black friday sale

Big christmas sale

Premium Access 35% OFF

Home Page
cover of kinhdaibatnha (467)
kinhdaibatnha (467)

kinhdaibatnha (467)

Phuc Tien

0 followers

00:00-38:23

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech

Audio hosting, extended storage and much more

AI Mastering

Transcription

Kinh Đại Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa Tập 19 Quyển 467 LXXIV Phẩm Vô Tướng 02 Lại nửa thiện hiện. Lúc thực hành Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, các Đại Bồ-Tát có thể dùng tâm vô lậu, lì tướng thọ trì tịnh giới, nghĩa là thuộc về thánh đạo vô lậu đạt được tự nhiên, giới hoàn toàn thanh tịnh. Tịnh giới như vậy không khuyết, không trĩ chảy, không tì vết, không dơ bẩn, không chấp trước vật gì, đáng được nhận cúng dương, được người trí khen nợ. Nhờ tịnh giới đây không chấp thủ tất cả các pháp, nghĩa là không chấp thủ sát, thọ, tưởng, hành, thức, không chấp thủ nhãn sứ cho đến ý sướng, không chấp thủ sát sứ cho đến pháp sướng, không chấp thủ nhãn giới cho đến ý giới, không chấp thủ sát giới cho đến pháp giới, không chấp thủ nhãn thức giới cho đến ý thức giới, không chấp thủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của vật đại sĩ, không chấp thủ các dòng họ lớn như sát đế lợi, bà la môn, trưởng giả, cư sĩ, không chấp thủ trời tứ đại vương chúng. Cho đến trời tha hóa tự tại, không chấp thủ trời phạm chúng cho đến trời sát cứu cánh, không chấp thủ trời không vô biên sứ cho đến trời phi tưởng phi phi tưởng sứng, không chấp thủ quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề, không chấp thủ ngôi vị chuyển luân vương và các ngôi vị tiểu vương, tẩy quan khác, chỉ đem công đức của việc họ trì giới cho các hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hồi hướng quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Lúc hồi hướng vị ấy dùng vô tướng, vô sở đắc, không hai làm phương tiện, dùng pháp chẳng có tướng có sở đắc, có hai làm phương tiện, chỉ do thế tục, không do thắng nghĩa, nhờ nhân duyên này tất cả phật pháp đều được viên mãng. Nhờ phương tiện thiện xảo tịnh giới Ba-la-mật-đa này, Đại Bồ-Tát phát sanh bốn phần tịnh lựu thắng tấn, nhờ không đắm nhiễm làm phương tiện nên vị ấy phát sanh các thần thông. Đại Bồ-Tát này dùng thiên nhãn thanh tịnh từ thân dĩ thuộc thường thấy chư Phật hiện tại ở vô số thế giới khắp mười phương an ổn trụ trì, giảng nói chánh pháp cho các hữu tình cho đến khi chính đắc trí nhất thiết trí, vị ấy cũng không quên việc đã thấy. Đại Bồ-Tát này dùng thiên nhãn thanh tịnh vượt hơn người thường, nghe chư Phật ở vô số thế giới khắp mười phương thuyết pháp cho đến lúc chính đắc trí nhất thiết trí, vị ấy cũng không quên pháp đã được nghe và đem pháp đã nghe làm việc lợi ích cho mình và người không để ủng phí. Đại Bồ-Tát này dùng tha tâm trí có thể viết tâm và tâm sở pháp của chư Phật và các hữu tình ở khắp mười phương. Sau khi đã biết, vị ấy làm việc lợi ích cho tất cả hữu tình. Đại Bồ-Tát này dùng túc trụ trí, biết nghiệp mà các hữu tình đã tạo trước đây. Do nghiệp đã tạo không bị mất nên họ sanh nơi nào đều chịu các khổ vui. Biết rồi, vị ấy nói nhân duyên bổ nghiệp giúp họ nhớ lại và làm việc lợi ích. Đại Bồ-Tát này dùng lậu tận trí an lập hữu tình giúp họ trụ vào quả dự lưu, hoặc giúp trụ vào quả nhất lai, hoặc giúp trụ vào quả bất hoàng, hoặc giúp trụ vào quả A-la-hán, hoặc giúp trụ vào quả độc giác bồ đề, hoặc giúp trụ vào ngôi vị thu thắng của Bồ-Tát, hoặc giúp trụ vào trí nhất thiết trí. Tóm lại mà nói, Đại Bồ-Tát này dù sanh ở chỗ nào cũng tùy theo khả năng khác nhau của hữu tình mà tìm cách giúp họ trụ vào phẩm vị thu thắng. Thế nên thiện hiện, lúc thực hành bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nhờ năng lực vô lậu ly các tướng nên Đại Bồ-Tát này có thể ở trong pháp vô tướng vô tát làm viên mãn tỉnh giới Ba-la-mật-đa, cũng có thể viên mãn các công đức khác. Lại nữa thiện hiện, lúc thực hành bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, các Đại Bồ-Tát có thể dùng tâm vô lậu, ly tướng để tu an nhẫn. Trong thời gian từ lúc Đại Bồ-Tát ấy mới phát tâm cho đến lúc an tọa nơi tọa bồ đề ví diệu, giả sử tất cả hữu tình đều đem các loại giao gậy, ngói, gạch đua nhau đến làm hại thì Đại Bồ-Tát ấy không sanh một tâm niệm giận hờn. Khi ấy, Bồ-Tát nên tu hai loại nhẫn. Những gì là hai? Một là phải nhận tất cả sự mãi nhục, làm hại của hữu tình không sanh hờn giận và sân nhuế ngầm. Hai là phải phát sanh vô sanh pháp nhẫn. Nếu gặp đủ thứ lời ác mãi nhục, hoặc bị các loại giao gậy làm hại, Đại Bồ-Tát này nên suy xét kỹ, ai có thể mãi nhục, ai có thể làm hại, ai bị mãi nhục, ai bị làm hại, ai phát sanh hờn giận, ai phải chịu đựng. Lại phải suy xét kỹ tánh của tất cả pháp hoàn toàn không, pháp còn bất khả đắc huống là có pháp tánh, pháp