Home Page
cover of kinhdaibatnha (500)
kinhdaibatnha (500)

kinhdaibatnha (500)

00:00-44:20

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech
0
Plays
0
Downloads
0
Shares

Transcription

The text is a transcription of a Buddhist scripture called Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 20, Quyển 500, 4 Phẩm Thiên Đế 03. It discusses the concept of non-duality and the idea that all phenomena are not separate entities, but rather manifestations of the same ultimate truth. The text emphasizes the importance of studying and understanding this truth in order to attain enlightenment. The main theme of the transcription is the realization that all phenomena, including the self, are empty and devoid of inherent existence. The text also explores the idea that the ultimate truth cannot be grasped through conceptual thinking or language, but only through direct experience and realization. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 20, Quyển 500, 4 Phẩm Thiên Đế 03 Lúc bấy giờ, Trời Ê Thích và Tứ Đại Thiên Vương trong ba ngàn đại thiên thế giới, cho đến trời sát cứu cánh đồng nghĩ như vậy, tôn giả thiện hiện đã thừa hành thần lực của Phật mà vì chúng Đại Bồ Tát trúi trận mưu pháp lớn. Do thế này chúng ta nên cúng dường, mỗi vị hãy hóa ra các loại hoa vi diệu của cõi trời, để đại cúng dường như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, các Đại Bồ Tát và Bí Sô Tăng, tôn giả thiện hiện với Bát Nhã Ba La Mật Đa thầm thâm. Nghĩ như vậy rồi Trời Ê Thích và các vị trời liền hóa ra hương hoa vi diệu ở cõi trời đem đại cúng dường. Khi ấy, nhờ thần lực của Phật, hoa ở khắp hư không trong ba ngàn đại thiên thế giới này biến thành đại hoa trang nghiêm thù thắng vi diệu, lớn bằng ba ngàn đại thiên thế giới. Cụ thọ thiện hiện thấy việc như vậy, liền nghĩ, này hoa trải ở chỗ chư thiên là điều chưa từng thấy. Hoa này thù thắng vi diệu, chắc chắn không phải sanh ra do đất nước có cây, mà do sự hóa hiện từ tâm chư thiên. Lúc đó, Trời Ê Thích biết suy nghĩ của thiện hiện, liền nói với thiện hiện, Hoa đã trải đây thật chẳng phải do đất nước có cây sanh ra mà là do tâm của chư thiên hóa hiện vậy. Thiện hiện nói với Trời Ê Thích, Hoa này không sanh tức chẳng phải hoa. Trời Ê Thích hỏi thiện hiện, Chỉ hoa này là không sanh, còn các Pháp khác cũng vậy chứ? Thiện hiện đáp, Không phải chỉ hoa này là không sanh, các Pháp khác cũng không sanh. Vì sao? Kiều Thi Ca, Vì sắc cũng không sanh, thọ, tưởng, hành, thức cũng không sanh. Đây đã không sanh tức là chẳng phải sắc cho đến thức. Vì sao? Vì Pháp không sanh xa lì các hí luận, không thể trình bậy là sắc v.v. Nhãn xứ cho đến ý xứ. Sắc xứ cho đến Pháp xứ. Nhãn giới cho đến ý giới. Sắc giới cho đến Pháp giới. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Nhãn xúc cho đến ý xúc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Địa giới cho đến thức giới. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Vô mình cho đến lão tử. Bố thí ba la mật đa cho đến bát nhã ba la mật đa. Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không? Chân như cho đến cảnh giới bất tương nhi. Cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tám giải thoát, chính định thứ đệ. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tịnh quán địa cho đến như lai địa. Thực khỉ địa cho đến Pháp vân địa. Năm loại mắt, sáu phép thần thông. Mười lực như lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc đại sĩ. Pháp không quên mất, tảnh luôn luôn xã. Tất cả Pháp môn Đà-la-Ni, Pháp môn Tam-ma-địa. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Dự lưu hướng, dự lưu quả, cho đến Đại Bồ-Tát hành quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệp của chư Phật. Dự lưu, nhất lai, bất hoàng, à-la-hán, độc giác, Bồ-Tát và chư như lai ứng chánh đẳng giác phải nên biết như vậy. Khi ấy, trời Ê-thích nghĩ thầm như vậy, trí tuệ của tôn giả thiền hiện thật là thâm sâu, chỉ thuyết Pháp tánh mà không bỏ giả danh. Đức Phật biết ý nghĩ đó, liền nói với Ê-thích. Kiều Thi-ca nghĩ đúng vậy. Trí tuệ của cụ thọ thiền hiện thật là thâm sâu, chỉ thuyết Pháp tánh mà không bỏ giả danh. Trời Ê-thích bạch Phật. Bạch Thế Tôn. Tôn giả thiền hiện đối với những Pháp gì chỉ thuyết Pháp tánh mà không bỏ giả danh. Bây giờ, Phật dạy trời Ê-thích. Kiều Thi-ca. Sát cho đến thức chỉ là giả danh, giả danh như vậy nhưng không trời Pháp tánh. Cụ thọ thiền hiện chỉ thuyết Pháp tánh của sát V, V mà giả danh của sát V, V như thế không bị hoại. Vì sao? Vì Pháp tánh của sát V, V không hoại, không phải không hoại. Cho nên, việc thuyết Pháp của thiền hiện cũng không hoại, không phải không hoại. Như vậy cho đến tất cả như lai ứng chánh đặng giác cũng nên biết như vậy. Kiều Thi-ca. Cụ thọ thiền hiện đối với các Pháp như thế, chỉ thuyết Pháp tánh mà không bỏ giả danh. Khi ấy, thiền hiện nói với Ê-thích. Kiều Thi-ca. Đúng vậy. Đúng vậy. Đúng như lời Phật thuyết, các Pháp có mặt đều là giả danh. Kiều Thi-ca. Các đại Bồ-tát đã biết tất cả Pháp chỉ là giả danh, nên học bác