Home Page
cover of kinhdaibatnha (37)
kinhdaibatnha (37)

kinhdaibatnha (37)

Phuc Tien

0 followers

00:00-51:47

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech
0
Plays
0
Downloads
0
Shares

Audio hosting, extended storage and many more

AI Mastering

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 2 Quyển 37 9. Phẩm Vô Trụ 02 Bạch Thế Tôn Đối với 5 loại mắt, 6 phép thần thông, con chẳng đắt, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là 5 loại mắt, đây là 6 phép thần thông? Bạch Thế Tôn Cái danh 5 loại mắt ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao thế? Vì cái nghĩa của danh 5 loại mắt V, V, đã không có sở hữu, nên cái danh 5 loại mắt, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Bạch Thế Tôn Đối với ngã, hữu tình, cho đến cái biết, cái thấy, con chẳng đắt, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là ngã, hữu tình, cho đến đây là cái biết, cái thấy? Bạch Thế Tôn Cái danh ngã ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao thế? Vì cái nghĩa của danh ngã V, V, đã không có sở hữu, nên cái danh ngã, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Bạch Thế Tôn Đối với tùy niệm Phật, tùy niệm Pháp, tùy niệm Tăng, tùy niệm Giới, tùy niệm Xã, tùy niệm Thiên, tùy niệm Hơi Thở, tùy niệm Nhàm Chán, tùy niệm Chết, tùy niệm Thân, con chẳng đắt, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là tùy niệm Phật, cho đến đây là tùy niệm Thân? Bạch Thế Tôn Cái danh tùy niệm Phật ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao thế? Vì cái nghĩa của danh tùy niệm Phật V, V, đã không có sở hữu, nên cái danh tùy niệm Phật đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Bạch Thế Tôn Đối với tưởng vô thường, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng chết, tưởng tất cả thế gian chẳng đáng vui, tưởng nhàm chán ăn uống, tưởng đoạn trừ, tưởng xa lịa, tưởng tịch diệt, con chẳng đắt, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là tưởng vô thường, cho đến đây là tưởng tịch diệt? Bạch Thế Tôn Cái danh tưởng vô thường ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao thế? Vì cái nhịa của danh tưởng vô thường V, V, đã không có sở hữu, nên cái danh tưởng vô thường V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Bạch Thế Tôn Đối với không, vô tướng, vô nguyện, con chẳng đắt, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là không, cho đến đây là vô nguyện? Bạch Thế Tôn Cái danh không ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao thế? Vì cái nhịa của danh không V, V, đã không có sở hữu, nên cái danh không V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Bạch Thế Tôn Đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã-ba-la-mật-đa, con chẳng đắt, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là bố thí-ba-la-mật-đa, cho đến đây là bác nhã-ba-la-mật-đa? Bạch Thế Tôn Cái danh bố thí-ba-la-mật-đa ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao thế? Vì cái nhịa của danh bố thí-ba-la-mật-đa V, V, đã không có sở hữu, nên cái danh bố thí-ba-la-mật-đa V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Bạch Thế Tôn Đối với bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, còn chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là bốn niệm trụ, cho đến đây là tám chi thánh đạo? Bạch Thế Tôn Cái danh bốn niệm trụ ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao thế? Vì cái nghĩa của danh bốn niệm trụ V, V, đã không có sở hữu, nên cái danh bốn niệm trụ V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Bạch Thế Tôn Đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, còn chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là mười lực của Phật, cho đến đây là trí nhất thiết tướng? Bạch Thế Tôn Cái danh mười lực của Phật ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao thế? Vì cái nghĩa của danh mười lực của Phật V, V, đã không có sở hữu, nên cái danh mười lực của Phật V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Bạch Thế Tôn Đối với sự như huyển, như mộng, như bóng dáng, như tiếng vang, như bóng sáng, như hoa hư không, như bóng nắng, như ảo thành, như trò biến hóa, nằm thủ quận V, V, còn chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là như huyển V, V, nằm thủ quận V, V? Bạch Thế Tôn Cái danh như huyển V, V, nằm thủ quận ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao thế? Vì cái nghĩa của danh như