black friday sale

Big christmas sale

Premium Access 35% OFF

Home Page
cover of kinhdaibatnha (373)
kinhdaibatnha (373)

kinhdaibatnha (373)

Phuc Tien

0 followers

00:00-38:59

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech

Audio hosting, extended storage and much more

AI Mastering

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 15 Quyển 373 LXV Phẩm Tam Tiện Thứ 02 Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ Tát tu tùy niệm Pháp? Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy khi tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên tư duy Pháp thiện, chẳng nên tư duy Pháp bất thiện, chẳng nên tư duy Pháp vô ký, chẳng nên tư duy Pháp thế gian, chẳng nên tư duy Pháp suốt thế gian, chẳng nên tư duy Pháp có ái nhiễm, chẳng nên tư duy Pháp không ái nhiễm, chẳng nên tư duy Pháp có tranh cãi, chẳng nên tư duy Pháp không tranh cãi, chẳng nên tư duy Pháp thánh, chẳng nên tư duy Pháp phi thánh, chẳng nên tư duy Pháp hữu lậu, chẳng nên tư duy Pháp vô lậu, chẳng nên tư duy Pháp thuộc dục giới, chẳng nên tư duy Pháp thuộc sát giới, chẳng nên tư duy Pháp thuộc vô sát giới, chẳng nên tư duy Pháp có đọa, chẳng nên tư duy Pháp không đọa, chẳng nên tư duy Pháp hữu vi, chẳng nên tư duy Pháp vô vi. Vì sao? Này thiện hiện! Vì các Pháp như thế đều không có tự tánh. Nếu Pháp không có tự tánh thì không có sở hữu, nếu không có sở hữu thì chẳng thể nhớ nghĩ. Vì sao? Này thiện hiện! Vì nếu không nhớ nghĩ, không tư duy thì đó là tùy niệm Pháp. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát khi hành bát nhã Ba-la-mật-đa nên tu tùy niệm Pháp như thế. Nếu tu Pháp tùy niệm như thế thì đó là Đại Bồ-Tát làm việc theo thứ bật, tu học theo thứ bật, hành trì theo thứ bật. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy khi làm việc theo thứ bật, tu học theo thứ bật, hành trì theo thứ bật như thế thì có thể viên mạng bốn niệm trụ, cũng có thể viên mạng bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm trăng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, có thể viên mạng Pháp môn giải thoát không, cũng có thể viên mạng Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, có thể viên mạng bốn tình lự, cũng có thể viên mạng bốn vô lường, bốn định vô sắc, có thể viên mạng tám giải thoát, cũng có thể viên mạng tám tháng xứ, chính định thứ. Đệ, mười biến xứ, có thể viên mạng tất cả Pháp môn Tam-ma-địa, cũng có thể viên mạng tất cả Pháp môn Đa-la-ni, có thể viên mạng bố thí Ba-la-mật-đa, cũng có thể viên mạng tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã Ba-la-mật-đa, có thể viên mạng Pháp không quên mất, cũng có thể viên mạng tánh luôn luôn xả, có thể viên mạng tánh luôn luôn xả, có thể viên mạng trí nhất thiết, cũng có thể viên mạng trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Do đó, chính đắc trí nhất thiết trí. Có thể viên mạng Pháp không quên mất, cũng có thể viên mạng tánh luôn luôn xả, có thể viên mạng trí nhất thiết, cũng có thể viên mạng trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Do đó, chính đắc trí nhất thiết trí. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy vì dùng sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh nên biết tất cả Pháp đều không có tự tánh, trong ấy không có tưởng, cũng không không có tưởng. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát tu tùy niệm Pháp như thế, nghĩa là trong đó còn không có chút nghĩ nhớ, huống là có nhớ nghĩ Pháp. Này thiện hiện! Thế nào là Đại Bồ-Tát tu tùy niệm Tăng? Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng nghĩ thế này, chúng đệ tử Phật, đầy đủ tình giới quẩn, định quẩn, tuệ quẩn, giải thoát quẩn, giải thoát tri kiến quẩn, bổ đặc già-la của tứ song Bát-chít, tất cả đều rõ ràng là vô tánh, đều lấy vô tánh làm tự tánh. Do nhân duyên ấy, chẳng nên tư duy. Vì sao? Này thiện hiện! Vì chúng đệ tử Phật đều không có tự tánh. Nếu Pháp không có tự tánh thì không có sở hữu, nếu không có sở hữu thì không thể nhớ nghĩ. Vì sao? Này thiện hiện! Vì nếu không nhớ nghĩ, không tư duy, thì đó là tùy niệm Tăng. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát khi tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa nên tùy niệm Tăng như thế. Nếu tu tùy niệm Tăng như thế thì đó là Đại Bồ-Tát làm việc theo thứ bật, tu học theo thứ bật, hành trì theo thứ bật. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy khi làm việc theo thứ bật, tu học theo thứ bật, hành trì theo thứ bật như thế thì có thể viên mạng 4 niệm trụ, cũng có thể viên mạng 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, có thể viên mạng Pháp môn giải thoát không? Cũng có thể viên mạng Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, có thể viên mạng 4 tịnh lự, cũng có thể viên mạng 4 vô lường, 4 định vô sắc, có thể viên mạng 8 giải thoát, cũng có thể viên mạng 8 tháng xứ, 9 định. Thứ đệ, 10 biến xứ, có thể viên mạng tất cả Pháp môn Tam-ma-địa, cũng có thể viên mạng tất cả Pháp môn Đà-la-ni, có thể viên mạng Bố-thí-Ba-la-mật-đa, cũng có thể viên mạng Tịnh giới, An-nhẫn, Tinh-tấn, Tịnh lự, Bát-nhã-Ba-la-mật-đa, có thể viên mạng Pháp không quên mất, cũng có thể viên mạng Tánh-luôn-luôn-xã, có thể viên mạng Trí-nhất-thiết, cũng có thể viên mạng Trí-đào-tướng, Trí-nhất-thiết-tướng. Do đó, chỉ đặt Trí-nhất-thiết-trí. Có thể viên mạng Pháp không quên mất, cũng có thể viên mạng Tánh-luôn-luôn-xã, có thể viên mạng Trí-nhất-thiết, cũng có thể viên mạng Trí-đào-tướng, Trí-nhất-thiết-tướng. Do đó, chỉ đặt Trí-nhất-thiết-trí. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát ấy vì dùng sức phương tiện lấy vô Tánh làm tự Tánh, nên biết tất cả Pháp đều không có tự Tánh, trong đó không có tưởng, cũng không không có tưởng. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát nên tu tùy niệm Tăng như thế, nghĩa là trong đó còn không có một niệm nhỏ nào, huống là có niệm Tăng. Này Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-Tát tu tùy niệm giới? Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát ấy khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa, từ lúc mới phát tâm cho đến khi an tọa tọa bồ đề nhiễm mầu, thường trụ tình giới không khuyết, không hở, không tì vết, không nhiễm ô, không có sự chấp trước, xứng đáng thọ nhận cúng dương, được người Trí khen nợ là dịu thiện, thọ trị dịu thiện rốt tráo, tùy thuận thắng định, tư duy giới này, lấy vô Tánh làm tự Tánh. Do nhân duyên ấy, chẳng nên tư duy. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tịnh giới như thế hoàn toàn không có tự Tánh. Nếu Pháp không có tự Tánh thì không có sở hữu, nếu không có sở hữu thì không thể nhớ nghĩ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu không nhớ nghĩ, không tư duy, thì đó là tùy niệm giới. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát khi tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa nên tùy niệm giới như thế. Nếu tu tùy niệm giới như thế thì đó là Đại Bồ-Tát làm việc theo thứ bật, tu học theo thứ bật, hành trì theo thứ bật. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-Tát ấy khi làm việc theo thứ bật, tu học theo thứ bật, hành trì theo thứ bật như thế, thì có thể viên mạng 4 niệm trụ, cũng có thể viên mạng 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căn, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, có thể viên mạng Pháp môn giải thoát không, cũng có thể viên mạng Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, có thể viên mạng 4 tình lự, cũng có thể viên mạng 4 vô lượng, 4 định vô sắc, có thể viên mạng 8 giải thoát, cũng có thể viên mạng 8 tháng xứ, 9 định. Thứ đệ, 10 biến xứ, có thể viên mạng tất cả Pháp môn Tam-ma-địa, cũng có thể viên mạng tất cả Pháp môn Đa-la-ni, có thể viên mạng bố thí Ba-la-mật-đa, cũng có thể viên mạng tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã Ba-la-mật-đa, có thể viên mạng Pháp không quên mất, cũng có thể viên mạng tánh luôn luôn xã, có thể viên mạng trí nhất thiết, cũng có thể viên mạng trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Do đó, chỉ đắc trí nhất thiết trí. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy vì dùng sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh, nên biết tất cả Pháp đều không có tự tánh, trong đó không có tưởng, cũng không không có tưởng. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát nên tu tùy niệm giới như thế, nghĩa là trong đó còn có tưởng, trong đó còn có tưởng, trong đó còn có tưởng, trong đó còn có tưởng. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát nên tu tùy niệm giới như thế, nghĩa là trong đó còn không có một chút niệm, cũng là có niệm giới. Này thiện hiện! Thế nào là Đại Bồ-Tát tu tùy niệm xã? Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa, vì sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh, nên tu tùy niệm xã, hoặc xã tài, hoặc xã pháp, đều chẳng khởi tâm là ta cho, ta chẳng cho, ta xã, ta chẳng xã, hoặc xã chi tiết của thân phận cũng chẳng khởi tâm là ta cho, ta chẳng cho, ta xã, ta chẳng xã, cũng chẳng tư duy vật đã xã, đã cho và phước của xã cho đó. Vì sao? Này thiện hiện! Vì các pháp như thế đều không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì không có sở hữu, nếu không có sở hữu thì không thể nhớ nghĩ. Vì sao? Này thiện hiện! Vì nếu không nhớ nghĩ, không tư duy, thì đó là tùy niệm xã. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa nên tu tùy niệm xã như thế. Nếu tu tùy niệm xã như thế thì đó là Đại Bồ-Tát làm việc theo thứ bật, tu học theo thứ bật, hành trì theo thứ bật. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy khi làm việc theo thứ bật, tu học theo thứ bật, hành trì theo thứ bật như thế, thì có thể viên mạng 4 niệm trụ, cũng có thể viên mạng 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 trăng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, có thể viên mạng pháp môn giải thoát không, cũng có thể viên mạng pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, có thể viên mạng 4 tình lự, cũng có thể viên mạng 4 vô lượng, 4 định vô sắc, có thể viên mạng 8 giải thoát, cũng có thể viên mạng 8 thắng xứ, 9 định. Thứ đệ, 10 biến xứ, có thể viên mạng tất cả pháp môn Samadhia, cũng có thể viên mạng tất cả pháp môn Dalani, có thể viên mạng bố thí Balamudda, cũng có thể viên mạng tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã Balamudda, có thể viên mạng pháp không quên mất, cũng có thể viên mạng tánh luôn luôn xã, có thể viên mạng trí nhất thiết, cũng có thể viên mạng trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Do đó, chính đắc trí nhất thiết trí. Có thể viên mạng pháp không quên mất, cũng có thể viên mạng tánh luôn luôn xã, có thể viên mạng trí nhất thiết, cũng có thể viên mạng trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Do đó, chính đắc trí nhất thiết trí. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì dùng sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh, nên biết tất cả pháp đều không có tự tánh, trong đó không có tưởng, cũng không không có tưởng. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nên tu tùy niệm xã như thế, nghĩa là trong đó còn không có chúc niệm, cũng là có niệm xã. Này thiện hiện! Thế nào là Đại Bồ Tát tu tùy niệm thiên? Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy khi hành bác nhã ba la mật đa, vì sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh nên tu tùy niệm thiên, quán dự lưu v.v. tuy sanh vào chúng trời tứ đại vương, hoặc trời ba mươi ba, hoặc trời dạ ma, hoặc trời đổ sử đa, hoặc trời lạc biến hóa, hoặc trời tha hóa tự tại, nhưng chẳng thể nắm bắt được, chẳng nên tư duy, quán bất hoàng v.v. tuy sanh cõi trời sắc giới, hoặc trời vô sắc giới, nhưng chẳng thể nắm bắt được, chẳng nên tư duy. Vì sao? Này thiện hiện! Vì các trời như thế đều không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh thì không có sở hữu, nếu không có sở hữu thì không thể nhớ nghĩ. Vì sao? Này thiện hiện! Vì nếu không nhớ nghĩ, không tư duy, thì đó là tùy niệm thiên. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã ba la mật đa nên tùy niệm thiên như thế. Nếu tu tùy niệm thiên như thế thì đó là Đại Bồ Tát làm việc theo thứ bật, tu học theo thứ bật, hành trì theo thứ bật. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy khi làm việc theo thứ bật, tu học theo thứ bật, hành trì theo thứ bật như thế, thì có thể viên mạng 4 niệm trụ, cũng có thể viên mạng 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, có thể viên mạng pháp môn giải thoát không, cũng có thể viên mạng pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, có thể viên mạng 4 tịnh lự, cũng có thể viên mạng 4 vô lường, 4 định vô sắc, có thể viên mạng 8 giải thoát, cũng có thể viên mạng 8 thắng xứ, 9 định. Thứ đệ, 10 biến xứ, có thể viên mạng tất cả pháp môn Tama Địa, cũng có thể viên mạng tất cả pháp môn Đà La Ni, có thể viên mạng bố thí Ba La Mật Đa, cũng có thể viên mạng tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba La Mật Đa, có thể viên mạng pháp không quên mất, cũng có thể viên mạng tánh luôn luôn xã, có thể viên mạng trí nhất thiết, cũng có thể viên mạng trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Do đó, chỉ đắc trí nhất thiết trí. Có thể viên mạng pháp không quên mất, cũng có thể viên mạng tánh luôn luôn xã, có thể viên mạng trí nhất thiết, cũng có thể viên mạng trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Do đó, chỉ đắc trí nhất thiết trí. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát ấy vì dùng sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh, nên biết tất cả pháp đều không có tự tánh, trong đó không có tưởng, cũng không không có tưởng. Này thiện hiện! Đại Bồ Tát nên tu tùy niệm thiêng như thế, nghĩa là trong đó còn không có một chút niệm, cũng là có niệm thiêng. Này thiện hiện! Đó là Đại Bồ Tát y chứ tu hành tùy niệm thiêng, làm việc theo thứ bật, tu học theo thứ bật, hành trì theo thứ bật. Lại nữa, thiện hiện! Đại Bồ Tát tuy tu hành bát nhã ba la mật đà, vì muốn sự làm việc theo thứ bật, sự tu học theo thứ bật, sự hành trì theo thứ bật, vì sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh, nên học pháp không nội, nên học pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không trốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không tổng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, vì sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh nên học chân như, nên học pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tiêu nghi. Vì sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh nên học bốn niệm trụ, nên học bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Vì sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh nên học thánh đế khổ, nên học thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh nên học bốn tịnh lự, nên học bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh nên học tám giải thoát, nên học tám tháng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ. Vì sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh nên học pháp môn giải thoát không, nên học pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh nên học bố thí-ba-la-mật-đa, nên học tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát nhã-ba-la-mật-đa, phương tiện thiện xảo, nguyện, lực, trí-ba-la-mật-đa. Vì sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh nên học bật cực khỉ, nên học bật ly cấu, bật phát quan, bật diện tuệ, bật cực nang thắng, bật khiện tiền, bật viễn hành, bật bất động, bật thiện tuệ, bật pháp vân. Vì sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh nên học năm loại mắt, nên học sáu phép thần thông. Vì sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh nên học mười lực Phật, nên học bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám Pháp Phật bất cộng. Vì sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh nên học đại từ, nên học đại đi, đại hỷ, đại xã. Vì sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh nên học Pháp không quên mất, nên học tánh luôn luôn xã. Vì sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh nên học trí nhất thiết, nên học trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sức phương tiện lấy vô tánh làm tự tánh nên học tất cả Pháp môn Tamadea, nên học tất cả Pháp môn Đà-La-Ni. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy khi tu học đạo Bồ-Tát như thế, học tất cả Pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh, trong đó còn không có một niềm nhỏ có thể nắm bắt được, huống là có niềm sắc, niềm thọ, tưởng, thành, thức. Huống là có niềm nhãn sướng, niềm nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý sướng. Huống là có niềm sắc sướng, niềm thanh, hương, vị, suốt, Pháp sướng. Huống là có niềm nhãn giới, niềm nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý giới. Huống là có niềm sắc giới, niềm thanh, hương, vị, suốt, Pháp giới. Huống là có niềm nhãn thức giới, niềm nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới. Huống là có niềm nhãn suốt, niềm nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý suốt. Huống là có niềm các thọ do nhãn suốt làm duyên sanh ra, niềm các thọ do nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý suốt làm duyên sanh ra. Huống là có niềm địa giới, niềm thủy, hỏa, phòng, không, thức giới. Huống là có niềm nhân duyên, niềm đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Huống là có niềm vô minh, niềm hành, thức, danh sắc, lục sứ, suốt, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não. Huống là có niềm bố thí Balamudda, niềm tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã Balamudda. Huống là có niềm Pháp không nội, niềm Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không rốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đổi khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được. Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh, Huống là có niềm 4 niềm trụ, niềm 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, Huống là có niềm thánh đế khổ, niềm thánh đế tập, diệt, đạo, Huống là có niềm 4 tình lự, niềm 4 vô lượng, 4 định vô sắc, Huống là có niềm 8 giải thoát, niềm 8 thắng sướng, 9 định thứ đệ, 10 biến sướng, Huống là có niềm tất cả Pháp môn Tam Ma Địa, niềm tất cả Pháp môn Đà La Ni. Huống là có niềm Pháp môn giải thoát không, niềm Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, Huống là có niềm bật cực khỉ, niềm bật ly cấu, bật phát quan, bật dịm tuệ, bật cực nang thắng, bật khiện tiền, bật viễn hành, bật bất động, bật thiện tuệ, bật pháp vân, Huống là có niềm 5 loại mắt, niềm 6 phép thần thông, Huống là có niềm 10 lực Phật, niềm 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, 18 Pháp Phật bất cộng, Huống là có niềm đại từ, niềm đại bi, đại hỷ, đại xã, Huống là có niềm Pháp không quên mất, niềm tánh luôn luôn xã, Huống là có niềm ký nhất thiết, niềm ký đạo tướng, ký nhất thiết tướng, Huống là có niềm quả dự lưu, niềm quả nhất lai, bất hoàng, A-la-hán, quả vị độc giác, Huống là có niềm tất cả hành đại Bồ-Tát, niềm quả vị giác ngộ cao tột của Chiêu Phật. Các niềm và Pháp sở niềm như thế, nếu có một chút thật có, thì đó là điều không có. Này Thiền Hiện! Đại Bồ-Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa như thế tuy làm việc theo thứ bật, tu học theo thứ bật, hành trì theo thứ bật, nhưng ở trong đó, có tất cả hành nghiệp tâm sở, tu học tâm sở, hành trì tâm sở đều chẳng chuyển, vì tất cả Pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh. Lúc bấy giờ, cụ Thọ Thiền Hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Nếu tất cả Pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh thì đáng lẽ không có sắc, cũng không có thọ, tưởng, hành, thức, đáng lẽ không có nhãn sứ, cũng không có nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ, đáng lẽ không có sắc sứ, cũng không có thanh, hương, vị, súc, Pháp sứ, đáng lẽ không có nhãn giới, cũng không có nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới, đáng lẽ không có sắc giới, cũng không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có nhãn thức giới, cũng không có nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới, đáng lẽ không có sắc giới, cũng không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có nhãn giới, cũng không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có nhãn giới, cũng không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có