tánh còn không huống là có hữu tình. Lúc quán như vậy hoặc người mãi nhục, hoặc người bị mãi nhục, hoặc người làm hại, hoặc người bị làm hại đều không sở hữu, cho đến bị các chặt thân thể thành nhiều phần tâm vị ấy cũng an nhẫn, hoàn toàn không có niệm khác. Vì ấy quan sát như thật đối với pháp tánh, lại có thể chứng đắc vô sanh pháp nhẫn. Vô sanh pháp nhẫn là gì? Nghĩa là làm cho tất cả phiền não không sanh, trí huệ vi diệu thường không gián đoạn, và quán các pháp hoàn toàn không sanh, vì vậy gọi là vô sanh pháp nhẫn. Sau khi Đại Bồ Tát này đã an trụ vào các Phật Pháp như vậy rồi, tất cả thần thông xuất thế của Bậc Thánh Đế, không đồng hạn với tất cả thanh văn, độc giác đều được viên mãn. Sau khi đã an trụ vào thần thông Thù Thắng như vậy rồi, vị ấy dùng thiên nhãn thanh tịnh thường thấy Chiêu Phật hiện tại ở vô số thế giới khắp mười phương đang an ổn trụ trị, giảng nói chánh pháp cho các hữu tinh. Cho đến lúc chứng đắc trí nhất thiết trí, cảnh giới Chiêu Phật hiện ra theo niệm đó thường không gián đoạn. Sau khi Đại Bồ Tát này đã an trụ vào các Phật Pháp như vậy rồi, tất cả thần thông xuất thế của Bậc Thánh Đế, không đồng hạn với tất cả thanh văn, độc giác đều được viên mãn. Sau khi đã an trụ vào thần thông Thù Thắng như vậy rồi, vị ấy dùng thiên nhãn thanh tịnh thường thấy Chiêu Phật hiện tại ở vô số thế giới khắp mười phương đang an ổn trụ trị, giảng nói chánh pháp cho các hữu tinh. Cho đến lúc chứng đắc trí nhất thiết trí, cảnh giới Chiêu Phật hiện ra theo niệm đó thường không gián đoạn. Vị ấy dùng thiên nhãn thanh tịnh thường nghe Chiêu Phật mười phương thuyết pháp. Nghe xong, vị ấy thọ trì không để quên mất và giảng nói đầy đủ cho các hữu tinh. Với tha tâm trí, vị ấy có thể đo lượng tâm và tâm sở pháp của Chiêu Phật Thế Tôn một cách đúng đắn, cũng có thể viết đúng tâm và tâm sở pháp của Bồ Tát, độc giác và các thanh văn, cũng có thể viết đúng tâm và tâm sở pháp của các loài hữu tinh khác. Tùy theo căn cơ của họ, vị ấy giảng nói chánh pháp giúp họ sanh thắng giải. Vị ấy dùng túc trụ trí để biết các loài căn lành khác nhau của các hữu tinh đã trồng vào đời trước. Biết rồi vị ấy tìm cách chỉ rõ, khuyến khích, tán thắng, vui mừng giúp họ đạt được an lạc lợi ích thu thắng. Tùy theo căn cơ của hữu tinh, vị ấy dùng lậu tận trí an lập họ vào pháp ba thừa, giúp họ được giải thoát sanh lão bệnh tử. Đại Bồ Tát này thực hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thành tựu phương tiện thiện xảo thu thắng, trang nghiêm cõi Phật, thành thuộc hữu tinh, có thể mau đầy đủ trí nhất thiết tướng, chính đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, chuyển pháp luôn vi diệu, cứu độ các hữu tinh. Thế nên, này thiện hiện. Lúc thực hành bác nhã Ba-la-mật-đa, nhờ năng lực của tâm vô lậu lị các tướng nên các Đại Bồ Tát có thể ở trong pháp vô tướng vô tát làm viên mạng Ba-la-mật-đa, cũng có thể làm viên mạng các công đức khác. Lại nữa thiện hiện. Lúc thực hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, các Đại Bồ Tát có thể dùng tâm vô lậu lị tướng để tu tinh tấn. Đại Bồ Tát này thành tựu sự dũng mạnh, thân tâm tinh tấn nhờ đó có thể nhập vào sơ tỉnh lựu và hoàn toàn an trụ trong đó cho đến có thể nhập vào tỉnh lựu thứ tư và hoàn toàn an trụ trong đó. Dựa vào bốn tỉnh lựu vị ấy phát sanh vô lượng loại thần thông biến hiện, cho đến dùng tay rờ vuốt mặt trời mặt trăng, tự tại phay chuyển không chút khó khăn. Nhờ thành tựu sự dũng mạnh, thân tâm tinh tấn nên trong chốc lát vị ấy có thể dùng sức thần thông bay đến hàng hạ sa số thế giới chư Phật ở khắp mười phương, lại dùng đủ loại đồ ăn uống, y phục, ngọa cụ, thuốc men và các đồ đặc khác cung kính, cúng dường, tôn trọng, nợi khen các vị Thế Tôn đang nói chánh Pháp. Nhờ vậy quả báo của Thiện Căng không dứt cho đến khi chứng đắc trí nhất thiết trí. Do thế lực tăng thượng của Thiện Căng này, sau khi thành Phật vị ấy lại vì vô lượng thế gian, trời, người, Atula, dùng vô lượng đồ ăn uống, y phục, ngọa cụ, thuốc men và đồ đặc khác cung kính, cúng dường, tôn trọng, nợi khen. Do thế lực tăng thượng của Thiện Căng này, sau khi nhập Niết Bàn Phá Lợi của Phật và các đệ tử vẫn còn được vô lượng trời, người, Atula ở thế gian cung kính, cúng dường, tôn trọng, nợi khen. Đại Bồ Tát này lại dùng thần lực để đến hàng hạ sa số thế giới của chư Phật khắp mười phương, lắng nghe chánh Pháp ở các đức Phật. Nghe xong, vị ấy thọ trì cho đến khi đạt được quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề không quên mất. Đại Bồ Tát này dùng thần lực để đến hàng hạ sa số thế giới chư Phật ở mười phương, thành thuộc hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, siêng năng tu học trí nhất thiết trí, được viên mãn rồi, vị ấy chứng đắt quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề, chuyển Pháp luôn