huyển V, V, nằm thủ quận V, V, đã không có sở hữu, nên cái danh như huyển V, V, nằm thủ quận V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Bạch Thế Tôn Đối với tịch tịnh, viễn ly, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, tuyệt chiếu hí luận, chân như pháp giới, pháp tánh, thực tế, bình đẳng tánh, tánh ly sanh, còn chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là tịch tịnh, cho đến đây là tánh ly sanh? Bạch Thế Tôn Cái danh tịch tịnh ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao thế? Vì cái nghĩa của danh tịch tịnh V, V đã không có sở hữu, nên cái danh tịch tịnh V, V, nếu không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Bạch Thế Tôn Đối với các pháp thường hoặc vô thường, lạc hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, không hoặc bất không, vô tướng hoặc hữu tướng, vô nguyện hoặc hữu nguyện, tịch tịnh hoặc bất tịch tịnh, viễn ly hoặc bất viễn ly, tạp nhiễm hoặc thanh tịnh, sanh hoặc diệt, hữu vi hoặc vô vi, hữu lậu hoặc vộ lậu, thiện hoặc phi thiện, hữu tội hoặc vô tội, thế gian hoặc phức thế gian, thuộc sanh tử hoặc pháp thuộc nước bạn, còn chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp là pháp thường, cho đến đây là pháp thuộc nước bạn. Bạch Thế Tôn Cái danh thường ấy v.v. đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao thế? Vì cái nghĩa của danh thường v.v. đã không có sở hữu, nên cái danh thường v.v. đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Bạch Thế Tôn Đối với các pháp quá khứ, vị lai hoặc hiện tại, thiện, bất thiện hoặc vô ký, sự ràng buộc ở cõi dục, sự ràng buộc ở cõi sắc hoặc sự ràng buộc ở cõi vô sắc, học, vô học hoặc phi học, phi vô học, kiến sở đoạn, tu sở đoạn hoặc phi sở đoạn, tại nồi, tại ngoại hoặc tại lưỡng giang, còn chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là pháp quá khứ cho đến đây là tại lưỡng giang? Bạch Thế Tôn Cái danh quá khứ ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao thế? Vì cái nhịa của danh quá khứ V, V, đã không có sở hữu, nên cái danh quá khứ V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Bạch Thế Tôn Đối với tất cả như lai ứng chánh đẳng giác và chư Bồ Tát, thanh văn tăng V, V, trong vô số thế giới chư Phật ở mười phương, còn chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là mười phương thế giới, cho đến đây là thanh văn tăng V, V? Bạch Thế Tôn Cái danh mười phương thế giới ấy V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao thế? Vì cái nghĩa của danh mười phương thế giới V, V, đã không có sở hữu, nên cái danh mười phương thế giới V, V, đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Bạch Thế Tôn Đối với các Pháp đã nói như trên, còn chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là Đại Bồ Tát, đây là Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa? Bạch Thế Tôn Đối với Đại Bồ Tát và đối với Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa, còn đã chẳng đắc, chẳng thấy, thì tại sao khiến con đem Pháp tương ưng Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa dạy bảo, trao truyền cho các Đại Bồ Tát? Cho nên, nếu đem Pháp ấy mà dạy bảo, trao truyền cho các Đại Bồ Tát, thì ác sẽ có sự hối tiếc. Bạch Thế Tôn Các Pháp do nhân duyên hòa hợp đặt bày ra giả danh Đại Bồ Tát và Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa. Hai giả danh này, đối với năm quẩn, bất khả thuyết, đối với mười hai phướng, mười tám giới, sáu giới, bốn thánh đế, mười hai duyên khởi, bất khả thuyết, đối với tham, sân si, tất cả triền kiết, tùy miên, kiến thủ, bất thiện trăng v, v, bất khả thuyết, đối với bốn tình lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, bất khả thuyết, đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông, bất khả thuyết, đối với ngã, hữu tình, cho đến cái biết, cái thấy, bất khả thuyết, đối với mười tùy niệm, mười tưởng, bất khả thuyết, đối với không, vô tướng, vô nguyện, sáu phép Ba-La-Mật-Đa, bất khả thuyết, đối với bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, bất khả thuyết, đối với mười lực của Phật, cho đến trí nhất thuyết tướng, bất khả thuyết, đối với sự như huyển, cho đến như sự biến hóa, năm thủ ủng vê, vê, bất khả thuyết, đối với tịch tịnh, viễn ly, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, tuyệt chiêu hí luận, chân như, Pháp giới, Pháp tánh, thật tế, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, bất khả thuyết, đối với