiến thế gian thì sẽ hủy bán bố thí V, V, sáu Pháp ba-la-mật-đa, cho đến trí nhất thiết tướng. Do tạo các sự việc hủy bán kia liền lãnh chịu vô lượng, vô số, vô biên tội nghiệp. Do lãnh chịu vô lượng, vô số, vô biên tội nghiệp liền lãnh chịu khổ lớn ở tất cả địa ngục, bàn sanh, ngạ quỷ và trong loại người. Cụ thọ thiện hiện Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Người Ngu Si Khi do bao nhiêu nhân duyên mà hủy bán bát nhã ba-la-mật-đa thậm thâm như vậy? Phật dạy Thiện hiện Do bốn nhân duyên Một là bị các tạ ma thổi đến nên mê lầm, hai là đối với Pháp sâu xa không tin hiểu nổi, ba là không suy năng tin tấn, nên chìm đắm nơi năm quẩn, bị sự sai khiến của các ác kỹ thức, bốn là vì lòng nhiều sân hần, thích làm Pháp ác, thích tự cao, khinh chê người khác. Người Ngu Si Khi do đầy đủ bốn nhân duyên này nên hủy bán bát nhã ba-la-mật-đa thậm thâm như vậy, bởi vậy nên chịu các khổ lớn ở tương lai. Cụ thọ thiện hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Những người Ngu Si không suy năng tin tấn, vì sự sai khiến của ác kỹ thức, chưa trồng thiện trăng, lại đủ các ác hành, đối với bát nhã ba-la-mật-đa thậm thâm mà Phật đã thuyết, thật khó tin hiểu. Phật dạy Thiện hiện Đúng vậy Đúng vậy Đúng như lời ông nói Cụ thọ thiện hiện lại Bạch Phật Bạch Thế Tôn Bát nhã ba-la-mật-đa như vậy, sao lại sâu xa khó tin hiểu? Phật dạy Thiện hiện Sát cho đến thức chẳng buộc chẳng mở Vì sao? Sát cho đến thức, tánh vô sở hữu, là tử tánh sát V, V Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng buộc chẳng mở Vì sao? Vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, tánh vô sở hữu, là tử tánh trí nhất thiết V, V Lại nữa, thiện hiện Khoảng trước, sau, giữ cô sát cho đến thức chẳng buộc chẳng mở Vì sao? Vì khoảng trước, sau, giữ cô sát cho đến thức, tánh vô sở hữu, là tử tánh khoảng trước, sau, giữ cô sát V, V Như vậy cho đến cô trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng khoảng trước, sau, giữ chẳng buộc chẳng mở Vì sao? Vì khoảng trước, sau, giữ cô trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, tánh vô sở hữu, là tử tánh khoảng trước, sau, giữ cô trí nhất thiết V, V Cụ thọ thiện hiện bạch Người không xuyên năng tinh tấn, chưa gieo trồng thiện căng, thiện căng không đầy đủ, vì sự sai khiến của bạn ác, tăng trưởng giải đải, hành động theo lực đẩy của ma, tinh tấn yếu ớt, thất niệm sanh ác tuệ nên đối với lời thuyết bát nhã ba la mật đa thầm thâm của Phật thật khó tin hiểu Phật dạy Thiện hiện Đúng vậy Đúng vậy Đúng như lời ông nói Vì sao? Thiện hiện Vì sắc thanh tịnh tức là quả thanh tịnh, quả thanh tịnh tức là sắc thanh tịnh Vì sao? Vì sắc thanh tịnh cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Như vậy cho đến quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật thanh tịnh tức là quả thanh tịnh, quả thanh tịnh tức là quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật thanh tịnh Vì sao? Vì sao? Vì quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật thanh tịnh cùng với quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Lại nữa Thiện hiện Sắc thanh tịnh tức là bác nhã ba la mật đa thanh tịnh Bác nhã ba la mật đa thanh tịnh tức là sắc thanh tịnh Vì sao? Vì sắc thanh tịnh cùng với bác nhã ba la mật đa thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Như vậy cho đến trí nhất thiết tướng thanh tịnh tức là bác nhã ba la mật đa thanh tịnh Bác nhã ba la mật đa thanh tịnh tức là trí nhất thiết tướng thanh tịnh Vì sao? Vì trí nhất thiết tướng thanh tịnh cùng với bác nhã ba la mật đa thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Lại nữa Thiện hiện Sắc thanh tịnh tức là trí nhất thiết trí thanh tịnh Trí nhất thiết trí thanh tịnh tức là sắc thanh tịnh