vi diệu, đổ các hữu tình. Thế nên, Thiện Hiện, do thực hành bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thành tựu thân tinh tấn, mạnh mẽ nên các đại Bồ Tát ấy có thể làm cho tinh tấn Ba-la-mật-đa sớm được viên mãn. Lại nữa Thiện Hiện, các đại Bồ Tát thực hành bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thành tựu tâm tinh tấn, giọng mạnh nên sớm có thể viên mãn các đạo vô lậu của Bậc Thánh và các chi đạo khác thuộc về tinh tấn Ba-la-mật-đa. Nhờ đó, vị ấy có thể làm cho các nghiệp bất thiện nơi thân, miệng, ý không phát sanh được. Đối với các Pháp, đại Bồ Tát này không chấp trước thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc không vắng lặng, hoặc xa lịa hoặc không xa lịa, hoặc cảnh giới hữu vi hoặc cảnh giới vô vi, hoặc dục giới, hoặc sát giới, hoặc vô sát giới, hoặc cảnh giới hữu lậu, hoặc cảnh giới vô lậu, hoặc bốn tình lự, bốn vô lượng, bốn định vô sát, hoặc bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thân túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, hoặc pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, hoặc bố thí Balamudda cho đến bát ngã Balamudda, hoặc nội không cho đến vô tính tự tính không, hoặc chân như cho đến cảnh giới bất tư nghi, hoặc thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, hoặc tám giải thoát, tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng, hoặc tịnh quán địa cho đến như lai địa, hoặc cực khỉ địa cho đến pháp vân địa, hoặc tất cả pháp môn Dalani, pháp môn Tama địa, hoặc năm loại mắt, sáu phép thần thông, hoặc mười lực như lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của bậc đại sĩ, hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã, hoặc trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hoặc vô thường, khổ, không, vô ngã, hoặc quả dự lưu, quả nhất lai, quả bất hoàng, quả A-la-hán, độc giác bồ đề, hoặc tất cả các hành của Đại Bồ Tát và quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ của chư Phật. Đại Bồ Tát này cũng không chấp trước đây là dự lưu, đây là nhất lai, đây là bất hoàng, đây là A-la-hán, đây là độc giác bồ đề, đây là như lai, cũng không chấp trước các hữu tình này do Hạ Pháp hiện hiện ra, hữu tình này do Trung Pháp hiện hiện ra, hữu tình này do Thượng Pháp hiện hiện ra, hữu tình này do Phần Trên hiện hiện ra, hữu tình này do Phần Dưới hiện hiện ra, hữu tình này do Thanh Văn Thừa hiện hiện ra, hữu tình này do độc giác Thừa hiện hiện ra, hữu tình này do vô thường Thừa hiện hiện ra. Cha! Đối với những Pháp và các hữu tình như vậy, Đại Bồ Tát này đều không chấp trước. Vì sao? Vì Pháp được chấp trước và các hữu tình đều không tự tánh và không thể nắm giữ. Nhờ Đại Bồ Tát ấy thành tựu tâm tinh tấn, giọng mảnh nên tuy thường tạo tác các việc lợi ích cho tất cả hữu tình nhưng đối với hữu tình hoàn toàn vô sở đắc, tuy thường viên mãn Pháp tu tinh tấn Ba-la-mật-đa nhưng đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa hoàn toàn vô sở đắc, tuy thường viên mãn tất cả Phật Pháp nhưng đối với Phật Pháp hoàn toàn vô sở đắc, tuy thường trang nghiêm tất cả cõi Phật nhưng đối với cõi Phật hoàn toàn vô sở đắc. Đại Bồ Tát này thành tựu thân tâm tinh tấn như vậy, tuy có thể xa lìa tất cả ác Pháp, lại có thể hộ trì tất cả thiện Pháp nhưng không chấp trước. Do không chấp trước nên từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, từ thế giới này đến thế giới khác, vì muốn làm lợi ích cho các loại hữu tình, nếu vị ấy muốn thị hiện các việc thần thông thì đều có thể tự tại thị hiện không bị ngăn ngại, nghĩa là thị hiện các loại mưa hoa vi diệu, đải các loại hương thơm, tạo các loại nhạc, hiện tiếng sắm xét chấn động đại địa, hoặc lại thị hiện các loại bẫy báu vi diệu trang nghiêm thế giới, thân phóng ánh sáng chiếu nơi tối tâm, thân phát diệu hương làm cho những vật hôi thối đều trở thành thần thông. Vật hôi thối đều trở thành thơm tho, hoặc thị hiện thiết lập lễ cúng tế lớn ở trong đó không làm não loạn các loại hữu tình, giúp họ đi vào đường chánh, lìa bỏ việc giết hại sanh mạng cho đến tà kiến, hoặc dùng bố thí cho đến bác nhã Palamudda để giúp đỡ các hữu tình. Vì muốn lợi ích các hữu tình nên vị ấy xả bỏ củ báu hoặc xả bỏ vợ con, hoặc xả bỏ môi vua, hoặc xả bỏ các bộ phận trong thân, hoặc xả bỏ thân mạng, tùy theo các hữu tình cần phải dùng phương tiện như vậy mới được lợi ích, vị ấy liền dùng phương tiện như vậy để lợi ích họ. Thế nên, thiện hiện, lúc thực hành bác nhã Palamudda sâu xa nhờ năng lực tâm vô lậu lý tướng, ở trong Pháp vô tướng, vô tác các đại bộ tác có thể làm viên mạng tinh tấn Palamudda, cũng có thể viên mạng các công đức khác. Lại nửa thiện hiện. Lúc thực hành bác nhã Palamudda sâu xa, các đại bộ tác có thể dùng tâm vô lậu lý tướng để tu tình lự. Ngoài các định của Phật, đối với các định khác, đại bộ tác này đều có thể viên mạng. Đại bộ tác này lì dục ác bất thiện, có tầm có tứ, ly xanh hỷ lạc nhập vào sơ tình lự và hoàn toàn an trụ vào đó, như vậy cho đến dứt vui dứt khổ, vui buồn trước đây lặn mất, không khổ không vui, xả niệm thanh tịnh nhập vào tầng thiền thứ tư và hoàn toàn an trụ vào đó. Đại bộ tác này dùng tâm từ bi duyên từ một phương cho đến tất cả thế gian sắp mười phương và hoàn toàn an trụ trong đó, như vậy cho đến dùng tâm hỷ xã duyên sắp một phương cho đến tất cả thế gian sắp mười phương và hoàn toàn an trụ trong đó. Đại bộ tác này vượt các sát tưởng, diệt trừ tưởng, không tư duy các loại tưởng nhập vào không vô biên, không vô biên sứ và hoàn toàn an trụ trong đó, như vậy cho đến vượt qua tất cả vô sở hữu sứ, nhập vào phi tưởng phi phi tưởng sứ và hoàn toàn an trụ trong đó. Đại bộ tác này an trụ vào tỉnh lựu Palamudda, có thể nhập thuận nhật đối với tám giải thoát, tám thắng sứ, chính định thứ đệ, mười biến sứ và hoàn toàn an trụ trong đó. Đại bộ tác này có thể hoàn toàn an trụ vào pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, có thể hoàn toàn an trụ vào vô gián Tammadhia, như điển Tammadhia, thánh chánh Tammadhia, kim trang dụ Tammadhia. Đại bộ tác này an trụ vào tỉnh lựu Palamudda, tu 37 pháp bồ đề phần và trí đạo tướng làm cho đều được viên mãng. Dùng trí đạo tướng để hồi trì tất cả Tammadhia rồi tuần tự tu vượt qua tỉnh quán địa cho đến độc giác địa, chứng nhập chánh tánh ly xanh của bộ tác. Sau khi đã vào chánh tánh ly xanh của bộ tác, vì ấy tu các địa và thực hành viên mãng Phật địa. Tuy đại bộ tác này tuần tự tu tập vượt qua các địa nhưng khi đang tu không nắm giữ quả đã chứng cho đến khi chưa đạt được trí nhất thiết trí. Đại bộ tác này an trụ tỉnh lựu Palamudda từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, để cung chính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn, trọng các căng lành nơi các vị Phật, thành thuộc hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, từ thế giới này đến thế giới khác làm lợi ích hữu tình, thân tâm không mệt mỏi, hoặc dùng bố thí, hoặc dùng tỉnh giới, hoặc dùng an nhẫn, hoặc dùng tinh tấn, hoặc dùng tỉnh lựu, hoặc dùng bát nhã Palamudda để giúp đỡ các hữu tình, hoặc dùng giới quẩn, định quẩn, h thoát quẩn, giải thoát tri kiến quẩn để giúp đỡ các hữu tình, hoặc dạy hữu tình trụ vào quả dự lưu, hoặc quả nhất lai, hoặc quả bất hoàng, hoặc quả A-la-hán, hoặc độc giác bồ đề, hoặc trụ vào địa vị của Đại bộ tác, hoặc trụ quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, tùy theo thế lực thiện căng và sự tăng trưởng Pháp lạnh của các hữu tình mà vị ấy tạo đủ các phương tiện giúp họ an trụ. Đại bộ tác nào an trụ vào tịnh lựu Palamudda, có thể phát sanh tất cả Pháp môn Đà-la-ni, Pháp môn Tam-ma-địa, có thể chứng đắc bốn vô ngại giải và thần thông dị thuộc Thù Thắng. Đại bộ tác này thành tựu thần thông dị thuộc Thù Thắng quyết định không nhập trở lại thai mẹ bị nhĩnh các dục lạc trong cuộc sống. Vì sao? Vì Đại bộ tác này khéo thấy khéo biết tất cả Pháp tánh đều như huyển hóa. Tuy biết các hành đều như huyển hóa nhưng vị ấy nương theo biên nguyện làm lợi ích hữu tình. Tuy nương theo biên nguyện làm lợi ích hữu tình nhưng hữu tình được giúp và việc tạo lập kia đều bất khả đắc. Tuy hữu tình được giúp và việc tạo lập kia đều bất khả đắc nhưng vị ấy có thể an lập tất cả hữu tình, giúp họ an trụ vào Pháp bất khả đắc. Đây là dựa vào thế tục, không dựa vào thắng nghĩa. Đại bộ tác này an trụ vào tình lựu Palamuddha, tu hành tất cả tình lựu, giải thoát, đẳng trì, đẳng trí cho đến viên mãn quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề mà mình mong cầu, thường không xa lị việt tu tình lựu Palamuddha. Đại bộ tác này thực hành trí đạo tướng, tiện cách làm phát sanh trí nhất thiết tướng, an trụ ở trong đó vĩnh viễn đoạn trừ sự tương tục của tất cả tập khí, có thể tự lợi và lợi tha một cách đúng đắn, có thể tạo ruộng phước điện trong sạch cho tất cả thế gian, trời, người, Atula, đáng được nhận sự cúng dường cung kính của thế gian. Thế nên, thiện hiện, lúc thực hành bác nhã Palamuddha sâu xa, do lì năng lực của tâm vô lậu, lì các tướng, ở trong pháp vô tướng vô tác, đại bộ tác này làm viên mãn tình lựu Palamuddha, cũng có thể làm viên mãn các công đức khác. Lại nữa thiện hiện, lúc thực hành bác nhã Palamuddha sâu xa, các đại bộ tác có thể dùng tâm vô lậu lì tướng để tu bác nhã. Không thấy tất cả pháp vô lậu là pháp tổn giảm, không thấy tất cả pháp vô lậu là pháp tổn giảm, không thấy tất cả pháp vô lậu có tích tụ, không thấy tất cả pháp vô lậu có tích tụ, không thấy tất cả pháp vô lậu có ly tán, không thấy tất cả pháp vô lậu có ly tán, quán như thật để thấy sắc là hư vọng, không chắc thật, không tự tại, quán như thật để thấy sắc là hư vọng, không chắc thật, không t thấy