nhã Ba-la-mật-đa. Kiều Thi-ca. Khi các đại Bồ-tát học như thế, thì không phải đối với sát mà học, cũng không phải đối với thọ, tưởng, hành, thức mà học. Vì sao? Đại Bồ-tát này không thấy sát có thể ở trong đó mà học, cũng không thấy thọ, tưởng, hành, thức có thể ở trong đó mà học. Như vậy cho đến đối với chiêu như lai ứng chánh đẳng giác cũng nên biết như vậy. Trời Ê-thích lại hỏi thiền hiện. Do nhân duyên gì mà đại Bồ-tát trong lúc học không thấy sát, cũng không thấy thọ, tưởng, hành, thức, cho đến cũng không thấy tất cả như lai ứng chánh đẳng giác. Thiền hiện đáp. Kiều Thi-ca. Sát, sát là tánh không, thọ, tưởng, hành, thức, thọ, tưởng, hành, thức là tánh không. Cho đến như lai ứng chánh đẳng giác, như lai ứng chánh đẳng giác là tánh không. Kiều Thi-ca. Các đại Bồ-tát do nhân duyên này mà trong lúc học không thấy sát cho đến thức, không thấy tất cả như lai ứng chánh đẳng giác. Vì sao? Kiều Thi-ca. Vì sát không không thể được nên thấy sát không, sát không không thể được nên học sát không. Như vậy cho đến như lai ứng chánh đẳng giác không không thể được nên thấy như lai ứng chánh đẳng giác không. Như lai ứng chánh đẳng giác không không thể được nên học như lai ứng chánh đẳng giác không. Kiều Thi-ca. Nếu đại Bồ-tát không học nơi không, thì đại Bồ-tát này là học nơi không. Vì sao? Vì không thể phân hai. Kiều Thi-ca. Nếu đại Bồ-tát không học nơi sát không, cho đến không học nơi tất cả như lai ứng chánh đẳng giác không, thì đại Bồ-tát này là học nơi sát không, cho đến là học nơi tất cả như lai ứng chánh đẳng giác không. Vì sao? Vì không thể phân hai. Kiều Thi-ca. Nếu đại Bồ-tát dùng không thể phân hai làm phương tiện, đối với việc học sát không, cho đến dùng không hai làm phương tiện đối với việc học như lai ứng chánh đẳng giác không, thì đại Bồ-tát này có thể dùng không hai làm phương tiện, học Bồ-thí-pa-la-mật-đa cho đến Bác-nhã-pa-la-mật-đa. Học Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không? Học chân như cho đến cảnh giới bất tương nghi. Học cảnh giới đoàn cho đến cảnh giới vô vi. Học thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Học bốn niềm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Học tám giải thoát, chính định thứ đệ. Học Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Học tịnh quán địa cho đến như lai địa. Học cực khỉ địa cho đến Pháp vân địa. Học năm loại mắt, sáu phép thần thông. Học mười lực như lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Học ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc đại sĩ. Học Pháp không quên mất, tảnh luôn luôn xã. Học tất cả Pháp môn Đà-la-Ni, Pháp môn Tam-ma-địa. Học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Học dự lưu hướng, dự lưu quả, cho đến Đại Bồ-Tát hành quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đệ của Chiêu Phật. Học dự lưu, nhất lai, bất hoạn, à-la-hán, độc giác, Bồ-Tát và chư như lai ứng chánh đẳng giác. Nếu Đại Bồ-Tát nào có thể dùng Pháp không hai làm phương tiện, học bố thí Ba-la-mật-đa cho đến như lai ứng chánh đẳng giác, thì Đại Bồ-Tát đó có thể dùng Pháp không hai làm phương tiện để học vô lượng, vô số, vô biên, làm thanh tịnh Phật Pháp không thể nghĩ bàn. Kiều Thi-ca Nếu Đại Bồ-Tát nào có thể dùng Pháp không hai làm phương tiện, thì Đại Bồ-Tát đó có thể học vô lượng, vô số, vô biên, làm thanh tịnh Phật Pháp không thể nghĩ bàn. Và Đại Bồ-Tát đó không vì sắc tăng mà học, không vì sắc giảm mà học, cho đến không vì tất cả như lai ứng chánh đẳng giác tăng mà học, không vì tất cả như lai ứng chánh đẳng giác giảm mà học. Vì sao? Kiều Thi-ca Vì sắc cho đến tất cả như lai ứng chánh đẳng giác không thể phân hai. Kiều Thi-ca Nếu Đại Bồ-Tát nào không vì sắc tăng mà học, cũng không vì sắc giảm mà học, cho đến không vì tất cả như lai ứng chánh đẳng giác tăng mà học, cũng không vì tất cả như lai ứng chánh đẳng giác giảm mà học, thì Đại Bồ-Tát này không vì nhiệt thọ sắc mà học, cũng không vì hoại diệt sắc mà học. Như vậy cho đến, không vì nhiệt thọ tất cả như lai ứng chánh đẳng giác mà học, cũng không vì hoại diệt tất cả như lai ứng chánh đẳng giác mà học. Vì sao? Kiều Thi-ca Vì nhiệt thọ, hoại diệt đều không thể phân hai. Bây giờ, xá lợi tử hỏi thiện hiện. Khi các Đại Bồ-Tát học như vậy, sao lại không vì nhiệt thọ sắc mà học, cũng không vì hoại diệt sắc mà học, cho đến không vì nhiệt thọ tất cả như lai ứng chánh đẳng giác mà học, cũng không vì hoại diệt tất cả như lai ứng chánh đẳng giác mà học? Thiện hiện đáp. Đúng vậy. Đúng vậy. Xá lợi tử. Khi các Đại Bồ-Tát học như vậy, không vì nhiệt thọ sắc mà học, không vì hoại diệt sắc mà học, cho đến không vì nhiệt thọ tất cả như lai ứng chánh đẳng giác mà học, cũng không vì hoại diệt tất cả như lai ứng chánh đẳng giác mà học. Xá lợi tử hỏi thiện hiện. Do nhân duyên gì mà các Đại Bồ-Tát khi học như vậy, không vì nhiệt thọ sắc mà học, cũng không vì hoại diệt sắc mà học, cho đến không vì nhiệt thọ tất cả như lai ứng chánh đẳng giác mà học, cũng không vì hoại diệt tất cả như lai ứng chánh đẳng giác mà học. Thiện hiện