nhãn giới, cũng không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có nhãn giới, cũng không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có nhãn giới, cũng không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có nhãn giới, cũng không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có nhãn giới, cũng không có thanh, hương, vị, s súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, súc, Pháp giới, đáng lẽ không có thanh, hương, vị, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đổi khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh, đáng lẽ không có 4 niệm trụ, cũng không có 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, đáng lẽ không có thánh đế khổ, cũng không có thánh đế tập, diệt, đạo, đáng lẽ không có 4 tình lự, cũng không có 4 vô lượng, 4 định vô sắc, đáng lẽ không có 8 giải thoát, cũng không có 8 thắng sướng, 9 định thứ đệ, 10 biến sướng, đáng lẽ không có tất cả Pháp môn Tamadea, cũng không có tất cả Pháp môn Dalani, đáng lẽ không có Pháp môn giải thoát không, cũng không có Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, đáng lẽ không có bậc thực khỉ, cũng không có bậc ly tấu, bậc phát quan, bậc dịm tuệ, bậc cực nang thắng, bậc khiện tiền, bậc viễn hành, bậc bất động, bậc thiện tuệ, bậc pháp vân, đáng lẽ không có 5 loại mắt, cũng không có 6 phép thần thông, đáng lẽ không có 10 lực Phật, cũng không có 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, 18 Pháp Phật bất cộng, đáng lẽ không có Đại Từ, cũng không có Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Phả, đáng lẽ không có Pháp không quên mất, cũng không có Tánh Luân Luân Phả. Đáng lẽ không có Trí Nhất Thiết, cũng không có Trí Đạo Tướng, Trí Nhất Thiết Tướng, đáng lẽ không có Quả Dự Lưu, cũng không có Quả Nhất Lai, Bất Hoàng, A-La-Hán, Quả Vị Độc Giác, đáng lẽ không có tất cả hành đại Bồ-Tát, cũng không có Quả Vị Giác Ngộ Cao Tột của Chiêu Phật, đáng lẽ không có Phật, cũng không có Pháp, Tăng, đáng lẽ không có Đạo, cũng không có Quả, đáng lẽ không có Tạp Nhĩm, cũng không có Thanh Tịnh, đáng lẽ không có Hành, cũng không có Đắc, không có Hiện Quán, cho đến tất cả Pháp. Đáng lẽ đều là không. Khi ấy, Cụ Thọ Thiện Hiện Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Đối với Pháp ấy, con không nghi, không hoặc, nhưng vào đời tương lai, có Bí Sâu V, V, hoặc Cầu Thanh Văn Thừa, hoặc Cầu Độc Giác Thừa, hoặc Cầu Đại Bồ-Tát Thừa, họ sẽ nói thế này, Phật dạy, tất cả Pháp đều lấy Vô Tánh làm Tự Tánh. Nếu tất cả Pháp đều lấy Vô Tánh làm Tự Tánh thì ai nhiễm ô, ai tịnh, ai truyền vượt, ai giải thoát? Vì đối với nhiễm ô, thanh tịnh và đối với truyền vượt, giải thoát chẳng hiểu rõ, nên họ phá giới, phá kiến, phá quai nghi, phá tịnh mạng, do phá giới, phá kiến, phá quai nghi, phá tịnh mạng nên đọa điện mục, bàn sanh, quỷ giới, chịu các khổ kịch liệt, luôn hồi sanh tử, khó được giải thoát. Còn quán đời vị Lai sẽ có sự việc đáng kinh sợ như thế, nên hỏi như Lai ứng tránh đặng giác ý nghĩa sâu xa như thế, nhưng đối với điều này, còn không nghi, không hoặc. Phật dạy, hay thay, hay thay, này thiện hiện, đúng vậy, đúng vậy. Đúng như lời ông nói, trong tất cả Pháp lấy vô tánh làm tự tánh, tánh hữu, tánh vô đều chẳng thể nắm bắt được. Ở đây chẳng nên chấp tánh hữu, tánh vô. L.I.V.I. Phẩm Vô Tướng Vô Đắc Không Mục Bây giờ, Cụ Thọ Thiện Hiện Bạch Phật Bạch Thế Côn Nếu tất cả Pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh thì Đại Bồ Tát thấy những nghĩa nào mà vì muốn lợi lạc các hữu tình nên cầu đạt đến quả vị giác ngộ cao tột? Phật dạy, này thiện hiện, vì tất cả Pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh, nên Đại Bồ Tát vì muốn lợi lạc cho các hữu tình mà cầu đạt đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Này thiện hiện, vì các loại hữu tình đoạn kiến thường kiến, trụ hữu sợ đắc khó có thể điều phục, ngu si điên đảo, khó có thể giải thoát. Này thiện hiện, người trụ hữu sợ đắc do tưởng có sợ đắc nên không hiện quán cũng không có quả vị giác ngộ cao tột. Cụ Thọ Thiện Hiện Bạch Phật Bạch Thế Côn Người không