thọ, tướng, hành, thức là hư vọng, không chắc thật, không tự tại, như vậy, cho đến quán như thật để thấy tất cả pháp hữu lậu là hư vọng, không chắc thật, không tự tại, quán như thật tất cả pháp vô lậu là hư vọng, không chắc thật, không tự tại. Lúc quán như thật, đại bộ tác này không chấp thủ tự tánh của sắc, không chấp thủ tự tánh của thọ, tướng, hành, thức như vậy cho đến không chấp thủ tự tánh của tất cả pháp hữu lậu, không chấp thủ tự tánh của tất cả pháp vô lậu, không thấy tất cả pháp hữu lậu là pháp tổn giảm, không thấy tất cả pháp vô lậu là pháp tổn giảm, không thấy tất cả pháp hữu lậu có tích tụ, không thấy tất cả pháp vô lậu có tích tụ, không thấy tất cả pháp hữu lậu có ly tán, không thấy tất cả pháp vô lậu có ly tán, quán như thật để thấy sắc là hư vọng, không chắc thật, không tự tại, quán như thật để thấy thọ, tướng, hành, thức là hư vọng, không chắc thật, không tự tại, như vậy, cho đến quán như thật để thấy tất cả pháp hữu lậu là hư vọng, không chắc thật, không tự tại, quán như thật tất cả pháp vô lậu là hư vọng, không chắc thật, không tự tại. Lúc quán như thật, Đại Bồ-Tát này không chấp thủ tự tánh của sắc, không chấp thủ tự tánh của thọ, tướng, hành, thức như vậy cho đến không chấp thủ tự tánh của tất cả pháp hữu lậu, không chấp thủ tự tánh của tất cả pháp vô lậu. Lúc thực hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa sâu xa, Đại Bồ-Tát này tin hiểu sâu sắc đối với tất cả pháp, đều dùng vô tánh để làm tự tánh. Sau khi đã sanh tin hiểu đối với việc này rồi, vị ấy có thể thực hành nội không cho đến vô tính tự tính không? Không chấp trước bốn tỉnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, không chấp trước tám giải thoát cho đến mười biến xướng, không chấp trước pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, không chấp trước tỉnh quán địa cho đến như lai địa, không chấp trước cực khỉ địa cho đến pháp vân địa, không chấp trước tất cả pháp môn Đà-La-Ni, pháp môn Tam-Ma địa, không chấp trước năm loại mắt, sáu phép thần thông, không chấp trước mười lực như lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, không chấp trước ba mươi hai. Tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc đại sĩ, không chấp trước pháp không quên mất, tảnh luôn luôn xả, không chấp trước trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, không chấp trước quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề, không chấp trước tất cả các hành của Đại Bồ-Tát, không chấp trước quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật. Không chấp trước bốn tỉnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, không chấp trước tám giải thoát cho đến mười biến xứ, không chấp trước pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, không chấp trước tỉnh quán địa cho đến như lai địa, không chấp trước trực khỉ địa cho đến pháp vân địa, không chấp trước tất cả pháp môn Đà-La-Ni, pháp môn Tam-Ma địa, không chấp trước năm loại mắt, sáu phép thần thông, không chấp trước mười lực như lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, không chấp trước ba mươi hai. Tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc đại sĩ, không chấp trước pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, không chấp trước trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, không chấp trước quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề, không chấp trước tất cả các hành của Đại Bồ-Tát, không chấp trước quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chư Phật. Lúc thực hành bác nhã Ba-La-Mật-Đa sâu xa vô sở hữu, Đại Bồ-Tát này có thể viên mạng Bồ-Tát Đạo, nghĩa là có thể viên mạng sáu Ba-La-Mật-Đa, cũng có thể viên mạng nội không cho đến vô tính tự tính không, cũng có thể viên mạng chân như cho đến cảnh giới bất tư nghi, cũng có thể viên mạng thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, cũng có thể viên mạng bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, cũng có thể viên mạng bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng có thể viên mạng tám giải thoát cho đến sáu phép thần thông, cũng có thể viên mạng pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, cũng có thể viên mạng các địa của Bồ-Tát, cũng có thể viên mạng tất cả pháp môn Đà-La-Ni, pháp môn Ta-Ma-Địa, cũng có thể viên mạng năm loại mắt, sáu phép thần thông, cũng có thể viên mạng mười lực như lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, cũng có thể viên mạng pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, cũng có thể viên mạng trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng có thể viên mạng ba mươi hai tướng Sau khi đã viên mạng đạo Bồ-Đề này rồi, Đại Bồ-Tát ấy lại có thể viên mạng đạo Phật-xa-Địa-Tối-Tâm, nghĩa là có thể viên mạng sáu ba-la-mật-đa và vô lượng vô biên Phật-pháp