đáp. Khi các Đại Bồ-Tát học như vậy, không thấy có sắc có thể nhiệt thọ và có thể hoại diệt, cũng không thấy người có thể nhiệt thọ và hoại diệt, cho đến không thấy có tất cả như lai ứng chánh đẳng giác có thể nhiệt thọ và có thể hoại diệt, cũng không thấy người có thể nhiệt thọ tất cả như lai ứng chánh đẳng giác và có thể hoại diệt. Vì sao? Xá lợi tử. Vì pháp của sắc V, V, hoặc năng, hoặc sở, nội, ngoại đều không, bất khả đắc. Xá lợi tử. Nếu Đại Bồ-Tát nào không thấy các pháp là có thể nhiệt thọ và có thể hoại diệt, cũng lại không thấy người có thể nhiệt thọ và hoại diệt, mà học bác nhã Palamuddha thì Đại Bồ-Tát này mau trống thành tự trí nhất thiết trí. Xá lợi tử hỏi thiện hiện. Các Đại Bồ-Tát khi học bác nhã Palamuddha như thế mau trống thành tự trí nhất thiết trí ư? Thiện hiện đáp. Xá lợi tử. Các Đại Bồ-Tát khi học bác nhã Palamuddha như thế thì mau trống thành tự trí nhất thiết trí. Vì sao? Xá lợi tử. Vì các Đại Bồ-Tát khi học như vậy thì đối với tất cả pháp, không vì nhiệt thọ, không vì hoại diệt mà chỉ vì phương tiện. Xá lợi tử hỏi. Nếu Đại Bồ-Tát khi học như vậy thì đối với tất cả pháp, không vì nhiệt thọ, không vì hoại diệt, chỉ vì phương tiện thì làm sao có thể thành tự trí nhất thiết trí? Thiện hiện đáp. Đại Bồ-Tát này hành bác nhã Palamuddha sâu xa, không thấy sắc cho đến thức là sanh, diệt, thủ, xả, nhiễm, tịnh, hợp, tan, tăng và giảm, cho đến không thấy tất cả như lai ứng chánh đẳng giác là sanh, diệt, thủ, xả, nhiễm, tịnh, hợp, tan, tăng và giảm. Vì sao? Vì sắc cho đến tất cả như lai ứng chánh đẳng giác không tự tánh, hoàn toàn bất khả đắc. Như vậy, xá lợi tử. Các Đại Bồ-Tát hành bác nhã Palamuddha sâu xa, đối với tất cả pháp đều không thấy sanh, diệt cho đến tăng, giảm. Vì lấy điều không học, không thành tựu mà làm phương tiện để tu học bác nhã Palamuddha thì có thể thành tựu trí nhất thiết trí. Bây giờ, trời ấy thích hỏi xá lợi tử. Bạch Đại Đức Các Đại Bồ-Tát nếu muốn học bác nhã Palamuddha nên cầu ở đâu? Xá lợi tử đáp. Kiều Thi Ca Các Đại Bồ-Tát nếu muốn học bác nhã Palamuddha nên cầu học ở Phẩm Thiện Hiện đã nói ở trước. Trời ấy thích hỏi Thiện Hiện. Có phải nhờ thần lực của tôn giả làm chỗ nương tựa, hồ trì, khiến cho xá lợi tử nói như vậy không? Thiện Hiện đáp. Kiều Thi Ca Không phải nhờ thần lực của tôi làm chỗ nương tựa, hồ trì, khiến cho xá lợi tử nói như vậy đâu. Trời ấy thích lại hỏi. Vậy nhờ thần lực của ai làm chỗ nương tựa, hồ trì, khiến cho xá lợi tử nói như vậy? Thiện Hiện đáp. Chính nhờ thần lực của Phật làm chỗ nương tựa, hồ trì, khiến cho xá lợi tử nói như vậy. Trời ấy thích nói. Tất cả Pháp đều không chỗ nương tựa, hồ trì, như vậy làm sao nói là nhờ thần lực của Phật làm chỗ nương tựa, hồ trì, khiến cho xá lợi tử nói như vậy? Thiện Hiện bảo. Đúng vậy. Đúng vậy. Đúng như lời Ngài nói. Tất cả Pháp không chỗ nương tựa, hồ trì, cho nên như lài chẳng có thể nương tựa, hồ trì, chẳng làm chỗ nương tựa, hồ trì. Chỉ vì thuận theo Pháp Thế Giang nên nói làm chỗ nương tựa, hồ trì. Kiều Thi Ca. Tức không nương tựa, hồ trì, như lài bất khả đắc. Viễn Ly không nương tựa, hồ trì, như lài bất khả đắc. Không nương tựa, hồ trì, trong chân như như lài bất khả đắc. Trong như lài, không nương tựa, hồ trì, chân như bất khả đắc. Không nương tựa, hồ trì, trong Pháp tánh như lài bất khả đắc. Trong như lài, không nương tựa, hồ trì, Pháp tánh bất khả đắc. Kiều Thi Ca. Tức như lài và sát bất khả đắc. Viễn Ly như lài và sát bất khả đắc. Trong sát, chân như và như lài bất khả đắc. Trong như lài, chân như và sát bất khả đắc. Trong sát và Pháp tánh, như lài bất khả đắc. Trong như lài, sát và Pháp tánh bất khả đắc. Như vậy cho đến như lài cùng với trí nhất thiết tướng bất khả đắc. Viễn Ly trí nhất thiết tướng, như lài bất khả đắc. Trong trí nhất thiết tướng và chân như, như lài bất khả đắc. Trong như lài, trí nhất thiết tướng và chân như bất khả đắc. Trong Pháp tánh và trí nhất thiết tướng, như lài bất khả đắc. Trong như lài, Pháp tánh và trí nhất thiết tướng bất khả đắc. Vì sao? Kiều Thy Ca Vì như lài cùng với sát chẳng hợp, chẳng tan. Như lài cùng với viễn ly sát chẳng hợp, chẳng tan. Như lài cùng với sát, chân như chẳng hợp, chẳng tan. Như lài cùng với viễn ly sát, chân như chẳng hợp, chẳng tan. Như lài cùng với sát, Pháp tánh chẳng hợp, chẳng tan. Như lài cùng với viễn ly sát, Pháp tánh chẳng hợp, chẳng tan. Như vậy cho đến như lài cùng với trí nhất thiết tướng chẳng hợp, chẳng tan. Như lài cùng với viễn ly trí nhất thiết tướng chẳng hợp, chẳng tan. Như lài cùng với trí nhất thiết tướng, chân như chẳng hợp, chẳng tan. Như lài cùng với viễn ly trí nhất thiết tướng, chân như chẳng hợp, chẳng tan. Như lài cùng với trí nhất thiết tướng, Pháp tánh chẳng hợp, chẳng tan. Như lài cùng với viễn ly trí nhất thiết tướng, Pháp tánh chẳng hợp, chẳng tan. Kiều Thi Ca Tôn giả xá lợi tử đã nói những lời kia là đối với tất cả Pháp chẳng gần, chẳng xa, chẳng hợp, chẳng tan. Nhờ thần lực của Như lài mà làm chỗ nương tựa, hậu trì, dùng không nương tựa, hậu trì làm chỗ nương