black friday sale

Big christmas sale

Premium Access 35% OFF

Home Page
cover of kinhdaibatnha (414)
kinhdaibatnha (414)

kinhdaibatnha (414)

Phuc Tien

0 followers

00:00-42:36

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech

Audio hosting, extended storage and much more

AI Mastering

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 17, Quyển 414, 16, Phẩm T.A.M.M.A.D.I.A.02 Lại nữa, này thiện hiện, Tướng Đại Thừa của Đại Bồ-Tát là vô lượng trăm ngàn các Ta-Ma-Địa vô thường vi diệu, như là Ta-Ma-Địa Kiện Hành, Ta-Ma-Địa Bảo Ấn, Ta-Ma-Địa Sư Tử Du-Hí, Ta-Ma-Địa Diều Nguyệt, Ta-Ma-Địa Nguyệt Tràng Tướng, Ta-Ma-Địa Nhất Thiết Pháp Dũng, Ta-Ma-Địa Quán Đảnh, Ta-Ma-Địa Pháp Giới Quyết Định, Ta-Ma-Địa Quyết Định Tràng Tướng, Ta-Ma-Địa Kim Tương Dụ, Ta-Ma- Ta-Ma-địa Tinh Tấn Lực, Ta-Ma-địa Đảng Dũng, Ta-Ma-địa Nhật Nhất Thiết Ngôn Từ Quyết Định, Ta-Ma-địa Đảng Nhặt Tăng Nữ, Ta-Ma-địa Quán Phương, Ta-Ma-địa Tổng Trị Ấn, Ta-Ma-địa Vô Phòng Thất, Ta-Ma-địa Chiêu Pháp Đảng Thú Hại Ấn, Ta-Ma-địa Biến Phú Hư Không, Ta-Ma-địa Kim Cương Luân, Ta-Ma-địa Ly Trần, Ta-Ma-địa Biến Chiếu, Ta-Ma-địa Bất Thuấn, Ta-Ma-địa Vô T Ta-Ma-địa Phổ Chiếu, Ta-Ma-địa Tịnh Kiên Định, Ta-Ma-địa Vô Cấu Quang, Ta-Ma-địa Pháp Diệu Lạc, Ta-Ma-địa Điển Đăng, Ta-Ma-địa Vô Tận, Ta-Ma-địa Cụ Hoai Quang, Ta-Ma-địa Ly Tận, Ta-Ma-địa Vô Động, Ta-Ma-địa Vô Hạ Khích, Ta-Ma-địa Nhật Đăng, Ta-Ma-địa Tịnh Nguyệt, Ta-Ma-địa Tịnh Quang, Ta-Ma-địa Pháp Minh, Ta-Ma-địa Tác Sở Ưng Tác, Ta-Ma Tích, Ta-Ma-địa Diệu Pháp Ấn, Ta-Ma-địa Nhất Thiết Pháp Bình Đẳng Tánh, Ta-Ma-địa Sả Ái Lạc, Ta-Ma-địa Nhập Pháp Đảnh, Ta-Ma-địa Phiêu Tán, Ta-Ma-địa Phân Biệt Pháp Cú, Ta-Ma-địa Bình Đẳng Tự Tướng, Ta-Ma-địa Ly Văn Tự Tướng, Ta-Ma-địa Đoạn Sở Duyên, Ta-Ma-địa Vô Biến Dị, Ta-Ma-địa Vô Phẩm Loại, Ta-Ma-địa Vô Tướng Hành, Ta-Ma-địa Ly Ế Ám Ta-Ma-địa Vô Tâm Trụ, Ta-Ma-địa Tình Diệu Hoa, Ta-Ma-địa Cụ Giác Chi, Ta-Ma-địa Vô Biên Đăng, Ta-Ma-địa Vô Biên Biển, Ta-Ma-địa Vô Đẳng Đẳng, Ta-Ma-địa Siêu Nhất Thiết Pháp, Ta-Ma-địa Quyết Phán Chiêu Pháp, Ta-Ma-địa Tán Nghi Vọng, Ta-Ma-địa Vô Sở Trụ, Ta-Ma-địa Nhất Tướng Trang Nhiêm, Ta-Ma-địa Dẫn Pháp Hành Tướng, Ta-Ma-địa Nhất Hành Tướng, Ta-Ma-đị Ngôn, Ta-Ma-địa Giải Thoát Âm Thanh Văn Tử, Ta-Ma-địa Trừ Xí Nhiên, Ta-Ma-địa Nhiên Tịnh Tướng, Ta-Ma-địa Vô Tiêu Xí, Ta-Ma-địa Cụ Nhất Thiết Diệu Tướng, Ta-Ma-địa Bất Khí Nhất Thiết Khổ Lạc, Ta-Ma-địa Vô Tận Hành Tướng, Ta-Ma-địa Cụ Đà La Ni, Ta-Ma-địa Nhất Phục Nhất Thiết Chánh Tánh Tà Tánh, Ta-Ma-địa Tịnh Tức Nhất Thiết Vi Thuận, Ta-Ma-địa Ly Tắng Ái, Ta-Ma-địa V Ta-Ma-địa Định Bình Đẳng Tánh, Ta-Ma-địa Hữu Tránh Vô Tránh Bình Đẳng Lý Thú, Ta-Ma-địa Vô Xào Huỵệt Vô Tiêu Xí Vô Ái Lạc, Ta-Ma-địa Quyết Định An Trụ Chân Như, Ta-Ma-địa Ly Thân Quế Ác, Ta-Ma-địa Ly Ngữ Quế Ác, Ta-Ma-địa Ly Ý Quế Ác, Ta-Ma-địa Như Hư Không, Ta-Ma-địa Vô Nhịm Trước Như Hư Không Các Ta-Ma-địa như vậy có vô lượng trăm ngàn. Đó là tướng đại thừa của Đại Bồ-Tát. Này thiện hiện! Thế nào là Ta-Ma-địa kiện hành? Nghĩa là khi nào an trụ Ta-Ma-địa này, có thể nạp thọ tất cả cảnh Ta-Ma-địa, có thể mạnh mẽ làm xong vô viên việc thù thắng, có thể dẫn đầu tất cả đảng trì. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa kiện hành. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa bảo ấn? Nghĩa là Ta-Ma-địa này có thể ấn chứng tất cả định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa bảo ấn. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa sư tử du hí? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các định thù thắng an trụ tự tại. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa sư tử du hí. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa diệu nguyệt? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, như mặt trăng tròn trong sáng chiếu khắp các định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa diệu nguyệt. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa nguyệt tràng tướng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, có thể đảm nhận khắp các tướng thù thắng của định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa nguyệt tràng tướng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa nhất thiết pháp dũng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, có thể phát trà khắp tất cả định thù thắng. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa nhất thiết pháp dũng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa quán đảnh? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, có thể quan sát khắp tất cả đảnh định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa quán đỉnh. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa pháp giới quyết định? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, có thể đối với pháp giới quyết định chiếu rõ. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa pháp giới quyết định. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa quyết định tràng tướng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, có thể quyết định thọ trị các tràng tướng của định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa quyết định tràng tướng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa kim cương dụ? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, có thể phá trừ các định mà những pháp khác không nhiếp phục được. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa kim cương dụ. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa nhập pháp ấn? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, có thể chính nhập khắp các tất cả pháp ấn. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa nhập pháp ấn. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa phóng quan vô vong thất? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, phóng ánh sáng định thu thắng chiếu đến các loài hữu tình làm cho họ nhớ lại những pháp đã từng lãnh thọ. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa phóng quan vô vong thất. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa thiện lập định vương? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các định vương hay khéo kiến lập. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa thiện lập định vương. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa phóng quan? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, có thể phát ra ánh sáng của các định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa phóng quan. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa tinh tấn lực? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, có thể phát ra sức mạnh tinh tấn của các định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa tinh tấn lực. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa đẳng dũng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, làm cho các đẳng trì bình đẳng hiện lên. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa đẳng dũng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa nhập nhất thiết ngôn từ quyết định? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các ngôn từ quyết định hiểu rõ. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa nhập nhất thiết ngôn từ quyết định. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa đẳng nhập tăng ngữ? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các tên của định có thể hiểu rõ hoàn toàn giải thích nghĩa lý. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa đẳng nhập tăng ngữ. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa quán phương? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các phương của định có thể quán chiếu khắp. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa quán phương. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa tổng trì ấn? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, có thể giữ gìn tổng quát các diệu ấn của định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa tổng trì ấn. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô vong thất? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các tướng của định đều không quên mất. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô vong thất. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa chiêu pháp đặng thú hại ấn? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, làm cho các định thù thắng đều hướng vào như biển cả tóm thâu các dòng nước. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa chiêu pháp đặng thú hại ấn. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa biến phú hư không? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, ở trong các định trùng khắp, có thể che chắn, bảo hộ như nhau, giống như hư không trong không gian. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa biến phú hư không. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa kim cương lung? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, có thể giữ gìn khắp tất cả định thù thắng, làm cho không tan hoại như bánh xe kim cương. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa kim cương lung. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa ly trần? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, có thể diệt trừ tất cả phiền não cấu ế ràng buộc. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa ly trần. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa biến chiếu? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, chiếu khắp các định làm cho rất sáng rở. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa biến chiếu. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa bất thuấn? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, không mong cầu định khác hay pháp khác. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa bất thuấn. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô tướng trụ? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, không thấy trong các định có chút pháp nào có thể trụ. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô tướng trụ. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa bất tư duy? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, không bị pháp tâm tâm sở hạ liệt làm lây chuyển. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa bất tư duy. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô cấu đăng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, như cầm đèn sáng chiếu rõ các định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô cấu đăng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô biên quan? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, có thể phóng ra ánh sáng lớn chiếu soi không nhằn mé. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô biên quan. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa phát quan? Nghĩa là khi an trụ đẳng trì, định, vô gián này, có thể phát ra tất cả ánh sáng định thu thắng. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa phát quan. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa phổ chiếu? Nghĩa là khi an trụ đẳng trì, định, vô gián này, có thể chiếu khắp các môn định thu thắng. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa phổ chiếu. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa tịnh kiên định? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, được tánh bình đẳng thanh tịnh của các đẳng trì, định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa tịnh kiên định. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô cấu quan? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, có thể tẩy trừ hết cấu uế của tất cả định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô cấu quan. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa phát diệu lạc? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, lãnh thọ niềm vui vi diệu tất cả đẳng trì, định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa phát diệu lạc. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa điển đăng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, chiếu soi các đẳng trì, định, như điện chấp sáng. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa điển đăng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô tận? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, dẫn đến vô tận công đức các đẳng trì, định, mà không thấy tướng tận hay không tận của nó. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô tận. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa cụ oai quan? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các đẳng trì, định, oai quan đầy đủ. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa cụ oai quan. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa ly tận? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, thấy tất cả các đẳng trì, định, vô tận mà không thấy tướng có tận hay không tận. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa ly tận. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô động? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, làm cho các đẳng trì, định, không động, không trạo cử, cũng không hí luận. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô động. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô hạ khích? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, làm cho các đẳng trì, định, không thấy có tì vết. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô hạ khích. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa nhật đăng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, làm cho các môn định phát ánh sáng chiếu khắp. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa nhật đăng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa tịnh nguyệt? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, làm cho các đẳng trì, định, đẩy lùi bóng tối như ánh trăng. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa tịnh nguyệt. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa tịnh quang? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với tất cả các đẳng trì, định, được bốn sự hiểu biết thông suốt. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa tịnh quang. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa phát minh? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, làm cho các môn định phát ánh sáng chiếu khắp. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa phát minh. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa tác sở ưng tác? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, làm xong các việc nên làm của các đẳng trì, định, lại hoàn thành các việc làm của định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa tác sở ưng tác. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa trí tràng tướng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, thấy tràng tướng dự trí của các đẳng trì, định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa trí tràng tướng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa kim cương mang? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, tuy có thể thông đạt tất cả pháp nhưng không thấy có tướng thông đạt. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa kim cương mang. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa trụ tâm? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, tâm không lây động, không xoay chuyển, không chiếu soi, cũng không tổn giảm, không nghĩ có tâm. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa trụ tâm. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa phổ minh? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, có thể quán chiếu rõ khắp các định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa phổ minh. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa thiện trụ? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, có thể khéo an trụ các đẳng trì, định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa thiện trụ. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa bảo tích? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, quán các đẳng trì, định, đều như châu báu nhóm lại. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa bảo tích. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa dự pháp ấn? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, có thể ấn chứng các đẳng trì, định, vì đèn không ấn mà ấn chứng. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa dự pháp ấn. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa nhất thiết pháp bình đẳng tánh? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, không thấy có pháp nào lị tánh bình đẳng. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa nhất thiết pháp bình đẳng tánh. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa xả ái lạc? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với tất cả pháp xả bỏ các ưa thích. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa xả ái lạc. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa nhập pháp đẳng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với tất cả pháp có thể đoạn trừ các chứng ngại, mê mờ, cũng hay đứng đầu trong các định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa nhập pháp đẳng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa phiêu táng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, thổi tàn tất cả chấp định, chấp pháp. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa phiêu táng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa phân biệt pháp cú? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, hay khéo phân biệt cú pháp các định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa phân biệt pháp cú. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa bình đẳng tự tướng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, được tự tướng bình đẳng của các đảng trì, định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa bình đẳng tự tướng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa ly văn tự tướng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các đảng trì, định, không đắc một chữ. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa ly văn tự tướng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa đoạn sở duyên? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đoạn tuyệt cảnh tướng sở duyên của các đảng trì, định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa đoạn sở duyên. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô biến dị? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, không đắc tướng biến dị của các pháp. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô biến dị. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô phẩm loại? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, không thấy tướng phẩm loại sai biệt của các pháp. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô phẩm loại. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô tướng hành? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với tướng các định đều vô sở đắc. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô tướng hành. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa ly ế ám? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, diệt trừ hết bóng tối của các định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa ly ế ám. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa cụ hạnh? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với hạnh các định đều không có kiến chấp. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa cụ hạnh. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa bất biến động? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các đẳng trì, định, không thấy biến động. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa bất biến động. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa độ cảnh giới? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, vượt qua cảnh giới sở duyên của các đẳng trì, định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa độ cảnh giới. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa tập nhất thiết công đức? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, có thể nhóm hợp các công đức của định, đối với tất cả Pháp đều không còn tập tưởng, nhớ tưởng. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa tập nhất thiết công đức. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa quyết định trụ? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các định tâm tuy quyết định trụ, nhưng biết rõ tướng nó bất khả đắc. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa quyết định trụ. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô tâm trụ? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, tâm không lây chuyển, không đọa lạc. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô tâm trụ. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa tịnh dịu hoa? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, làm cho các đảng trì, định, đều được thanh tịnh, ánh sáng rực rỡ trang nhiên như hoa đẹp. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa tịnh dịu hoa. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa cụ giác chi? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, làm cho việc tu tập bảy giác chi của tất cả định mau viên mãng. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa cụ giác chi. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô biên đăng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với tất cả Pháp đều có thể chiếu rõ giống như đèn sáng. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô biên đăng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô biên biện? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với tất cả Pháp được vô biên chiến giải. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô biên biện. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô đẳng đẳng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các đẳng tùy, định, được tánh bình đẳng, cũng làm cho các định thành vô đẳng đẳng. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô đẳng đẳng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa siêu nhất thiết Pháp? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, có thể vượt qua các Pháp khắp ba cõi. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa siêu nhất thiết Pháp. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa quyết phán chiêu Pháp? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các định thù thắng và tất cả Pháp, hay vì hữu tình phán quyết như thật. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa quyết phán chiêu Pháp. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa tán nghi võng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các đẳng trì, định, và tất cả Pháp mọi nghi ngờ đều được tiêu trừ. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa tán nghi võng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô sở trụ? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, không thấy các Pháp có chỗ trụ. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô sở trụ. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa nhất tướng trang nghiêm? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, không thấy các Pháp có hai tướng có thể nắm bắt. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa nhất tướng trang nghiêm. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa dẫn Pháp hành tướng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các đẳng trì, định, và tất cả Pháp, tuy hay hướng đến các hành tướng nhưng đều không thấy người hay hướng đến. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa dẫn Pháp hành tướng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa nhất hành tướng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, thấy hành tướng các đẳng trì, định, không có hai. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa nhất hành tướng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa ly hành tướng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, thấy các đẳng trì, định, đều không có hành tướng. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa ly hành tướng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa dự hành tướng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, làm cho các đẳng trì, định, phát sanh hành tướng vi diệu. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa dự hành tướng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa đạt chiêu hữu để tán hoại? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các đẳng trì, định, và tất cả pháp được trí thông đạt ngộ nhập như thật, đã ngộ nhập rồi, đối với các pháp hữu phá tan hoàn toàn không để sóc lại. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa đạt chiêu hữu để tán hoại. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa nhập thi thiết ngữ ngôn? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, ngộ nhập tất cả pháp Ta-Ma-địa, trình bày lời nói không vướng mắt, không chứng ngại. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa nhập thi thiết ngữ ngôn. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa giải thoát âm thanh văn tự? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, thấy các tướng giải thoát tất cả âm thanh văn tự của các đẳng trì, định, tịch diệt. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa giải thoát âm thanh văn tự. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa tự xí nhiên? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các đẳng trì, định, ngoài quan chiếu sáng trực trở. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa tự xí nhiên. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa nhiêm tỉnh tướng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, hay làm nhiêm tỉnh tướng các đẳng trì, định, nghĩa là đối với các tướng đều có thể diệt trừ. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa nhiêm tỉnh tướng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô tiêu xí? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các đẳng trì, định, không thấy nêu cờ. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô tiêu xí. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa cũng nhất thiết diệu tướng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đầy đủ các diệu tướng của định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa cũng nhất thiết diệu tướng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa bất khí nhất thiết khổ lạc? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các tướng khổ vui của đẳng trì, định, không ưa thích quan sát. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa bất khí nhất thiết khổ lạc. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô tận hành tướng? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, không thấy các hành tướng của định có cùng tận. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô tận hành tướng. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa cụ Đà-La-Ni? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, có thể đảm nhịn hết các việc thù thắng của định. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa cụ Đà-La-Ni. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa nhít phục nhất thiết tránh tả tánh? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các kiến chấp về tránh tánh tả tánh của các đẳng trì, định, đều nhít phục làm cho không phát sanh. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa nhít phục nhất thiết tránh tả tánh. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa tỉnh tức nhất thiết phi thuận? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các đẳng trì, định, và tất cả pháp đều không thấy có tướng nhịp thuận. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa tỉnh tức nhất thiết phi thuận. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa ly tắn ái? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các đẳng trì, định, và tất cả pháp đều không thấy có tướng thương ghét. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa ly tắn ái. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô cấu minh? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các đẳng trì, định, đều không thấy có tướng trong trong sạch, tướng cấu quế. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô cấu minh. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa cụ kiên cố? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, làm cho các đẳng trì, định, đều được kiên cố. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa cụ kiên cố. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa mãn nguyện tỉnh quang? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, làm cho các đẳng trì, định, tăng thêm công đức như mặt trăng tròn sáng thì nước biển dân lên. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa mãn nguyện tỉnh quang. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa đại trang nghiêm? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, làm cho các đẳng trì, định, thành tựu các việc đại trang nghiêm, khi hữu, vi diệu. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa đại trang nghiêm. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa chiếu nhất thiết thế gian? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, chiếu soi các đẳng trì, định, và tất cả pháp, làm cho các loại hữu tình đều được khai sáng, hiểu rõ. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa chiếu nhất thiết thế gian. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa định bình đẳng tánh? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, không thấy đẳng trì định hay tán loạn sai khác. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa định bình đẳng tánh. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa hữu tránh vô tránh bình đẳng lý thú? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, không thấy các pháp và tất cả định có tranh không tranh tánh tướng sai khác. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa hữu tránh vô tránh bình đẳng lý thú. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô sao huyệt vô tiêu xí vô ái lạc? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, phá trừ các sao huyệt, xả bỏ các cờ xí, đoạn trừ các ưa thích mà không chấp trước. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô sao huyệt vô tiêu xí vô ái lạc. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa quyết định an trụ chân Như? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, đối với các đẳng trì, định và tất cả pháp thường không xả bỏ thật tướng chân Như. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa quyết định an trụ chân Như. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa ly thân quê ố? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, làm cho các đẳng trì, định phá hoại thân kiến. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa ly thân quê ố. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa ly ngữ quê ố? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, làm cho các đẳng trì, định, diệt trường nghiệp ác về lời nói. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa ly ngữ quê ố. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa ly ý quê ố? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, làm cho các đẳng trì, định, diệt trường nghiệp ác về ý. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa ly ý quê ố. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa như hư không? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, làm lợi ích cho khắp tất cả hữu tình tâm bình đẳng như hư không rộng lớn. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa như hư không. Thế nào gọi là Ta-Ma-địa vô nhiễm trước như hư không? Nghĩa là khi an trụ Ta-Ma-địa này, quán tất cả Pháp đều vô sở hữu như hư không trong sạch, không ô nhiễm, không chấp trước. Vì thế gọi là Ta-Ma-địa vô nhiễm trước như hư không. Này thiện hiện! Có vô lượng trăm ngàn các Ta-Ma-địa thù thắng hy hữu vi diệu như vậy. Nên viết đó là tướng đại thư của Đại Bồ-Tát. 17, Phẩm Niệm Trụ Đảng 01. Lại nữa, này thiện hiện! Tướng đại thư của Đại Bồ-Tát là bốn Niệm Trụ. Thế nào là bốn? Một là Thân Niệm Trụ, hai là Thọ Niệm Trụ, ba là Tâm Niệm Trụ, bốn là Pháp Niệm Trụ. Thân Niệm Trụ nghĩa là Đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã ba la mật đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy trụ ở nội thân quán theo thân, hoặc trụ ở ngoại thân quán theo thân, hoặc trụ ở nội ngoại thân quán theo thân nhưng vĩnh viễn không phát sanh tầm tư theo