khác. Đại Bồ-Tát này an trụ vào đạo Phật-xa-Địa-Tối-Tâm như vậy, phát sanh thần thông dị thuộc Thù Thắng, tùy theo các hữu tình cần dùng bố thí cho đến bát ngã để giúp đỡ thì vị ấy liên dùng bố thí cho đến bát ngã để giúp đỡ họ, người cần dùng giới quẩn, định quẩn, huệ quẩn, giải thoát quẩn, giải thoát tri kiến quẩn để để giúp đỡ, vị ấy liên dùng giới quẩn, định quẩn, huệ quẩn, giải thoát quẩn, giải thoát tri kiến quẩn để giúp đỡ họ. Người cần giúp an trụ vào quả dự lưu, hoặc quả nhất lai, hoặc quả bất hoàng, hoặc quả A-la-hán, hoặc độc giác Bồ-đệ, hoặc là quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đệ, vị ấy liên tình cách giúp họ an trụ vào quả dự lưu, hoặc quả nhất lai, hoặc quả bất hoàng, hoặc quả A-la-hán, hoặc độc giác Bồ-đệ, hoặc là quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đệ. Đại Bồ-Tát này có thể làm đủ loại thần thông biến hiện, muốn đến hàng hà sa số thế giới thì có thể đến một cách tùy ý, muốn hiện củ báu ở trong các thế giới mình đã đi qua thì có thể hiện một cách tùy ý, muốn làm cho hữu tình trong các thế giới mà mình đi qua thỏa hưởng các loại củ báu thì giúp cho họ đều được đầy đủ tùy theo ý thích. Từ thế giới này đến thế giới khác, Đại Bồ-Tát ấy làm lợi ích an lạc vô số hữu tình, thấy những cảnh trang nghiêm tốt đẹp ở các thế giới vị ấy có thể tự hồ trì và trang nghiêm cõi Phật tùy theo ý thích. Giống như Chiêu Thiên ở cõi trời tha hóa tự tại có các đồ vật xinh đẹp trần thiết hiện ra theo nhu cầu. Cũng vậy, Đại Bồ-Tát này tùy ý nhận lấy vô số cõi Phật được trang nghiêm đủ cách. Trong các cõi Phật được tiếp nhận này, các Pháp vi diệu, thanh tình, lì tạp nhiễm đều có thể hiện ra tùy theo ý muốn. Đại Bồ-Tát này do Bố Thí Ba-la-mật-đa cho đến Bác Nhã Ba-la-mật-đa của thân dị thuộc do các thần thông vi diệu của thân dị thuộc, do Bồ-Tát Đạo của thân dị thuộc nên thực hành trí đạo tướng. Do trí đạo tướng được thành thuộc nên vị ấy lại có thể chứng đắc trí nhất thiết tướng. Do chứng đắc trí này nên vị ấy không giữ lấy tất cả các Pháp, nghĩa là không giữ lấy sắc, cũng không giữ lấy thọ, tưởng, hành, thức, như vậy cho đến cũng không giữ lấy hoặc thiện Pháp, hoặc Pháp bất thiện, hoặc Pháp hữu ký, hoặc Pháp vô ký, hoặc Pháp thế gian, hoặc Pháp xuất thế gian, hoặc Pháp hữu lậu, hoặc Pháp vô lậu, hoặc Pháp hữu vi, hoặc Pháp vô vi, cũng không giữ lấy sự chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đệ, cũng không giữ lấy tất cả các vật được thọ dùng ở cõi Phật. Hữu tình ở trong cõi Phật đó cũng không giữ lấy tất cả các Pháp. Vì sao? Vì trước đây Đại Bồ-Tát này không giữ lấy tất cả các Pháp, vô sở đắc đối với tất cả Pháp, vì các hữu tình giảng nói một cách đúng đắn về sự không nắm bắt của tất cả các Pháp tánh. Như vậy, thiện hiện, lúc thực hành bác nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nhờ năng lực vô lậu lị các tướng, ở trong Pháp vô tướng vô tát, các Đại Bồ-Tát có thể viên mạng bác nhã ba-la-mật-đa, cũng có thể viên mạng các công đức khác. LXXV phẩm 0 tạp 01 Bây giờ, cụ thọ thiện hiện bạch Phật. Bạch Thế Tôn Làm sao ở trong Pháp, không tạp, vô tướng, tự tướng không có thể viên mạng sáu ba-la-mật-đa? Tại sao trong tất cả Pháp không sai biệt mà tạo ra sai biệt? Làm cách nào để biết rõ tướng sai biệt của các Pháp như vậy, làm sao ở trong bác nhã ba-la-mật-đa có thể giữ lấy tất cả sáu ba-la-mật-đa như vậy cho đến giữ lấy tất cả Pháp thế gian và khúc thế gian? Vì sao ở trong tất cả Pháp có tướng khác nhau tạo ra một tướng được gọi là vô tướng và ở trong Pháp vô tướng, một tướng tạo ra tướng sai biệt của tất cả các Pháp? Phật bảo thiện hiện Lúc thực hành bác nhã ba-la-mật-đa sâu xa, các đại Bồ Tát an trụ trong năm thủ quẩn như Mộng, như Tiến Vang, như Bống, như Ảnh, như Quán Nắng, như Huỉ, như Hóa, vì các hữu tình mà bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, tu định, học huệ, biết rõ như thật về năm quẩn như Mộng, cho đến như Huỉ Hóa đều cùng một tướng gọi là vô tướng. Vì sao? Vì Mộng cho đến Huỉ Hóa đều không tự tánh. Pháp nào không có tự tánh thì là Pháp vô tướng. Pháp nào vô tướng chính là Pháp nhất tướng được gọi là vô tướng. Vì lý do này nên biết tất cả người thí, người nhận, vật thí, tánh thí, quả thí, duyên thí đều cùng vô tướng. Ai biết như vậy mà thực hành bố thí thì có thể làm viên mạng Pháp bố thí ba-la-mật-đa? Nếu có thể viên mạng Pháp bố thí ba-la-mật-đa thì không xa lì tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã ba-la-mật-đa. An trụ vào sáu ba-la-mật-đa này thì có thể viên mạng bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Cũng có thể viên mạng bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Cũng có thể viên mạng ba môn giải thoát. Cũng có thể viên mạng nội không cho đến vô tính tự tính không. Cũng có thể viên mạng chân nhiều cho đến cảnh giới bất tương nghị. Cũng có thể viên mạng thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, cúng. Có thể viên mạng tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Cũng có thể viên mạng các địa của Đại Bồ Tát. Cũng có thể viên mạng năm trăm môn Đà-la-Ni, năm trăm môn Tam-ma-địa. Cũng có thể viên mạng năm loại mắt, sáu phép thần thông. Cũng có thể viên mạng mười lực như Lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Cũng có thể viên mạng Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Cũng có thể viên mạng trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Đại Bồ Tát này an trụ trong các Pháp thánh, vô lậu, dị thuộc. Có thể đến hàng hà xa số thế giới chiêu Phật khắp mười phương dùng vô số loại phẩm vật vi diệu cung chính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen chiêu Phật thế tôn, làm lợi ích, an lạc cho các hữu tình. Người cần dùng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã-ba-la-mật-đa để giúp đỡ, vì ấy liên dùng bố thí cho đến bác nhã-ba-la-mật-đa để giúp đỡ. Người cần dùng các loại Pháp lành khác để giúp đỡ, vì ấy liên dùng các loại Pháp lành khác để giúp đỡ họ. Đại Bồ Tát này thành tựu tất cả thiện căng thù thắng, hoàn toàn tự tại đối với tất cả các Pháp, tuy chịu sanh tử nhưng không bị tai hòa sanh tử làm ô nhiễm, vì muốn làm lợi lạc cho hữu tình nên nhận lấy sự giàu có tự tại của trời, người. Nhờ oai lực của sự giàu có tự tại này vì ấy có thể làm các việc lợi ích cho hữu tình, dùng bốn nhiếp sự để giúp đỡ họ. Nhờ biết tất cả Pháp đều vô tướng, tuy biết quả dự lưu nhưng Đại Bồ Tát này không trụ vào quả dự lưu cho đến tuy biết độc giác bồ đệ nhưng không trụ độc giác bồ đệ. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này đã biết rõ như thật về tất cả các Pháp, vì muốn chứng đắc trí nhất thiết trí, không cùng chung với tất cả thanh văn, độc giác. Như vậy, thiện hiện, do biết tất cả Pháp đều vô tướng nên các Đại Bồ Tát này biết rõ như thật là sáu Pháp Palamudda như Bố Thí và vô lượng vô biên Phật Pháp khác đều vô tướng. Nhờ lý do này vì ấy có thể viên mãn tất cả Phật Pháp liện có thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Lại nửa thiện hiện. Lúc thực hành bác nhã Palamudda sâu xa, các Đại Bồ Tát an trụ vào năm thủ quẩn như mộng, như tiếng vang, như bóng, như ảnh, như quán nắng, như huyển, như hóa để viên mãn tỉnh giới Palamudda. Đại Bồ Tát này biết rõ như thật về năm quẩn như mộng, cho đến như hóa liền có thể viên mãn tỉnh giới Palamudda vô tướng. Tỉnh giới này không khuyết, không trò rỉ, không tì vết, không dơ bẩn, không chỗ chấp trước, đáng được cúng dường, được người trí ca ngợi, khéo léo thọ trị, hoàn toàn rốt tráo, là vô lậu của Bậc Thánh, được chi đạo suốt thế gian hội trì. An trụ vào giới này thì có thể thọ trị tất cả các giới như là giới kiến lập, giới tự nhiên đắc, giới lực nghi, giới hữu biểu, giới vô biểu, giới hiện hành, giới không hiện hành, giới oai nghi, giới phi oai nghi. Pháp hữu tướng không thể chứng đắc vô tướng. Do nhân duyên này mọi Pháp đều vô sở đắc. Thế nên, thiện hiện. Lúc thực hành bác nhã Palamatta sâu xa, các đại Bồ-Tát có thể sớm viên mãn tịnh giới Palamatta vô tướng. Sau khi đã có thể viên mãn tịnh giới Palamatta vô tướng, vị ấy mau chống nhập vào tránh tánh ly xanh của Bồ-Tát. Sau khi nhập vào tránh tánh ly xanh của Bồ-Tát vị ấy lại chứng đắc vô sanh Pháp nhẫn của Bồ-Tát. Đã chứng đắc vô sanh Pháp nhẫn của Bồ-Tát, vị ấy tu hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chứng đắc năm thần thông dị thuộc, lại chứng đắc năm trăm môn Đà-La-Ni, cũng chứng đắc năm trăm môn Tam-ma-địa và An-trụ trong đó, lại có thể chứng đắc bốn vô ngại giải, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác thân cận cúng dường chiêu Phật thế tôn, thành thuộc hữu tình, trang nhiên cõi Phật. Để giáo hóa hữu tình, tuy Đại Bồ-Tát này thì hiện lưu chuyển trong các nẻo đường sanh tử nhưng không bị tai họa của nó làm nhiễm ô, như người huyển hóa tuy thì hiện các việc đi đứng ngồi nằm nhưng thật sự không có các nghiệt qua lại. Đại Bồ-Tát cũng vậy, tuy hiện các Pháp lợi ích hữu tình nhưng đối với hữu tình và sự kiến lập ấy vô sợ đắc. Như có Như Lai ứng chánh đẳng giác tên thiện tịch tịnh chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề, chuyển Pháp luân ví diệu, đổ vô lượng chúng, giúp họ ra khỏi sanh tử chứng đắc niết bàn nhưng không có hữu tình nào khám nhận sự thỏa ký quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề. Lúc ấy Như Lai hóa hiện vị hóa Phật giúp cho trụ ở đời lâu dài rồi tự xả thòa mạng, nhập vào cảnh giới vô dư y bác niết bàn. Sau khi đã trụ một kiếp, hóa thân của vị Phật ấy thỏa ký quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề cho một Bồ Tát rồi mới nhập niết bàn. Hóa thân Phật ấy tuy làm các việc lợi ích hữu tình nhưng không có