tựa, hậu trì. Lại nữa, Kiều Thi Ca Lúc trước Ngài hỏi các Đại Bồ Tát học bác nhã Ba-la-mật-đa nên cậu ở đâu? Kiều Thi Ca Việc học bác nhã Ba-la-mật-đa của các Đại Bồ Tát là không nên cậu sắc, không nên cậu xa lịa sắc. Như vậy cho đến không nên cậu trí nhất thiết tướng, không nên cậu xa lịa trí nhất thiết tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca Vì hoặc sắc, hoặc lịa sắc, cho đến hoặc trí nhất thiết tướng, hoặc lịa trí nhất thiết tướng, hoặc bác nhã Ba-la-mật-đa, hoặc Đại Bồ Tát, hoặc cậu tất cả Pháp chẳng hợp, chẳng tan như thế, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng gọi là vô tướng. Vì sao? Vì việc học bác nhã Ba-la-mật-đa của các Đại Bồ Tát là chẳng phải sắc, chẳng phải xa lịa sắc. Cho đến chẳng phải trí nhất thiết tướng, chẳng phải xa lịa trí nhất thiết tướng. Chẳng phải sắc, chẳng như, chẳng phải xa lịa sắc, chẳng như. Cho đến chẳng phải trí nhất thiết tướng, chẳng như, chẳng phải xa lịa trí nhất thiết tướng, chẳng như. Chẳng phải sắc, Pháp tánh, chẳng phải xa lịa sắc, Pháp tánh. Cho đến chẳng phải trí nhất thiết tướng, Pháp tánh, chẳng phải xa lịa trí nhất thiết tướng, Pháp tánh. Vì sao? Kiều Thi Ca Vì tất cả Pháp như thế đều vô sở hữu, bất xả đắc. Do vô sở hữu, bất xả đắc cho nên việc học Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát là chẳng phải sắc, chẳng phải xa lịa sắc. Cho đến chẳng phải trí nhất thiết tướng, chẳng phải xa lịa trí nhất thiết tướng. Chẳng phải sắc, chẳng như, chẳng phải xa lịa sắc, chẳng như. Cho đến chẳng phải trí nhất thiết tướng, chẳng như, chẳng phải xa lịa trí nhất thiết tướng, chẳng như. Chẳng phải sắc, pháp tánh, chẳng phải xa lịa sắc, pháp tánh. Cho đến chẳng phải trí nhất thiết tướng, pháp tánh, chẳng phải xa lịa trí nhất thiết tướng, pháp tánh. Khi ấy, Trời Ê Thích Thư Tôn Giả Thiện Hiện Việc học Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát là đại Ba-La-Mật-Đa, là vô lượng Ba-La-Mật-Đa, là vô biên Ba-La-Mật-Đa. Các vị dự lưu sẽ đắc quả dự lưu trong việc học này. Các vị nhất lai sẽ đắc quả nhất lai trong việc học này. Các vị bất hoàng sẽ đắc quả bất hoàng trong việc học này. Các vị A-La-Hán sẽ đắc quả A-La-Hán trong việc học này. Các vị độc giác sẽ đắc quả độc giác Bồ-Đề trong việc học này. Các đại Bồ-Tát có thể giáo hóa hữu tình và trang nghiêm thanh tình cõi Phật, chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-Đề trong việc học này. Thiện Hiện nói Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời Ngài nói. Vì sao? Kiều Thi Ca Vì sắc rộng lớn nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát cũng rộng lớn. Cho đến trí nhất thiết tướng rộng lớn nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát cũng rộng lớn. Vì sao? Vì giai đoạn trước, sau, giữa của sắc cho đến trí nhất thiết tướng đều bất khả đắc, nên gọi là rộng lớn. Do sự rộng lớn kia nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát cũng là rộng lớn. Kiều Thi Ca Sắc vô lượng nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát cũng vô lượng. Cho đến trí nhất thiết tướng vô lượng nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng sắc cho đến trí nhất thiết tướng không thể đắc. Giống như lượng của hư không cũng bất khả đắc. Sắc V, V, cũng vậy, nên nói vô lượng. Kiều Thi Ca Hư không vô lượng nên sắc V, V, cũng vô lượng. Sắc V, V, vô lượng nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát cũng vô lượng. Kiều Thi Ca Sắc vô biên nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát cũng vô biên. Cho đến trí nhất thiết tướng vô biên nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát cũng vô biên. Vì sao? Vì sắc cho đến trí nhất thiết tướng ở trong hay ngoài đều bất khả đắc. Giống như hư không ở trong hay ngoài đều bất khả đắc. Sắc V, V, cũng vậy, nên nói vô biên. Kiều Thi Ca Hư không vô biên nên sắc V, V, cũng vô biên. Sắc V, V, vô biên cho nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát cũng vô biên. Lại nữa, Kiều Thi Ca Sở duyên vô biên nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát cũng vô biên. Trời ế thích hỏi Vì sao sở duyên vô biên nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát cũng vô biên? Thiện hiện đắc Sở duyên của trí nhất thiết trí vô biên nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát cũng vô biên. Lại nữa, Kiều Thi Ca Sở duyên của pháp giới vô biên nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát cũng vô biên. Trời ế thích hỏi Vì sao sở duyên của pháp giới vô biên nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát cũng vô biên? Thiện hiện đắc Pháp giới vô biên nên sở duyên cũng vô biên. Sở duyên vô biên nên pháp giới cũng vô biên. Pháp giới, sở duyên vô biên nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát cũng vô biên. Lại nữa, Kiều Thi Ca Chân như, sở duyên vô biên nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát cũng vô biên. Trời ế thích hỏi Vì sao chân như, sở duyên vô biên nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát cũng vô biên? Thiện hiện đắc Chân như vô biên nên sở duyên