Vì sao? Vì sắc thanh tịnh cùng với trí nhất thiết trí thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Như vậy cho đến trí nhất thiết tướng thanh tịnh tức là trí nhất thiết trí thanh tịnh Trí nhất thiết trí thanh tịnh tức là trí nhất thiết tướng thanh tịnh Vì sao? Vì trí nhất thiết tướng thanh tịnh cùng với trí nhất thiết trí thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Lại nữa Thiện hiện Bất nhị thanh tịnh tức là sắc thanh tịnh Sắc thanh tịnh tức là bất nhị thanh tịnh Vì sao? Vì bất nhị thanh tịnh cùng với sắc thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Như vậy cho đến bất nhị thanh tịnh tức là trí nhất thiết tướng thanh tịnh Trí nhất thiết tướng thanh tịnh tức là bất nhị thanh tịnh Vì sao? Vì bất nhị thanh tịnh cùng với trí nhất thiết tướng thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Lại nữa Thiện hiện Ngã cho đến người thấy thanh tịnh tức là sắc thanh tịnh Sắc thanh tịnh tức là ngã cho đến người thấy thanh tịnh Vì sao? Vì ngã cho đến người thấy thanh tịnh cùng với sắc thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Như vậy cho đến ngã cho đến người thấy thanh tịnh tức là trí nhất thiết tướng thanh tịnh Trí nhất thiết tướng thanh tịnh tức là ngã cho đến người thấy thanh tịnh Vì sao? Vì ngã cho đến người thấy thanh tịnh cùng với trí nhất thiết tướng thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Lại nữa Thiện hiện Tham, son, si thanh tịnh tức là sắc thanh tịnh Sắc thanh tịnh tức là tham, son, si thanh tịnh Vì sao? Vì tham, son, si thanh tịnh cùng với sắc thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Như vậy cho đến tham, son, si thanh tịnh tức là trí nhất thiết tướng thanh tịnh Trí nhất thiết tướng thanh tịnh tức là tham, son, si thanh tịnh Vì sao? Vì tham, son, si thanh tịnh cùng với trí nhất thiết tướng thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Lại nữa Thiện hiện Sắc thanh tịnh nên thọ thanh tịnh Thọ thanh tịnh nên sắc thanh tịnh Vì sao? Vì sắc thanh tịnh cùng với thọ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Như vậy, thọ thanh tịnh nên tướng thanh tịnh, tướng thanh tịnh nên thọ thanh tịnh Lần lượt cho đến trí đạo tướng thanh tịnh nên trí nhất thiết tướng thanh tịnh Trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên trí đạo tướng thanh tịnh Vì sao? Vì trí đạo tướng thanh tịnh cùng với trí nhất thiết tướng thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Lại nữa Thiện hiện Bác nhã Palamuddha thanh tịnh nên sắc thanh tịnh Sắc thanh tịnh nên trí nhất thiết trí thanh tịnh Vì sao? Vì Bác nhã Palamuddha thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh, hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Như vậy cho đến Bác nhã Palamuddha thanh tịnh nên trí nhất thiết tướng thanh tịnh Trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên trí nhất thiết trí thanh tịnh Vì sao? Vì Bác nhã Palamuddha thanh tịnh, hoặc trí nhất thiết tướng thanh tịnh, hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Như vậy, cho đến trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên sắc thanh tịnh Sắc thanh tịnh nên trí nhất thiết trí thanh tịnh Vì sao? Vì trí nhất thiết tướng thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh, hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Như vậy cho đến trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên trí đạo tướng thanh tịnh Trí đạo tướng thanh tịnh nên trí nhất thiết trí thanh tịnh Vì sao? Vì trí nhất thiết tướng thanh tịnh, hoặc trí đạo tướng thanh tịnh, hoặc trí nhất thiết trí thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Lại nữa, thiện hiện Trí nhất thiết trí thanh tịnh nên sắc thanh tịnh Sắc thanh tịnh nên bác nhã ba la mật đa thanh tịnh Vì sao? Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh, hoặc bác nhã ba la mật đa thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Như vậy cho đến trí nhất thiết trí thanh tịnh nên trí nhất thiết tướng thanh tịnh Trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên bác nhã ba la mật đa thanh tịnh Vì sao? Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc trí nhất thiết tướng thanh tịnh, hoặc bác nhã ba la mật đa thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Cho đến trí nhất thiết trí thanh tịnh nên sắc thanh tịnh Sắc thanh tịnh nên trí nhất thiết tướng thanh tịnh Vì sao? Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh, hoặc trí nhất thiết tướng thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Như vậy cho đến trí nhất thiết trí thanh tịnh nên trí đạo tướng thanh tịnh Trí đạo tướng thanh tịnh nên trí nhất thiết tướng thanh tịnh Vì sao? Vì trí nhất thiết trí thanh tịnh, hoặc trí đạo tướng thanh tịnh, hoặc trí nhất thiết tướng thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Lại nữa, thiện hiện Hữu vi thanh tịnh nên vô vi thanh tịnh Vô vi thanh tịnh nên hữu vi thanh tịnh Vì sao? Vì hữu vi thanh tịnh, hoặc vô vi thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt Lại nữa, thiện hiện Quá khứ thanh tịnh nên vị lai, hiện tại thanh tịnh Vị lai thanh tịnh nên quá khứ, hiện tại thanh tịnh Hiện tại thanh tịnh nên quá khứ, vị lai thanh tịnh Vì sao? Vì quá khứ thanh tịnh, hoặc vị lai thanh tịnh, hoặc hiện tại thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt 11. Phẩm Tán Tháng Thanh Tịnh 01 Lúc bấy giờ, xá lợi tử bạch Phật Bạch Thế Tôn Sự thanh tịnh như vậy rất là sâu xa Phật dạy Đúng vậy Vì hoàn toàn thanh tịnh Xá lợi tử bạch Phật Bạch Thế Tôn Những Pháp gì hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy rất là sâu xa? Phật dạy Xá lợi tử Sắc hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy rất là sâu xa Thọ, tưởng, hành, thức hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy rất là sâu xa Như vậy cho đến trí nhất thiết hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy rất là sâu xa Trí đạo tướng Trí nhất thiết tướng hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy rất là sâu xa Khi ấy, xá lợi tử lại bạch Phật Sự thanh tịnh như vậy thật là sáng suốt ư Phật dạy Đúng vậy Vì hoàn toàn thanh tịnh Xá lợi tử bạch Phật Bạch Thế Tôn Những Pháp gì hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy thật là sáng suốt? Phật dạy Xá lợi tử Bác nhã Ba-la-mật-đa hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy thật là sáng suốt Cho đến Bố Thí Ba-la-mật-đa hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy thật là sáng suốt Như vậy cho đến Trí nhất thiết hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy thật là sáng suốt Trí đạo tướng Trí nhất thiết tướng hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy thật là sáng suốt Xá lợi tử lại bạch Phật Sự thanh tịnh như vậy không chuyển động, không tương tục sao? Phật dạy Đúng vậy Vì nó hoàn toàn thanh tịnh Xá lợi tử bạch Phật Bạch Thế Tôn Những pháp gì hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy không chuyển động, không tương tục? Phật dạy Xá lợi tử Sắc không chuyển động, không tương tục, hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy không chuyển động, không tương tục Như vậy cho đến Trí nhất thiết tướng không chuyển động, không tương tục, hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy không chuyển động, không tương tục Khi ấy, xá lợi tử lại bạch Phật Bạch Thế Tôn Sự thanh tịnh như vậy vốn không tạp nhiễm sao? Phật dạy Đúng vậy Vì hoàn toàn thanh tịnh Xá lợi tử bạch Phật Bạch Thế Tôn Những pháp gì hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy vốn không tạp nhiễm? Phật dạy Xá lợi tử Hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy vốn không tạp nhiễm Như vậy cho đến Trí nhất thiết tướng hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy vốn không tạp nhiễm Xá lợi tử lại bạch Phật Sự thanh tịnh như vậy bản tánh vốn tinh khiết sao? Phật dạy Đúng vậy Vì hoàn toàn thanh tịnh Xá lợi tử bạch Phật Bạch Thế Tôn Những pháp gì hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy bản tánh vốn tinh khiết? Phật dạy Xá lợi tử Sắc hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy bản tánh vốn tinh khiết Như vậy cho đến Trí nhất thiết tướng hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy bản tánh vốn tinh khiết Xá lợi tử lại bạch Phật Bạch Thế Tôn Sự thanh tịnh như vậy vô đắc, vô hiện quán sao? Phật dạy Đúng vậy Vì hoàn toàn thanh tịnh Xá lợi tử bạch Phật Bạch Thế Tôn Những pháp gì hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy vô đắc, vô hiện quán? Phật dạy Xá lợi tử Sắc bản tánh vốn không, hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy vô đắc, vô hiện quán Như vậy cho đến Trí nhất thiết tướng bản tánh vốn không, hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy vô đắc, vô hiện quán Xá lợi tử lại bạch Phật Bạch Thế Tôn Thanh tịnh như vậy không sanh, không xuất hiện hay sao? Phật dạy Đúng vậy Vì hoàn toàn thanh tịnh Xá lợi tử bạch Phật Bạch Thế Tôn Những pháp gì hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy không sanh, không xuất hiện? Phật dạy Xá lợi tử Sắc không sanh, không hiện lộ, hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy không sanh, không xuất hiện Như vậy cho đến trí nhất thiết tướng không sanh, không hiện lộ, hoàn toàn thanh tịnh nên nói thanh tịnh ấy không sanh, không xuất hiện Xá lợi tử lại bạch Phật Bạch Thế Tôn Sự thanh tịnh như vậy không sanh dục giới, không sanh sát giới, không sanh vô sát giới hay sao? Phật dạy Đúng vậy Vì hoàn toàn thanh tịnh Xá lợi tử bạch Phật Bạch Thế Tôn Sao sự thanh tịnh như vậy lại không sanh dục giới, không sanh sát giới, không sanh vô sát giới? Phật dạy Xá lợi tử Tử tánh tàm giới bất khả đắc nên nói thanh tịnh ấy không sanh dục giới, không sanh sát giới, không sanh vô sát giới Khi ấy, xá lợi tử lại bạch Phật Sự thanh tịnh như vậy bạn tánh nó vốn vô tri sao? Phật dạy Đúng vậy Vì hoàn toàn thanh tịnh Xá lợi tử bạch Phật Bạch Thế Tôn Vì sao sự thanh tịnh như vậy bạn tánh lại vô tri? Phật dạy Xá lợi tử Vì bạn tánh tất cả pháp ẩn mật nên bạn tánh thanh tịnh như vậy vô tri Xá lợi tử bạch Phật Bạch Thế Tôn Những pháp gì bạn tánh vô tri nên nói thanh tịnh ấy bạn tánh vô tri? Phật dạy Xá lợi tử Xác bạn tánh vô tri, tử tướng không nên nói thanh tịnh ấy bạn tánh vô tri Như vậy cho đến trí nhất thiết tướng bạn tánh vô tri, tử tướng không nên nói thanh tịnh ấy bạn tánh vô tri Xá lợi tử bạch Phật Vì bạn tánh tất cả pháp thanh tịnh nên nói là thanh tịnh sao? Phật dạy Đúng vậy Vì tất cả pháp hoàn toàn thanh tịnh Xá lợi tử bạch Phật Bạch Thế Tôn Vì sao bạn tánh tất cả pháp thanh tịnh nên nói là thanh tịnh? Phật dạy Xá lợi tử Vì tất cả pháp bất khả đắc bạn tánh thanh tịnh nên nói thanh tịnh Xá lợi tử lại bạch Phật Bạch Thế Tôn Bác ngã ba la mật đa như vậy đối với trí nhất thiết trí không lợi ích không tổn giảm sao? Phật dạy Đúng vậy Vì hoàn toàn thanh tịnh Xá lợi tử bạch Phật Bạch Thế Tôn Vì sao bác ngã ba la mật đa đối với trí nhất thiết trí không lợi ích không tổn giảm? Phật dạy Xá lợi tử Vì pháp giới thường trụ nên bác ngã ba la mật đa như thế đối với trí nhất thiết trí không lợi ích không tổn giảm Xá lợi tử lại bạch Phật Bạn tánh thanh tịnh của bác ngã ba la mật đa như thế đối với tất cả pháp không cần sự gìn dữ sao? Phật dạy Đúng vậy Vì