có sợ đắc thì có đắc, có hiện quán, có quả vị giác ngộ cao tột chăng? Phật dạy Này thiện hiện, nếu không có sợ đắc tức là đắc, tức là hiện quán, tức là quả vị giác ngộ cao tột vì chẳng hoài pháp giới. Này thiện hiện, nếu có ai ở trong không sợ đắc mà muốn có sợ đắc, muốn được hiện quán, muốn đắc quả vị giác ngộ cao tột thì nên biết kẻ ấy vì muốn hoài pháp giới. Cụ Thọ Thiện Hiện Bạch Phật Bạch Thế Côn Nếu không có sợ đắc tức là đắc, tức là hiện quán, tức là quả vị giác ngộ cao tột thì ở trong cái không sợ đắc, không có đắc, không có hiện quán, cũng không có quả vị giác ngộ cao tột. Nhưng tại sao lại có sự đắc? Bạch Trực Khỉ Bạch Ly Cấu Bạch Phát Quang Bạch Dịnh Tuệ Bạch Trực Nang Thắng Bạch Hiện Tiền Bạch Viễn Hành Bạch Bất Động Bạch Thiện Tuệ Bạch Pháp Vân của Đại Bồ-Tát Tại sao lại có sự đắc vô sanh pháp nhẫn của Đại Bồ-Tát? Tại sao lại có sự đắc thần thông dị thuộc sanh? Tại sao có sự đắc bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã ba-la-mật-đa dị thuộc sanh? Tại sao có Đại Bồ-Tát đắc an trụ pháp dị thuộc sanh như thế, thành thuộc hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, ở chỗ chư Phật cung kính cúng dường thức ăn uống, y phục, tràng hoa, hương xoa, hương bột, xe cổ, anh lạc, tràng phang, bảo cáo, phòng xá, đồ nằm, kỹ nhạc, đèn đút và đủ các thứ đồ dùng thượng diệu của trời, người, thiện căng đạt được cho đến vô thường chánh đẳng bồ đề cùng với quả vô tận, lần lượt cho đến sau khi nhập niết bàn, xá lợi và các đệ tử vẫn còn được cung kính cúng dường đủ thứ 3. Sức thiện căng vẫn chưa hết. Phật dạy, này thiện hiện, vì tất cả Pháp không có sở đắc nên có sự đắc bậc trực khỉ, bậc ly cấu, bậc phát quan, bậc diệm tuệ, bậc trực ngang thắng, bậc khiện tiền, bậc viễn hành, bậc bớt động, bậc thiện tuệ, bậc pháp vân của Đại Bồ-Tát, do đó có sự đắc dị thuộc sanh thần thông, do đó có sự đắc dị thuộc sanh bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã-ba-la-mật-đa, do đó có Đại Bồ-Tát đắc an trụ Pháp dị thuộc sanh như thế, thành thuộc hữu tịnh, nghiêm tịnh cõi Phật, ở chỗ các đức Phật cung kính cúng dường thức ăn uống, y phục, tràn hoa, hương xoa, hương bột, xe cổ, anh lạc, tràn phang, bão cái, phòng xá, đồ nằm, kỹ nhạc, đèn đuốt và đủ các thứ đồ dùng thượng diệu của trời, người, cho đến thiện căng vô tận, cho đến sau khi nhập niết bàn, xá lợi và các đệ tử vẫn còn được cung kính cúng dường đủ thứ mà sức thiện căng vẫn chưa hết. Lúc bấy giờ, cụ thọ thiện hiện bạch Phật, bạch Thế Tôn, nếu tất cả Pháp đều không có sở đắc thì bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã-ba-la-mật-đa và các thần thông có gì sai khác? Phật dạy, này thiện hiện, đã không sở đắc thì bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã-ba-la-mật-đa và các thần thông đều không sai khác. Vì muốn khiến kẻ có sở đắc kia xa lì nhiễm trước nên phương tiện tuyên thuyết bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã-ba-la-mật-đa và các thần thông có tướng sai biệt. Cụ thọ thiện hiện bạch Phật, bạch Thế Tôn, vì nhân duyên gì mà không sở đắc thì bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã-ba-la-mật-đa và các thần thông đều không sai khác. Phật dạy Này thiện hiện Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp trước sự bố thí, chẳng chấp trước người bố thí, chẳng chấp trước người nhận, chẳng chấp trước vật bố thí mà hành bố thí, chẳng chấp trước tịnh giới mà giữ tịnh giới, chẳng chấp trước an nhẫn mà tu an nhẫn, chẳng chấp trước tinh tấn mà tu tinh tấn, chẳng chấp trước tịnh lự mà tu tịnh lự, chẳng chấp trước bát nhã mà tu bát nhã, chẳng chấp trước thần thông mà tu thần thông, chẳng chấp trước bốn niệm trụ mà tu bốn niệm trụ, ch� bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng chấp trước pháp môn giải thoát không mà tu pháp môn giải thoát không, chẳng chấp trước pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng chấp trước bốn tịnh lự mà tu bốn tịnh lự, chẳng chấp trước bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng chấp trước tám giải thoát mà tu tám giải thoát, chẳng chấp trước tám tháng