cũng vô biên. Sở duyên vô biên nên chân như cũng vô biên. Chân như, sở duyên vô biên nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát cũng vô biên. Lại nữa, Kiều Thi Ca Hữu tình vô biên nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát cũng vô biên. Trời ế thích hỏi Vì sao hữu tình vô biên nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các đại Bồ-Tát cũng vô biên? Thiện hiện đắc Ý ngài thế nào? Nói hữu tình, vậy hữu tình ấy là chỉ cho ý niệm của Pháp nào? Trời ế thích thưa Bạch Đại Đức Hữu tình, hữu tình ấy chẳng phải là khái niệm của Pháp, cũng chẳng phải là khái niệm của phi Pháp. Chỉ là giả lập khách danh, thuộc về tên gọi tạm thời, thuộc về tên gọi không thật, thuộc về tên gọi không có nhân duyên. Thiện hiện lại hỏi Vậy, theo ý ngài, trong kinh bác bác nhã Ba-La-Mật-Đa sâu xa này là hiện thị thật có hữu tình không? Trời ế thích thưa Bạch Đại Đức Không có Thiện hiện hỏi Trong kinh bác nhã Ba-La-Mật-Đa sâu xa này đã không hiện thị thật có hữu tình nên nói vô biên. Vì ở trong hay ngoài, nó đều bất khả đắc. Kiều Thi Ca Ý ngài thế nào? Như lại ứng chánh đẳng giác trải qua hàng hà sa số kiếp đã nói danh tự của các hữu tình. Trong đây có hữu tình, có sanh, có diệt không? Trời ế thích thưa Bạch Đại Đức Không có Vì sao? Vì bản tánh các hữu tình vốn thanh tịnh. Từ xưa đến nay vô sở hữu. Thiện hiện bảo Do điều này nên tôi nói hữu tình vô biên, cho nên việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các Đại Bồ-Tát cũng vô biên. Kiều Thi Ca Do nhân duyên này nên biết, việc học bác nhã Ba-La-Mật-Đa của các Đại Bồ-Tát phải nói là trức to lớn, vô lượng, vô biên. V. Phẩm hiện bảo tháp không một Bây giờ, trong hội chúng, Trời ế thích V, V, và Chiêu Thiên ở cõi dục, Phạm Thiên Vương V, V, và Chiêu Thiên ở cõi sắc, cùng với Thiên Nữ, Thần Isana động lúc ba lần cất cao tiếng sướng. Lành Thay Đại Đức thiện hiện thừa hành thần lực của Phật, làm chỗ nương tựa, hộ trì, khéo léo vì chúng tôi, thế gian, trời, người mà phân biệt, khai thị pháp tánh vi diệu, gọi là bác nhã Ba-La-Mật-Đa. Nếu Đại Bồ-Tát nào đối với bác nhã Ba-La-Mật-Đa sâu xa như lời dạy mà tu hành, không bao giờ xa lịa thì chúng con sẽ cung kính, cúng dương, tôn trọng, ngợi khen người đó giống như đối với như lai ứng chắn đẳng giác. Trong lời dạy sâu xa của bác nhã Ba-La-Mật-Đa như vậy, thật là không có pháp có thể đắc, nghĩa là trong ấy không có sát có thể đắc, không có thọ, tưởng, hành, thức có thể đắc. Như vậy cho đến không có trí nhất thiết có thể đắc, cũng không có trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể đắc. Tuy không có các pháp có thể đắc như thế nhưng có thể trình bậy thánh giáo ba thừa, đó là thánh giáo của thanh văn, độc giác và vô thượng thừa. Bây giờ, Phật bảo Chiêu Thiên Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời các vị nói. Trong giáo pháp sâu xa của bác nhã Ba-La-Mật-Đa này, tuy các pháp không sát v.v. có thể đắc, nhưng có thể trình bậy thánh giáo ba thừa. Vậy, nếu Đại Bộ Tát nào đối với bác nhã Ba-La-Mật-Đa này mà dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì có thể như lời dạy tu hành không bao giờ xa liệt. Các vị Chiêu Thiên v.v. đều phải đến đó thành tâm cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, giống như như lai ứng chánh đẳng giác. Vì sao? Vì trong giáo pháp sâu xa của bác nhã Ba-La-Mật-Đa này, tuy rộng nói có thánh giáo ba thừa, nhưng như lai hoàn toàn bất khả đắc. Chẳng phải như lai cùng với bố thí cho đến bác nhã Ba-La-Mật-Đa có thể đắc. Chẳng phải như lai xa liệt bố thí cho đến bác nhã Ba-La-Mật-Đa có thể đắc. Chẳng phải như lai cùng với pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không có thể đắc. Chẳng phải như lai xa liệt pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không có thể đắc. Chẳng phải như lai cùng với chân như cho đến cảnh giới bất tương nghị có thể đắc. Chẳng phải như lai xa liệt chân như cho đến cảnh giới bất tương nghị có thể đắc. Chẳng phải như lai cùng với cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi có thể đắc. Chẳng phải như lai xa liệt cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi có thể đắc. Chẳng phải như lai cùng với thánh đế khổ, tập, diệt, đạo có thể đắc. Chẳng phải như lai xa liệt thánh đế khổ, tập, diệt, đạo có thể đắc. Chẳng phải như lai cùng với bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo có thể đắc. Chẳng phải như lai xa liệt bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo có thể đắc. Chẳng phải như lai cùng với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể đắc. Chẳng phải như lai xa liệt bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể đắc. Chẳng phải như lai cùng với tám giải thoát, chính định thứ đệ có thể đắc. Chẳng phải như lai xa liệt tám giải thoát, chính định thứ đệ có thể đắc. Chẳng phải như lai cùng với pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện có thể đắc. Chẳng phải như lai xa liệt pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện có thể đắc. Chẳng phải như lai cùng với cực khỉ địa cho đến pháp vân địa có thể đắc. Chẳng phải như lai xa liệt cực khỉ địa cho đến pháp vân địa có thể đắc. Chẳng phải như lai cùng với năm loại mắt, sáu phép thần thông có thể đắc. Chẳng phải như lai xa liệt năm loại mắt, sáu phép thần thông có thể đắc. Chẳng phải như lai cùng với mười lực như lai, cho đến mười tám pháp phật bất cộng có thể đắc. Chẳng phải như lai xa liệt mười lực như lai, cho đến mười tám pháp phật bất cộng có thể đắc. Chẳng phải như lai cùng với pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã có thể đắc. Chẳng phải như lai xa liệt pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã có thể đắc. Chẳng phải như lai cùng với tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa có thể đắc. Chẳng phải như lai xa liệt tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa có thể đắc. Chẳng phải như lai cùng với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể đắc. Chẳng phải như lai xa liệt trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể đắc. Chiêu thiên nên biết, nếu Đại Bồ-Tát nào đối với tất cả pháp dùng vô sở đắc làm phương tiện, nhiệt tâm tinh cận tu học bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến trí nhất thiết tướng, thì Đại Bồ-Tát này đối với bác nhã Ba-la-mật-đa có thể luôn luôn tu hành, không bao giờ xả bỏ. Vì vậy, các vị phải nên đến đó thành tâm cung chính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen Đại Bồ-Tát ấy giống như như lai ứng chánh đẳng giác. Chiêu thiên nên biết, vào thời xa xưa, khi Nhiên Đăng như lai ứng chánh đẳng giác xuất hiện ở đây, lúc đó ta ở ngã tư đường, tại kinh đô Liên Hoa Vương, thấy Phật Nhiên Đăng, liền cầm năm cành hoa sen cúng dường ngại và trải tóc lấp bùng để cầu nghe chánh pháp cốt yếu. Ta dùng vô sở đáp làm phương tiện nên không xa lịa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã Ba-la-mật-đa, cho đến trí nhất thiết tướng và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác. Khi ấy, Phật Nhiên Đăng liền thọ ký quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề cho ta, ngài dạy, thiện nam tử. Ở đời vị lai, trải qua vô số kiếp, trong hiền kiếp của thế giới này, con sẽ thành Phật hiểu thích ca-mâu-ni như lai, ứng chánh đẳng giác, minh hạnh viên mãn, thiện thệ, thế gian giải, vô thường trượng phu, điền ngữ sĩ, thiên nhân sư, Phật bạc gia phạm và tuyên thuyết bác nhã Ba-la-mật-đa, đổ thoát vô lượng chúng sanh. Lúc ấy, Chiêu Thiên đều bạch Phật. Bạch Thế Tôn Bác nhã Ba-la-mật-đa như thế thật là hy hữu, làm cho chúng đại Bồ Tát mau chống nhất thọ trí nhất thiết trí. Vì dùng vô sở đắc làm phương tiện, nền đối với sát cho đến thức không giữ, không xả. Như vậy cho đến, đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không giữ, không xả. Lúc bấy giờ, Đức Phật quan sát thấy bốn chúng hòa hợp, và chúng đại Bồ Tát, chúng trời tứ đại thiên vương, lần lượt cho đến Chiêu Thiên trời sát cứu cánh đều đến tập hợp trong hội chúng, đồng làm chứng minh. Thế Tôn liền giao phó cho trời ế thích. Chiêu Thi Ca Nếu đại Bồ Tát, Bí Sô, Bí Sô Ni, Ổ Ba Sát Ca, Ổ Ba Tư Ca, các thiên tử, các thiên nữ, thiện nam, thiện nữ v.v. không xa lìa tâm trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với bác nhã Ba La Mật Đa sâu xa, thọ trí, độc tụng, tinh cẩn tu học, suy nghĩ đúng lý, vì người khác mà tuyên thuyết rộng đải thì nên biết đối với những vị này, tất cả ác ma và quyến thủ của chúng không thể hại được. Vì sao? Chiêu Thi Ca Vì các thiện nam, thiện nữ v.v. này khéo an trụ nơi không, vô tướng, vô nguyện của sát, cho đến khéo an trụ nơi không, vô tướng, vô nguyện của trí nhất thiết tướng. Không thể dùng không mà hại được không, không thể dùng vô tướng mà hại được vô tướng, không thể dùng vô nguyện mà hại được vô nguyện. Vì sao? Vì các pháp như vậy hoàn toàn không tự tánh. Hoặc người hại, hoặc người bị hại, hoặc thời gian, hoặc nơi trốn, hoặc việc não hại đều bất khả đắc. Lại nữa, Chiêu Thi Ca Các thiện nam, thiện nữ v.v. người chẳng phải người, nhân phi nhân, v.v. đều không thể hại được. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ v.v. này biết dùng vô sở đắc làm phương tiện, vì các hữu tình thường tu tập từ, bi, khỉ, xã, nên tất cả người chẳng phải người không thể làm não hại được. Lại nữa, Chiêu Thi Ca Các thiện nam, thiện nữ v.v. này hoàn toàn không bị các việc hiểm ác ngang trái làm tổn thương, cũng không bị chết quan. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ v.v. này thường tu tập bố thí Palamata đối với các hữu tình đúng lý giúp đỡ, giáo dưỡng vậy. Lại nữa, Chiêu Thi Ca Trong ba ngàn đại thiên thế giới, nơi có tứ đại thiên vương, cho đến trời quảng quả, vị nào đã phát tâm quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, đối với bác nhã Palamata sâu xa mà chưa từng được lắng nghe, thọ trị, đọc tụng, tinh trần tu học, suy nghĩ đúng lý, đều phải không xa liệt tâm trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với bác nhã Palamata sâu xa phải trí tâm lắng nghe, thọ trị, đọc tụng, tinh trần tu học, suy nghĩ đúng lý. Lại nữa, Chiêu Thi Ca Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v. nào không xa liệt tâm trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với bác nhã Palamata sâu xa trí tâm lắng nghe, thọ trị, đọc tụng, tinh trần tu học, suy nghĩ đúng lý, thì các thiện nam, thiện nữ v.v. này như ở nhà trống, hoặc ở nơi hoang dã, ở đường nguy hiểm và ở chỗ nguy nạn, sẽ không sợ hãi đến nỗi rợn tóc kế. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ v.v. này không xa liệt tâm trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu tập pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không? Khi ấy, chúng trời tứ đại thiên vương cho đến trời sát cứu cánh v.v. ở ba ngàn đại thiên thế giới đều chấp tay bạch Phật. Bạch Thế Tôn Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v. nào không xa liệt tâm trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, thường đối với bác nhã ba la mật đa sâu xa trí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh trần tu học, suy nghĩ đúng lý, viết chét, giảng giải, tuyên thuyết, lưu truyền cùng khắp, thì chúng con thường theo cung chính hộ trì, không để cho tất cả tai hỏa não hại. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ v.v. này tức là Đại Bồ Tát. Nhờ Đại Bồ Tát này khiến các hữu tình giấc hẳn các đường hiểm ác, địa ngục, bàn xanh, ngạ quỷ, Atula v.v. Nhờ Đại Bồ Tát này khiến chiêu thiên, người, dược xoa, rồng v.v. giấc hẳn tất cả tai nạn ngang trái, bệnh tật, nghèo cùng, đói khát, lạnh nóng v.v. Nhờ Đại Bồ Tát này mà chiêu thiên, người, Atula v.v. đoạn tận các việc bất như ý, cư trú ở đâu cũng không có giặc giả, và tất cả hữu tình đều đem lòng từ đối xử với nhau. Nhờ Đại Bồ Tát này nên thế gian có mười thiện nhiệt đạo, hoặc bốn tỉnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoặc Bố Thí-Ba-La-Mật-Đa cho đến Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa, hoặc Pháp-Nội không cho đến Pháp-Vô-Tính-Tự-Tính-Không, hoặc Chân-Như cho đến Cảnh-Giới-Bất-Tương-Nghì, hoặc Cảnh-Giới-Đoạn cho đến Cảnh-Giới-Vô-Vi, hoặc Thánh-Đế-Khổ-Tập-Diệt-Đạo, hoặc Bốn-Niệm-Trụ cho đến Tám-Chi-Thánh-Đạo, hoặc Tám-Giải-Thoát-Chính-Định-Thứ-Đệ, hoặc Pháp-Môn-Giải-Thoát-Không-Vô-Tướng-Vô-Nguyện, hoặc Tịnh-Quán-Địa cho đến Như-Lai-Địa, hoặc Cực-Khỉ-Địa cho đến Pháp-Vân-Địa, hoặc Năm-Loại-Mắt-Sáu-Phép-Thần-Thông, hoặc Mười-Lực-Như-Lai cho đến Mười-Tám-Pháp-Phật-Bất-Cộng, hoặc Pháp-Không-Quên-Mất-Tánh-Luôn-Luôn-Xã, hoặc tất cả Pháp-Môn-Đà-La-Ni, Pháp-Môn-Tam-Ma-Địa, hoặc Trí-Nhất-Th Nhờ Đại-Bồ-Tát này nên thế gian mới có Đại-Tộc-Xác-Đế-Lợi, Đại-Tộc-Bà-La-Môn, Đại-Tộc-Trưởng-Giả, Đại-Tộc-Cứu-Sĩ, Vua-Các-Nước-Nhỏ, Chuyển-luân-Thánh-Vương và các quan-thần giúp việc Nhờ Đại-Bồ-Tát này nên thế gian mới có Trời-Tứ-Đại-Thiên-Vương, cho đến Trời-Tha-Hóa-Tự-Tại, Trời-Phạm-Chúng, Trời-Xác-Cứu-Cánh, Trời-Không-Vô-Biên-Xứ, Trời-Phi-Tưởng-Phi-Phi-Tưởng-Xứ Nhờ Đại-Bồ-Tát này nên thế gian mới có Dự-Lưu-Hướng, Dự-Lưu-Quả, Nhất-Lai-Hướng, Nhất-Lai-Quả, Bất-Hoàn-Hướng, Bất-Hoàn-Quả, A-La-Hán-Hướng, A-La-Hán-Quả, Độc-Giác-Hướng, Độc-Giác-Quả. Nhờ Đại-Bồ-Tát này nên thế gian mới có các Đại-Bồ-Tát thanh thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật và tu tập các hành Bồ-Tát thu thắng. Nhờ Đại-Bồ-Tát này nên thế gian mới có như Lai-Ứng-Chánh-Đẳng-Giác-Chứng-Đắc-Quả-Vị-Vô-Thượng-Chánh-Đẳng-Bồ-Đệ, Chuyển-Pháp-Luân-Vị-Diệu, Cứu-Độ-Chúng-Sanh-Vô-Lượng. Nhờ Đại-Bồ-Tát này nên thế gian mới có ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. Bạch-Thế-Tôn Do nhân duyên này nên chúng con, trời, Atula, Rồng, Dược-Xoa có đại thế lực và người chẳng phải người V.V. luôn luôn theo hậu trì, khung kính các Đại-Bồ-Tát này, không để cho tất cả tai họa ngang trái tổn hại. Vì các vị ấy đối với bác nhã Ba-La-Mật-Đa lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tu tập, suy nghĩ đúng lý, viết chết V.V. các việc đó không bao giờ gián đoạn. Bây giờ, Phật bảo các vị trời Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời các vị nói. Nếu các thiện nam, thiện nữ V.V. nào không xa lìa tâm trí nhất thiết trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, thường xuyên ở trong bác nhã Ba-La-Mật-Đa sâu xa này mà trí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh trần tu học, suy nghĩ đúng lý, viết chết, giảng giải, tuyên thuyết, lưu truyền cùng khắp. Các vị nên biết các thiện nam, thiện nữ V.V. này tức là Đại Bồ-Tát. Nhờ Đại Bồ-Tát này nên khiến các hữu tình dứt khẳng đường ác, cho đến tam bảo xuất hiện trên thế gian cùng với các hữu tình làm lợi ích lớn. Vì vậy các vị trời, rồng, thần có đại thế lực và người chẳng phải người V.V. thường cung kính, cúng dường, tôn trọng, nợi khen, suy năng hậu trì Đại Bồ-Tát này, ngăn chặn tất cả tai hoạ ngang trái não hải. Nếu các vị cung kính, cúng dường, tôn trọng, nợi khen, hậu trì Đại Bồ-Tát như vậy, thì nên biết đó là cung kính, cúng dường, tôn trọng, nợi khen, hậu trì ta và tất cả mười phương như lai ứng chánh đẳng giác. Vì vậy các vị tất cả trời, rồng, dược soa, thần, tiên, Atula V.V. thường nên theo