sợ đắc, nghĩa là không nắm bắt sắc, thỏa, tưởng, hành, thức cho đến không nắm bắt tất cả Pháp hữu lậu, vô lậu và các hữu tình. Cũng vậy, Đại Bồ Tát này tuy có làm nhưng vô sợ đắc. Thế nên, thiện hiện. Lúc thực hành bát nhã Balamudda sâu xa, các Đại Bồ Tát viên mảng tỉnh giới Balamudda. Nhờ tỉnh giới Balamudda này được viên mảng nên vị ấy liền có thể nhận lãnh tất cả Phật Pháp và nhờ đó chiếm đắc được trí nhất thiết trí. Lại nửa thiện hiện. Lúc thực hành bát nhã Balamudda sâu xa, Đại Bồ Tát an trụ vào năm thủ quẩn như mộng, như tiếng vang, như bóng, như ánh chớp, như quán nắng, như huyển, như hóa để viên mảng an nhận Balamudda. Đại Bồ Tát này biết rõ như thật năm quẩn như mộng, cho đến như hóa liền có thể viên mảng an nhận Balamudda vô tướng. Thiện hiện. Do biết rõ như thật năm thủ quẩn này không có thật tướng nên Đại Bồ Tát này tu hai loại nhẫn liền có thể viên mảng an nhận Balamudda vô tướng. Những gì là hai? Đó là an thọ nhẫn và quan sát nhẫn. An thọ nhẫn là, trong thời gian từ lúc Đại Bồ Tát mới phát tâm cho đến khi an tọa tòa bồ đề vi diệu, giả sử tất cả các loại hữu tình đuôi nhau đến quỡ mắng, dùng lời thô ác chửi rũa lăng nhục, lại dùng gạch đá dao gậy làm hại. Lúc ấy để viên mảng an nhận Balamudda, Đại Bồ Tát có thể viên mảng an nhận Balamudda vô tướng. Lúc ấy để viên mảng an nhận Balamudda, Đại Bồ Tát không sanh cho đến một niềm hờn giận, cũng không sanh tâm báo thù, chỉ nghĩ, các hữu tình kia thật đáng thương Pháp, bị phiền não tăng thượng quấy nhiễu trong tâm, không được tự tại nên họ gây ra nghiệp ác như vậy đối với ta, nay ta không nên tức giận họ. Vì ấy lại nghĩ, do ta tạo ra các nhóm oan gia nên khiến cho hữu tình kia phát sanh nghiệp ác như vậy đối với ta, chỉ nên tự trách mình, không nên giận người ấy. Lúc quan sát sâu sắc như vậy, Bồ Tát xanh lòng thương khóc sâu xa đối với hữu tình ấy. Như vậy gọi là an thọ nhẫn. Quan sát nhẫn là các Đại Bồ Tát tư duy như vậy, các hành như huyển, hư dối không thật, không được tự tại, cũng như hư không, không có ngã, hữu tình, người sống, người sanh, người nuôi dưỡng, người tạo tác, cái ta, tham do ý sanh, tuổi trẻ, người làm, người nhận, người biết, người thấy đều bất khả đắc, chỉ do phân biệt hư vọng sanh ra, tất cả đều do tự tâm biến hiện ra, ai hủy hoại ta, ai chữ mắng ta, ai lăng nhục ta, ai dùng các loại mối gạch dao gậy làm hại ta. Ai bị người kia lăng nhục làm. Hại. Tất cả đều là sự phân biệt hư vọng của tự tâm. Ngày ta không nên phát sanh chấp trước. Do tự tánh không và thắng nghĩa không nên các Pháp như vậy hoàn toàn vô sở hữu. Lúc quan sát kỹ như vậy Bồ Tát biết rõ như thật các hành động không vắng lặng, không sanh ý tưởng khác đối với các Pháp. Như vậy gọi là quan sát nhẫn. Giờ tu tập hai loại nhẫn như vậy đại Bồ Tát này liền có thể viên mãn an nhẫn Ba-la-mật-đa-vô-tướng. Do có thể viên mãn an nhẫn Ba-la-mật-đa-vô-tướng vị ấy liền đạt được vô sanh Pháp nhẫn. Cụ Thọ Thiện Hiện Bạch Thưa Thế Tôn Thế nào là vô sanh Pháp nhẫn? Pháp này đoạn từ những gì và là trí gì? Phật Bảo Thiện Hiện Do thế lực này nên ngay cả Pháp ác bất thiện nhỏ cũng không sanh vì thế gọi là vô sanh Pháp nhẫn. Pháp này làm cho tất cả các phiền não như ngã, ngã sở, mạng hoàn toàn không sanh, chỉ như thật nhẫn chịu các hành như mộng cho đến như hóa. Pháp nhẫn này gọi là trí. Do đạt được trí này nên nói là đạt được vô sanh Pháp nhẫn. Cụ Thọ Thiện Hiện lại Bạch Phật Vô sanh Pháp nhẫn của Thanh Văn, Độc Giác và Bồ-Tát có gì sai khác? Phật Bảo Thiện Hiện Hoặc trí hoặc đoạn của Bậc Dự Lưu cho đến hoặc trí hoặc đoạn của Độc Giác đều là nhẫn của Đại Bồ-Tát. Lại có nhẫn của Đại Bồ-Tát là nhẫn các Pháp hoàn toàn không sanh. Đó là sự sai khác. Thiện Hiện Ông nên biết, do các Đại Bồ-Tát thành tử Pháp nhẫn Thù Thắng như vậy nên vượt lên trên tất cả Thanh Văn, Độc Giác. Các Đại Bồ-Tát an trụ vào nhẫn dị thuật như vậy để thực hành Bồ-Tát Đạo thì có thể viên mãn trí đạo tướng. Nhờ thành tử trí đạo tướng này, vị ấy thường không xa lìa bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh Đạo, cũng không xa lìa ba môn giải thoát, không xa lìa thần thông dị thuật. Do không xa lìa thần thông dị thuật, vị ấy từ cõi Phật này đến cõi Phật khác thân cận cúng dường chiêu Phật Thế Tôn, thành thuộc hữu tình, trang nghiêm cõi Phật. Tạo việc này rồi, vị ấy dùng một sát na tương ưng với bát nhã để chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng Bồ-đề. Thế nên, thiện hiện, lúc thực hành bát nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, các Đại Bồ-Tát có thể mau viên mãn an nhẫn Ba-la-mật-đa vô tướng. Nhờ an nhẫn Ba-la-mật-đa này được viên mãn nên vị ấy liền có thể viên mãn tất cả Phật Pháp và nhờ đó chứng đắc trí nhất thiết trí. Các Đại Bồ-Tát có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Listen Next

Other Creators