tất cả pháp hoàn toàn thanh tịnh Xá lợi tử bạch Phật Bạch Thế Tôn Vì sao bạn tánh thanh tịnh của bác ngã ba la mật đa đối với tất cả pháp không cần sự dữ gìn? Phật dạy Xá lợi tử Vì pháp giới vắng lặng, không lây động nên bạn tánh thanh tịnh của bác ngã ba la mật đa như thế đối với tất cả pháp không cần sự dữ gìn Cụ thọ thiện hiện cũng lại bạch Phật Bạch Thế Tôn Ngã thanh tịnh nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả thanh tịnh sao? Phật dạy Đúng vậy Hoàn toàn thanh tịnh Bạch Thế Tôn Do duyên gì mà nói ngã thanh tịnh nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả thanh tịnh, là hoàn toàn thanh tịnh? Thiện hiện Ngã vô sở hữu nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng vô sở hữu, là hoàn toàn thanh tịnh Cụ thọ thiện hiện lại bạch Phật Bạch Thế Tôn Ngã thanh tịnh nên quả dự lưu, nhất lai, bất hoàng, à la hán, độc giáp bồ đề, tất cả đại bồ tác hành quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chiêu Phật thanh tịnh sao? Phật dạy Đúng vậy Hoàn toàn thanh tịnh Bạch Thế Tôn Do nhân duyên vị mà nói ngã thanh tịnh nên quả dự lưu cho đến quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chiêu Phật thanh tịnh, là hoàn toàn thanh tịnh Thiện hiện Ngã tự tướng là không, nên quả dự lưu cho đến quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chiêu Phật cũng tự tướng không, là hoàn toàn thanh tịnh Cụ thọ thiện hiện lại bạch Phật Bạch Thế Tôn Ngã thanh tịnh nên trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thanh tịnh sao? Phật dạy Đúng vậy Hoàn toàn thanh tịnh Bạch Thế Tôn Do nhân duyên vị mà nói ngã thanh tịnh nên trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thanh tịnh, là hoàn toàn thanh tịnh Thiện hiện Vô tướng, vô đắc, vô niệm, vô tri cho nên trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng vô tướng, vô đắc, vô niệm, vô tri, là hoàn toàn thanh tịnh Cụ thọ thiện hiện lại bạch Phật Bạch Thế Tôn Sự thanh tịnh cả hai nên vô đắc, vô hiện quán hay sao? Phật dạy Đúng vậy Hoàn toàn thanh tịnh Bạch Thế Tôn Do nhân duyên vị mà nói thanh tịnh cả hai nên vô đắc, vô hiện quán, là hoàn toàn thanh tịnh Thiện hiện Sự phát khởi của điên đảo không có niệm hay thanh tịnh nên vô đắc, vô hiện quán, là hoàn toàn thanh tịnh Cụ thọ thiện hiện lại bạch Phật Bạch Thế Tôn Ngã vô biên nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng vô biên hay sao? Phật dạy Đúng vậy Vì hoàn toàn thanh tịnh Bạch Thế Tôn Do nhân duyên vị mà nói ngã vô biên nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng vô biên, là hoàn toàn thanh tịnh Thiện hiện Vì hoàn toàn không, không không biên tế, cho nên hoàn toàn thanh tịnh Cụ thọ thiện hiện lại bạch Phật Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ-Tát có thể hiểu như vậy, là Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sao? Phật dạy Đúng vậy Hoàn toàn thanh tịnh Bạch Thế Tôn Do nhân duyên vị mà nói, nếu Đại Bồ-Tát có thể hiểu như vậy là Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, tức hoàn toàn thanh tịnh Thiện hiện Do duyên đây có thể thành trí đạo tướng Cụ thọ thiện hiện lại bạch Phật Nếu khi Đại Bồ-Tát hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa thầm thâm không đến bờ bên này, không đến bờ bên kia, không ở giữa dòng, thì là Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa thầm thâm của Đại Bồ-Tát hay sao? Phật dạy Đúng vậy Hoàn toàn thanh tịnh Bạch Thế Tôn Do nhân duyên vị mà nói, khi Đại Bồ-Tát hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa thầm thâm không đến bờ bên này, không đến bờ bên kia, không ở giữa dòng, thì là Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa thầm thâm của Đại Bồ-Tát, tức hoàn toàn thanh tịnh Thiện hiện Vì Pháp tánh ba đời bình đẳng vậy