thân, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái. Thọ Niệm Trụ nghĩa là Đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã ba la mật đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy trụ ở nội thò quán theo thò, hoặc trụ ở ngoại thò quán theo thò, hoặc trụ ở nội ngoại thò quán theo thò nhưng vĩnh viễn không phát sanh tầm tư theo thò, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái. Thọ Niệm Trụ nghĩa là Đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã ba la mật đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy trụ ở nội thò quán theo thò, hoặc trụ ở ngoại thò quán theo thò, hoặc trụ ở nội ngoại thò quán theo thò nhưng vĩnh viễn không phát sanh tầm tư theo thò, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái. Pháp Niệm Trụ ấy là Đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã ba la mật đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy trụ ở nội thò quán theo thò, hoặc trụ ở ngoại thò quán theo thò, hoặc trụ ở nội ngoại thò quán theo thò nhưng vĩnh viễn không phát sanh tầm tư theo thò, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái. Thế nào là Đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã ba la mật đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu? Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát nào khi tu hành bát nhã ba la mật đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quan sát kỹ thân mình khi đi biết đi, khi đứng biết đứng, khi ngồi biết ngồi, khi nằm biết nằm, hoài nghi thân mình sai khác như vậy, như vậy, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu? Đó là Đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã ba la mật đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu? Lại nữa, này thiện hiện! Đó là Đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã ba la mật đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, có trụ nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu? Lại nữa, này thiện hiện! Đại Bồ-Tát nào khi tu hành bát nhã ba la mật đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quan sát kỹ thân mình, lúc thở vào biết thở vào, khi thở ra biết thở ra, khi thở hơi dài biết thở hơi dài, khi thở hơi ngắn biết thở hơi ngắn. Như thở quay bánh xe hoặc đệ tử người ấy, khi bánh xe quay nhiều biết bánh xe quay nhiều, khi bánh xe quay ít biết bánh xe quay ít. Đại Bồ-Tát này cũng như vậy, biết rõ các hơi thở khi vào hoặc ra, dài ngắn khác nhau. Đó là Đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã ba la mật đa, đem vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu? Lại nữa, này thiện hiện! Đại Bồ-Tát nào khi tu hành bát nhã ba la mật đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quan sát kỹ thân mình, với các giới sai khác? Nghĩa là địa giới, thủy, hỏa, phong giới. Như người đồ tẩy khéo léo hoặc học trò người ấy giết chết bò rồi, lại dùng dao bén phân chia thân bỏ ra làm bốn phần, hoặc ngồi hoặc đứng quán biết như thật. Đại Bồ-Tát này cũng như vậy, quan sát thân mình với bốn giới địa, thủy, hỏa, phong sai khác. Đó là Đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã ba la mật đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu? Lại nữa, này thiện hiện! Đại Bồ-Tát nào khi tu hành bát nhã ba la mật đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quan sát kỹ thân mình từ chân đến đầu có các thứ bất tỉnh đầy nhảy trong ấy, bên ngoài được lớp da mỏng bao bọc? Gọi là thân này chỉ có các thứ, tóc, lông, móng, răng, da dày, da mỏng, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, tiên, gian, phổi, thần, mật, lá lách, dạ dày, ruột dà, ruột non, phẫn, nước tiểu, nước dải, nước mắt, mồ hôi, đất bẩn, đàm, mũ, mỡ lá, ốc, màng, gèn, cức cháy. Những thứ bất tỉnh như thế đầy nhảy trong thân. Nhiều trong kho của người nông phu hoặc các trưởng giả có chứa đầy các loại ngũ cốc như là, nếp, mẹ, luống, đậu, bắp V, V. Có người mắt sáng mở kho đó ra xem có thể biết như thật trong đó chỉ có các loại ngũ cốc như, nếp, mẹ, lúa V, V. Đại Bồ Tát này cũng như vậy, quan sát kỹ thân mình từ chân đến đầu đầy nhảy bất tỉnh không thể ưa thích. Đó là Đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục thăm ưu. Lại nữa, này thiện hiện. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ đã qua một ngày, hoặc hai ngày cho đến bảy ngày, thi thể ấy xình trướng chuyển sang màu xanh bầm, hồi thối, da nứt, máu mũ chảy ra. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục thăm ưu. Lại nữa, này thiện hiện. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ đã qua một ngày, hoặc hai ngày cho đến bảy ngày, bị các loài cầm thú, diều hâu, quả, chim khách, cú mèo, cọp, bèo, trồng, sói, chó, giả cang v.v., hoặc mổ, hoặc xé, làm cho xương thịt trời rất ngỗ ngang, mà tranh giành ăn nuốt. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ đã qua một ngày, hoặc hai ngày cho đến bảy ngày, bị các loài cầm thú, diều hâu, cọp, bèo, trồng, sói, chó, giả cang v.v., hoặc mổ, hoặc xé, làm cho xương thịt trời rất ngỗ ngang, mà tranh giành ăn nuốt. Lại nữa, này thiện hiện. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến chỗ vắng vẻ quán tử thi bị cầm thú ăn rồi, nhơ nhớp bấy nát, máu mũ chảy liệt, có vô lượng loại trùng dòi sinh ra mùi hôi thối còn hơn cho chết. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân mình có tánh như vậy, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát, cuối cùng sẽ bị như thế. Đó là Đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, tránh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu. Lại nữa, này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến chỗ vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ bị trùng dòi ăn rồi, hết thịt lồi xương, đốt chân tay liệt nhau nhờ gân, với máu thịt trả còn sóc lại. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta có tánh như vậy, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát, cuối cùng sẽ bị như thế. Đó là Đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, tránh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu. Lại nữa, này thiện hiện! Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ, đã thành phương trắng không còn máu thịt, chỉ còn gân liệt nhau. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ, đã thành phương trắng không còn máu thịt, chỉ còn gân liệt nhau. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, tránh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ, chỉ còn các xương, xương ấy trắng xám màu như ngọc kha, các gân nát bấy, các đốt chân tay rời ra. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta có tính như vậy, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát cuối cùng sẽ bị như thế. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, tránh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu. Lại nữa, này thiện hiện. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ, đã thành xương trắng, các đốt tay chân phân tán, rơi lạc phương khác. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, tránh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu. Lại nữa, này thiện hiện. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ, các xương rơi rã mỗi cái một nơi, xương chân một nơi, xương ống một nơi, xương đầu gối một nơi, xương đùi một nơi, xương vế một nơi, xương sườn một nơi, xương sóng một nơi, xương nhực một nơi, xương vai một nơi, xương tay một nơi, xương ngón một nơi, xương cổ một nơi, xương cầm một nơi, xương má một nơi, xương đầu cũng ở nơi khác. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ, các xương rơi rã mỗi cái một nơi, xương ngón một nơi, xương đầu cũng ở nơi khác. Lại nữa, này thiện hiện. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ, các xương rơi rã mỗi cái một nơi, xương đầu cũng ở nơi khác. Lại nữa, này thiện hiện. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ, các xương rơi rã mỗi cái một nơi, xương đầu cũng ở nơi khác. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ, các xương rơi rã mỗi cái một nơi, xương đầu cũng ở nơi khác. Đó là Đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, khắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, tránh niệm tỉnh giác, điều phục thăm ưu. Lại nữa, này thiện hiện. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ, xương còn lại tan lộn trên đất, trải qua hàng trăm năm, hoặc hàng ngàn năm, tướng trạng biến ra màu xanh, giống như lông chim bồ câu, hoặc mục nát như bụi, hòa chung với đất khó có thể phân biệt được. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta có tánh như vậy, đủ pháp như vậy, chưa được giải thoát cuối cùng sẽ bị như thế. Đó là Đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, trụ ở nội thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, tránh niệm tỉnh giác, điều phục thăm ưu. Này thiện hiện. Các Đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, như trụ ở nội thân quán theo thân sai khác như vậy, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, tránh niệm tỉnh giác, điều phục thăm ưu. Trụ ở nội thân quán theo thân, trụ ở nội ngoại thân quán theo thân, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, tránh niệm tỉnh giác, điều phục thăm ưu tùy theo chỗ thích hợp cũng như vậy. Này thiện hiện. Các Đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với trong và ngoài bao gồm thọ, tâm, phát, khi trụ quán theo thọ, tâm, phát, thắp sáng tinh tấn, nỗ lực tinh tấn, tránh niệm tỉnh giác, điều phục thăm ưu. Tùy chỗ thích hợp đều nên giảng rộng. Này thiện hiện. Như vậy, Đại Bồ Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với trong và ngoài bao gồm thọ, tâm, phát, khi trụ quán theo thân, thọ, tâm, phát. Tùy quán như vậy nhưng vô sở đắc. Này thiện hiện. Nên biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ Tát. Lại nữa, này thiện hiện. Tướng đại thừa của Đại Bồ Tát là bốn chánh đoạn. Thế nào là bốn? Này thiện hiện. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với các pháp ác bất thiện chưa sanh, vì muốn làm cho không sanh nên sanh tâm mong muốn cố gắng, phát sanh siêng năng dữ diện, đó là thứ nhất. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với các pháp ác bất thiện đã sanh, vì muốn đoạn trừ hẳn nên sanh tâm mong muốn cố gắng siêng năng dữ diện, đó là thứ hai. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, pháp thiện chưa sanh vì làm cho phát sanh, nên sanh tâm mong muốn cố gắng siêng năng dữ diện, đó là thứ ba. Đại Bồ Tát nào khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, pháp thiện đã sanh vì làm cho an trụ không quên, càng tăng thêm làm cho viên mãn nên sanh tâm mong muốn cố gắng siêng năng dữ diện, đó là thứ tư. Này thiện hiện! Nên biết đó là tướng đại thừa của Đại Bồ Tát! Phụ đề được thực hiện bởi cộng đồng Amara.org

Listen Next

Other Creators