xứng, chính định thứ đệ, mười biến xứng mà tu tám tháng xứng, chính định thứ đệ, mười biến xứng, chẳng chấp trước tất cả pháp môn Tamadea mà tu tất cả pháp môn Tamadea, chẳng chấp trước tất cả pháp môn Dalani mà tu tất cả pháp môn Dalani, chẳng chấp trước mười địa Bồ Tát mà tu mười địa Bồ Tát, chẳng chấp trước năm loại mắt mà tu năm loại mắt, chẳng chấp trước sáu phép thần thông mà tu sáu phép thần thông, chẳng chấp trước mười lực Phật mà tu mười lực Phật, chẳng chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng chấp trước đại tư mà tu đại tư, chẳng chấp trước đại bi, đại hỷ, đại xã mà tu đại bi, đại h� chẳng chấp trước pháp không quên mất mà tu pháp không quên mất, chẳng chấp trước tánh luôn luôn xã mà tu tánh luôn luôn xã, chẳng chấp trước trí nhất thiết mà tu trí nhất thiết, chẳng chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng chấp trước hữu tình mà thành thuộc hữu tình, chẳng chấp trước cõi Phật mà nghiêm tình cõi Phật, chẳng chấp trước tất cả Phật Pháp mà chứng quả vị giác ngộ cao tột. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát nên hành bác nhã Ba-la-mật-đa vô sở đắc như thế. Này thiện hiện! Nếu Đại Bồ-Tát có thể hành bác nhã Ba-la-mật-đa vô sở đắc như thế thì tất cả ác ma và quyến thủ của chúng đều chẳng thể phá hoại. Lúc bấy giờ, cụ thọ thiện hiện bạch Phật. Bạch Thế Tôn Tại sao Đại Bồ-Tát khi hành bác nhã Ba-la-mật-đa nhất tâm nhiếp thọ đầy đủ bố thí, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã Ba-la-mật-đa, cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ 4 tình lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ 4 niềm trụ, 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ thánh đ đạo, cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ 8 giải thoát, 8 thắng sướng, 9 định thứ đệ, 10 biến sướng, cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Đa-la-ni, cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng có thể nhiếp thọ đầy đủ 32 tướng đại sĩ và 80 vẻ đẹp phụ thuộc. Phật dạy Này thiện hiện Nếu Đại Bồ-Tát khi tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, việc hành bố thí Ba-la-mật-đa chẳng lị bác nhã Ba-la-mật-đa là đều do bác nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, việc tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã Ba-la-mật-đa, chẳng lị bác nhã Ba-la-mật-đa là đều do bác nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, việc tu bốn tịnh lự, chẳng lị bác nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, việc tu tịnh giới, an nhẫn, t tinh tấn, tịnh lự, bác nhã Ba-la-mật-đa, chẳng lị bác nhã Ba-la-mật-đa là đều do bác nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, việc tu tịnh lự, an nhẫn, tịnh lự, bác nhã Ba-la-mật-đa, chẳng lị bác nhã Ba-la-mật-đa là đều do bác nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, việc tu tịnh lự, an nhẫn, tịnh lự, bác nhã Ba-la-mật-đa, chẳng lị bác nhã Ba-la-mật-đa là đều do bác nhã Ba-la-mật-đa nhiế việc tu pháp môn giải thoát không, chẳng lị bác nhã Ba-la-mật-đa là đều do bác nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, việc tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng lị bác nhã Ba-la-mật-đa là đều do bác nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, việc an trụ thánh đế khổ, chẳng lị bác nhã Ba-la-mật-đa là đều do bác nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, việc an trụ thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng lị bác nhã Ba-la-mật-đa là đều do bác nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, việc tu tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng lị bác nhã Ba-la-mật-đa là đều do bác nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, việc tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng lị bác nhã Ba-la-mật-đa là đều do bác nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, việc tu tất cả pháp môn Đa-la-ni, chẳng lị bác nhã Ba-la-mật-đa là đều do bác nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ. Cảm ơn các bạn đã theo dõi và hẹn gặp lại.

Listen Next

Other Creators