Đại Bồ-Tát này để cung kính, cúng dường, tôn trọng, nợi khen, hậu trì, đừng để tất cả tai hoạ ngang trái não hải vị ấy. Các vị nên biết, giả sử thanh văn, độc giác cùng khắp ba ngàn đại thiên thế giới, ví như luống, mè, tre, lau, lùm trừng V.V. không có một khoảng trống nào, rồi có thiện nam tử, thiện người nữ V.V. đối với bậc phước điền kia mà dùng vô lượng vật báu đẹp thượng diệu để cung kính, cúng dường, tôn trọng, nợi khen hết một đời mình. Lại có người ở trong khoảnh khắc cung kính, cúng dường, tôn trọng, nợi khen một Đại Bồ-Tát mới phát tầm không xa liệu sáu Pháp-Ba-la-mật-đa, đền công đức trên so sánh với phước đức này thì không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, cho đến không bằng một phần cực nhỏ. Vì sao? Vì không nhờ thanh văn, độc giác thừa mà có Đại Bồ-Tát, chứ như lai ứng chánh đẳng giác xuất hiện ở thế gian. Chỉ nhờ Đại Bồ-Tát mới có thanh văn, độc giác và chứ như lai ứng chánh đẳng giác xuất hiện ở thế gian. Vì vậy các vị trời, đồng có thế lực lớn và người chẳng phải người V. V thường nên ủng hộ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, nợi khen Đại Bồ-Tát này, đừng để tất cả tai hoạ ngang trái não hại vị ấy. Các vị, do việc làm này mà Phước Đức luôn luôn được an lạc ở trong trời, người, cho đến chính Đắc Niết Bàn Cứu Cánh, làm lợi ích lớn mãi đến tận đời vị lai. Bây giờ, trời ế thích lại Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Thật là điều kỳ lạ, khiếm có. Các Đại Bồ-Tát đối với Bát Nhã Ba-la-mật-đa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, viết chép, giảng giải, tuyên thuyết, lưu truyền cùng khắp, giữ gìn, thể hiện sự lợi ích thù thắng của các Pháp này, giáo hóa hữu tình, trang nghiêm thanh tình cõi Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, đều thân trận phụng sự, cúng dường chiêu Phật Thế Tôn. Đối với các thiện căng thù thắng tùy theo đó mà hân hoan, an lạc. Nhờ cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen chiêu Phật, liền được sanh trưởng ở chỗ chiêu Phật, mau chống lãnh thọ chánh Pháp, được thành tựu viên mãng, cho đến khi chính quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đệ, không bao giờ quên mất chánh Pháp đã được nghe và giữ gìn. Vì vậy, dòng họ được viên mãng, thân mẫu được viên mãng, thân phụ được viên mãng, quyến thuộc viên mãng, tướng hảo viên mãng, ánh sáng viên mãng, mắt tai viên mãng, âm thanh viên mãng, Đà-La-Ni viên mãng, Ta-Ma-Địa viên mãng. Lại đem sức phương tiện thiện xảo nên biến thân như Phật. Lại dùng năng lực, từ thế giới không có Phật này đến thế giới không có Phật khác, phương tiện thiện xảo nên hóa ra thân Phật. Thuyết giảng, khen nợi về bố thí cho đến bát ngã Ba-La-Mật-đa. Thuyết giảng, khen nợi về Pháp nội không cho đến Pháp vô tính tự tính không. Thuyết giảng, khen nợi về chân như cho đến cảnh giới bất tương nghi. Thuyết giảng, khen nợi về cảnh giới đoạn cho đến cảnh giới vô vi. Thuyết giảng, khen nợi về thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Thuyết giảng, khen nợi về bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Thuyết giảng, khen nợi về bốn tình lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Thuyết giảng, khen nợi về tám giải thoát, chính định thứ đệ. Thuyết giảng, khen nợi về Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Thuyết giảng, khen nợi về tình quán địa cho đến như lai địa. Thuyết giảng, khen nợi về cực khỉ địa cho đến Pháp vân địa. Thuyết giảng, khen nợi về năm loại mắt, sáu phép thần thông. Thuyết giảng, khen nợi về mười lực như lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Thuyết giảng, khen nợi về Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Thuyết giảng, khen nợi về tất cả Pháp môn Đà La Ni, Pháp môn Tam Ma Địa. Thuyết giảng, khen nợi về trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Thuyết giảng, khen nợi về Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Lại dùng năng lực thiền xảo, vì các hữu tình tuyên thuyết chánh Pháp, tùy theo căn cơ mà giáo hóa họ trong giáo Pháp ba thừa, khiến họ giải thoát hạng sanh, lão, bệnh, tử, chứng nhập vào cảnh giới vô dư y niết bàn. Hoặc lại cứu vớt các khổ ở đường ác, để họ hưởng thọ sự an lạc, vi diệu ở trong cõi trời, người. Khi ấy, trời ấy thích bạch Phật. Bạch Thế Tôn Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa như thế thật là hy hữu. Nếu ai có thể giữ gìn Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa như thế, thì là giữ gìn đầy đủ sáu Pháp Ba-La-Mật-Đa cho đến trí nhất thiết tướng. Cũng giữ gìn đầy đủ quả dự lưu, nhất lai, bất hoàng, à-la-hán, độc giác Bồ-đệ, và tất cả đại Bồ-Tát hành quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đệ của chư Phật. Đức Thế Tôn bảo trời ấy thích. Đúng vậy. Đúng vậy. Đúng như lời ông nói. Nếu có ai có thể giữ gìn Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa như thế, thì giữ gìn đầy đủ sáu Pháp Ba-La-Mật-Đa, nói rộng cho đến tất cả đại Bồ-Tát hành quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đệ của chư Phật.

Listen Next

Other Creators