Pháp thường, vô thường, cho đến Pháp thuộc sanh tử, thuộc Niết Bàn, bất khả thuyết, đối với Pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, cho đến Pháp tại nội, tại ngoại, tại lưỡng gian, bất khả thuyết, đối với Phật, bồ tài, bồ tài, bồ tài, bồ tài, bồ tài, bồ tài, b bồ tát hoặc thanh văn tăng vê, vê, trong vô số thế giới ở mười phương bất khả thuyết. Vì sao thế? Vì sự tập hợp, phân tán của các Pháp như trên đã nói, đều chẳng thể đắc, chẳng thể thấy vậy. Bạch Thế Tôn Như trên đã nói, cái danh Năm Bữn V, V, không cách nào có thể nói được. Như vậy, cái danh Đại Bồ Tát, và Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng không cách nào có thể nói được. Như cái danh Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát Tri Chiến, không cách nào có thể nói được. Như vậy, cái danh Đại Bồ Tát, và Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng không cách nào có thể nói được. Bạch Thế Tôn Như tất cả, hoặc hữu danh hoặc vô danh, đều không cách nào có thể nói được. Như vậy, cái danh Đại Bồ Tát, và cái danh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng không cách nào có thể nói được. Vì sao thế? Vì cái danh các Pháp như vậy đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao? Vì cái nghĩa của các danh ấy đã không có sở hữu, nên các danh ấy đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Bạch Thế Tôn Vì con y chứ vào nghĩa ấy, nên đối với các Pháp chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân táng, thì tại sao có thể nói đây là cái danh Đại Bồ Tát, đây là cái danh Bát Nhã Ba La Mật Đa? Bạch Thế Tôn Đối với hai cái, hoặc nghĩa, hoặc danh, con đã chẳng đắc, chẳng thấy, thì tại sao khiến con đem Pháp tương tương Bát Nhã Ba La Mật Đa dạy bảo, trao truyền cho các Đại Bồ Tát? Vì vậy, nếu đem Pháp này dạy bảo, trao truyền cho các Đại Bồ Tát, thì ác sẽ có sự hối tiếc. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát được nghe tướng trạng như vậy, khi thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng lo âu, hối hận, tâm ấy chẳng kinh hoàng, chẳng hải hùng, chẳng sợ sệt, nên biết Đại Bồ Tát ấy nhất định đã được an trụ bực bất thối, lấy vô sở trụ làm phương tiện để trụ. Lúc bấy giờ, cụ Thọ thiện hiện lại Bạch Phật, Bạch Thế Tôn. Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi sắc, chẳng nên trụ nơi thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vì sắc, tánh của sắc là không, thọ, tưởng, hành, thức, và tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Bạch Thế Tôn Sắc ấy chẳng phải là không sắc, không sắc ấy chẳng phải là sắc, sắc chẳng lìa không, không chẳng lìa sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi sắc, chẳng nên trụ nơi thọ, tưởng, hành, thức. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi nhãn xứ, chẳng nên trụ nơi nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vì nhãn xứ, tánh của nhãn xứ là không, cho đến ý xứ, tánh của ý xứ là không. Bạch Thế Tôn Nhãn xứ ấy chẳng phải là cái không nhãn xứ, cái không nhãn xứ ấy chẳng phải là nhãn xứ, nhãn xứ chẳng lì không, không chẳng lì nhãn xứ, nhãn xứ tức là không, không tức là nhãn xứ, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ cũng lại như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nhãn xứ, cho đến chẳng nên trụ ý xứ. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi xác xứ, chẳng nên trụ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vì xác xứ, tánh của xác xứ là không cho đến pháp xứ, tánh của pháp xứ là không. Bạch Thế Tôn Xác xứ ấy chẳng phải là cái không của xác xứ, cái không của xác xứ ấy chẳng phải là xác xứ, xác xứ chẳng liệt không, không chẳng liệt xác xứ, xác xứ tức là không, không tức là xác xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng lại như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi xác xứ, cho đến chẳng nên trụ nơi pháp xứ. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi nhãn giới, xác giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Bạch Thế Tôn Nhãn giới, tánh của nhãn giới là không, cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không. Bạch Thế Tôn Nhãn giới ấy chẳng phải là cái không của nhãn giới, cái không của nhãn giới ấy chẳng phải là nhãn giới, nhãn giới chẳng lì không, không chẳng lì nhãn giới, nhãn giới tức là không, không tức là nhãn giới, xác giới, cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng lại như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi nhãn giới, cho đến chẳng phải nên trụ nơi các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi nhãn giới, thanh giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vì nhãn giới, tánh của nhãn giới là không, cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không. Bạch Thế Tôn Nhãn giới ấy chẳng phải là cái không của nhãn giới, cái không của nhãn giới ấy chẳng phải là nhãn giới, nhãn giới chẳng lì không, không chẳng lì nhãn giới, nhãn giới tức là không, không tức là nhãn giới, thanh giới, cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng lại như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi nhãn giới, cho đến chẳng nên trụ nơi các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi tỉ giới, hương giới, tỉ thức giới và tỉ xúc cùng các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vì tỉ giới, tánh của tỉ giới là không, cho đến các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra là không. Bạch Thế Tôn Tỉ giới ấy chẳng phải là cái không của tỉ giới, cái không của tỉ giới ấy chẳng phải là tỉ giới, tỉ giới chẳng lìa không, không chẳng lìa tỉ giới, tỉ giới tức là không, không tức là tỉ giới, hương giới, cho đến các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra cũng lại như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi tỉ giới, cho đến chẳng nên trụ nơi các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi tỉ giới, vì giới, thì tức giới và tỉ xúc cùng các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vì tỉ giới, tánh của tỉ giới là không, cho đến các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra là không. Bạch Thế Tôn Thiệt giới ấy chẳng phải là cái không của thiệt giới, cái không của thiệt giới ấy chẳng phải là thiệt giới, thiệt giới chẳng lì không, không chẳng lì thiệt giới, thiệt giới tức là không, không tức là thiệt giới, vì giới cho đến các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra, cũng lại như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi thiệt giới, cho đến chẳng nên trụ nơi các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vì thân giới, tánh của thân giới là không, cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không. Bạch Thế Tôn Thân giới ấy chẳng phải là cái không của thân giới, cái không của thân giới ấy chẳng phải là thân giới, thân giới chẳng lìa không, không chẳng lìa thân giới, thân giới tức là không, không tức là thân giới, xúc giới, cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng lại như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi thân giới, cho đến chẳng nên trụ nơi các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vì ý giới, tánh của ý giới là không, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không. Bạch Thế Tôn Ý giới ấy, chẳng phải là cái không của ý giới, cái không của ý giới ấy chẳng phải là ý giới, ý giới chẳng lìa không, không chẳng lìa ý giới, ý giới tức là không, không tức là ý giới, pháp giới, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng lại như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi ý giới, cho đến chẳng nên trụ nơi các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi ý giới, chẳng nên trụ nơi thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vì ý giới và tánh của ý giới là không, thủy, hỏa, phong, không, thức giới, và tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không. Bạch Thế Tôn Địa giới ấy chẳng phải là cái không của địa giới, cái không của địa giới ấy chẳng phải là địa giới, địa giới chẳng lì không, không chẳng lì địa giới, địa giới tức là không, không tức là địa giới, thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng lại như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi địa giới, chẳng nên trụ nơi thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi thánh đế khổ, chẳng nên trụ nơi thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vì thánh đế khổ và tánh của thánh đế khổ là không, thánh đế tập, diệt, đạo, và tánh của thánh đế tập, diệt, đạo là không. Bạch Thế Tôn Thánh đế khổ ấy chẳng phải là cái không của thánh đế khổ, cái không của thánh đế khổ ấy chẳng phải là thánh đế khổ, thánh đế khổ chẳng lìa không, không chẳng lìa thánh đế khổ, thánh đế khổ tức là không, không tức là thánh đế khổ, thánh đế tập, diệt, đạo cũng lại như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi thánh đế khổ, cũng chẳng nên trụ nơi thánh đế tập, diệt, đạo. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi vô minh, chẳng nên trụ nơi hành, thức, danh sách, luật sứ, xuất, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vô minh ấy chẳng phải là cái không của vô minh, cái không của vô minh ấy chẳng phải là vô minh, vô minh chẳng lìa không, không chẳng lìa vô minh, vô minh tức là không, không tức là vô minh, hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não cũng lại như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi vô minh, cho đến chẳng nên trụ nơi lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi bốn tịnh lự, chẳng nên trụ nơi bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi bốn tịnh lự, chẳng nên trụ nơi bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi năm loại mắt, chẳng nên trụ nơi sáu phép thần thông. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vì năm loại mắt và tánh của năm loại mắt là không, sáu phép thần thông và tánh của sáu phép thần thông là không. Bạch Thế Tôn Năm loại mắt ấy chẳng phải là cái không của năm loại mắt, cái không của năm loại mắt ấy chẳng phải là năm loại mắt, năm loại mắt chẳng lìa không, không chẳng lìa năm loại mắt, năm loại mắt tức là không, không tức là năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng lại như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi năm loại mắt, chẳng nên trụ nơi sáu phép thần thông. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi bố thí Ba La Mật Đa, chẳng nên trụ nơi tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, Bát Nhã Ba La Mật Đa. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vì bố thí Ba La Mật Đa và tánh của bố thí Ba La Mật Đa là không, cho đến Bát Nhã Ba La Mật Đa và tánh của Bát Nhã Ba La Mật Đa là không. Bạch Thế Tôn Bố thí Ba La Mật Đa ấy chẳng phải là cái không của bố thí Ba La Mật Đa, cái không của bố thí Ba La Mật Đa ấy chẳng phải là bố thí Ba La Mật Đa. Bố thí Ba La Mật Đa chẳng lịa không, không chẳng lịa bố thí Ba La Mật Đa. Bố thí Ba La Mật Đa tức là không, không tức là bố thí Ba La Mật Đa. Tịnh giới cho đến Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng lại như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi bố thí Ba La Mật Đa, cho đến chẳng nên trụ nơi Bát Nhã Ba La Mật Đa. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ nơi 4 niệm trụ, chẳng nên trụ nơi 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vì 4 niệm trụ và tánh của 4 niệm trụ là không, cho đến 8 chi thánh đạo và tánh của 8 chi thánh đạo là không. Bạch Thế Tôn 4 niệm trụ ấy, chẳng phải là cái không của 4 niệm trụ, cái không của 4 niệm trụ ấy, chẳng phải là 4 niệm trụ, 4 niệm trụ chẳng lìa không, không chẳng lìa 4 niệm trụ, 4 niệm trụ tức là không, không tức là 4 niệm trụ, 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo cũng lại như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng nên trụ nơi 4 niệm trụ, cho đến chẳng nên trụ nơi 8 chi thánh đạo. Bạch Thế Tôn Các đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng nên trụ nơi 10 lực của Phật, chẳng nên trụ nơi 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 Pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vì 10 lực của Phật và tánh của 10 lực của Phật là 0, cho đến trí nhất thiết tướng và tánh của trí nhất thiết tướng là 0. Bạch Thế Tôn 10 lực của Phật ấy chẳng phải là cái 0 của 10 lực của Phật, cái 0 của 10 lực của Phật ấy chẳng phải là 10 lực của Phật, 10 lực của Phật chẳng lìa 0, 0 chẳng lìa 10 lực của Phật, 10 lực của Phật tức là 0, 0 tức là 10 lực của Phật, 4 điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng cũng lại như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng nên trụ nơi 10 lực của Phật, cho đến chẳng nên trụ nơi trí nhất thiết tướng. Bạch Thế Tôn Các đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng nên trụ vào các văn tử, chẳng nên trụ vào sự dẫn dãi của các văn tử, hoặc một lời dẫn dãi, hoặc hai lời dẫn dãi, hoặc nhiều lời dẫn dãi. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vì các văn tử và tánh của các văn tử là 0, sự dẫn dãi của các văn tử và tánh của sự dẫn dãi của các văn tử là 0. Bạch Thế Tôn Các văn tử ấy chẳng phải là cái 0 của các văn tử, cái 0 của các văn tử ấy chẳng phải là các văn tử, các văn tử chẳng liệt không, không chẳng liệt các văn tử, các văn tử tức là 0, 0 tức là các văn tử, sự dẫn dãi của các văn tử cũng lại như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng nên trụ vào các văn tử, chẳng nên trụ vào sự dẫn dãi của các văn tử. Bạch Thế Tôn Các đại Bồ-Tát tu hành Bát Nhã-Ba-La-Mật-Đa chẳng nên trụ vào các pháp thường, vô thường hoặc chẳng nên trụ vào các pháp lạc hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, tịch tịnh hoặc bất tịch tịnh, viễn ly hoặc bất viễn ly. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vì các pháp thường, vô thường và tánh của các pháp thường, vô thường là 0, cho đến các pháp viễn ly, bất viễn ly và tánh của các pháp viễn ly, bất viễn ly là 0. Bạch Thế Tôn Các pháp thường, vô thường ấy chẳng phải là cái 0 của các pháp thường, vô thường, cái 0 của các pháp thường, vô thường ấy chẳng phải là các pháp thường, vô thường, các pháp thường, vô thường chẳng lìa 0, không chẳng lìa các pháp thường, vô thường, các pháp thường, vô thường tức là 0, 0 tức là các pháp thường, vô thường, các pháp khổ lạc cho đến các pháp viễn ly, bất viễn ly cũng lại như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ vào các pháp thường, vô thường, cho đến chẳng nên trụ nơi các pháp viễn ly, bất viễn ly. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ vào chân như, chẳng nên trụ vào pháp giới, pháp tánh, thực tế, tánh bình đẳng, tánh ly xanh. Vì sao? Bạch Thế Tôn Chân như và tánh của chân như là không, cho đến tánh ly xanh và tánh của tánh ly xanh là không. Bạch Thế Tôn Chân như ấy chẳng phải là cái không của chân như, cái không của chân như ấy chẳng phải là chân như, chân như chẳng lìa không, không chẳng lìa chân như, chân như tức là không, không tức là chân như, pháp giới cho đến tánh ly xanh cũng lại như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ vào chân như, cho đến chẳng nên trụ vào tánh ly xanh. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ vào tất cả pháp môn Đà La Ni, chẳng nên trụ vào tất cả pháp môn Tam Ma Địa. Vì sao? Bạch Thế Tôn Tất cả pháp môn Đà La Ni và tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni là không, tất cả pháp môn Tam Ma Địa và tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không. Bạch Thế Tôn Tất cả pháp môn Đà La Ni ấy chẳng phải là cái không của tất cả pháp môn Đà La Ni. Cái không của tất cả pháp môn Đà La Ni ấy chẳng phải là tất cả pháp môn Đà La Ni. Tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng liệt không, không chẳng liệt các pháp tất cả pháp môn Đà La Ni. Tất cả pháp môn Đà La Ni tức là không, không tức là tất cả pháp môn Đà La Ni. Tất cả pháp môn Tam Ma Địa cũng lại như vậy. Vì vậy, Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát tu hành bác nhã Ba La Mật Đa chẳng nên trụ vào tất cả pháp môn Đà La Ni, chẳng nên trụ vào tất cả pháp môn Tam Ma Địa. Lúc bấy giờ, Cụ Thọ Thiện hiện lại Bạch Phật, Bạch Thế Tôn. Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, cho nên tâm liền trụ vào sắc, trụ vào thọ, tưởng, hành, thức. Vì do sự trụ này nên đối với sắc khởi lên sự gia hành, đối với thọ, tưởng, hành, thức khởi lên sự gia hành. Vì do sự gia hành này nên chẳng thể nhức thọ bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể viên mạng bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào nhãn xứ, trụ vào nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ. Vì do sự trụ này nên đối với nhãn xứ khởi lên sự gia hành, cho đến đối với ý xứ khởi lên sự gia hành. Vì do sự gia hành này nên chẳng thể nhức thọ bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể viên mạng bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào sát xứ, trụ vào thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì do sự trụ này nên đối với sát xứ khởi lên sự gia hành, cho đến đối với pháp xứ khởi lên sự gia hành. Vì do sự gia hành này nên chẳng thể nhức thọ bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng phải thể viên mạng bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào nhãn giới, trụ vào sát giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì do sự trụ này nên đối với nhãn giới khởi lên sự gia hành, cho đến đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra khởi lên sự gia hành. Vì do sự gia hành này nên chẳng thể nhiếp thọ bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể viên mạng bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào nhãn giới, trụ vào sát giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì do sự trụ này nên đối với nhãn giới khởi lên sự gia hành, cho đến đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra khởi lên sự gia hành. Vì do sự gia hành này nên chẳng thể nhiếp thọ bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể viên mạng bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào nhãn giới, trụ vào hương giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì do sự trụ này nên đối với nhãn giới khởi lên sự gia hành, cho đến đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra khởi lên sự gia hành. Vì do sự gia hành này nên chẳng thể nhất thọ bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể viên mạng bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào thiệt giới, trụ vào vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì do sự trụ này nên đối với thiệt giới khởi lên sự gia hành, cho đến đối với các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra khởi lên sự gia hành. Vì do sự gia hành này nên chẳng thể nhiếp thọ bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể viên mạng bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào thân giới, trụ vào xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì do sự trụ này nên đối với thân giới khởi lên sự gia hành, cho đến đối với các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra khởi lên sự gia hành. Vì do sự gia hành này nên chẳng thể nhiếp thọ bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể viên mạng bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào ý giới, trụ vào pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì do sự trụ này nên đối với ý giới khởi lên sự gia hành, cho đến đối với các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra khởi lên sự gia hành. Vì do sự gia hành này nên chẳng thể nhiếp thọ bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể viên mạng bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào ý giới, trụ vào thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì do sự trụ này nên đối với địa giới khởi lên sự gia hành, cho đến đối với thức giới khởi lên sự gia hành. Vì do sự gia hành này nên chẳng thể nhiếp thọ bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể viên mạng bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào thánh đế khổ, trụ vào thánh đế tập, diệt, đạo. Vì do sự trụ này nên đối với thánh đế khổ khởi lên sự gia hành, đối với thánh đế tập, diệt, đạo khởi lên sự gia hành. Vì do sự gia hành này nên chẳng thể nghiếp thọ bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể viên mạng bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng. Bạch Thế Tôn Nếu đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào vô minh, trụ vào hành, thức, danh sách, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não. Vì do sự trụ này nên đối với vô minh khởi lên sự gia hành cho đến đối với lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não khởi lên sự gia hành. Vì do sự gia hành này nên chẳng thể nghiếp thọ bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể viên mạng bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào bốn tình lự, trụ vào bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì do sự trụ này nên đối với bốn tình lự khởi lên sự gia hành, đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc khởi lên sự gia hành. Vì do sự gia hành này nên chẳng thể nhiết thọ bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể viên mạng bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào năm loại mắt, trụ vào sáu phép thần thông. Vì do sự trụ này nên đối với năm loại mắt khởi lên sự gia hành, đối với sáu phép thần thông khởi lên sự gia hành. Vì do sự gia hành này nên chẳng thể nhiết thọ bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể viên mạng bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào bố thí Ba La Mật Đa, trụ vào tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã Ba La Mật Đa. Vì do sự trụ này nên đối với bố thí Ba La Mật Đa khởi lên sự gia hành, cho đến đối với bác nhã Ba La Mật Đa khởi lên sự gia hành. Vì do sự gia hành này nên chẳng thể nhiếp thọ bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể viên mạng bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào bốn niệm trụ, trụ vào bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Vì do sự trụ này nên đối với bốn niệm trụ khởi lên sự gia hành, cho đến đối với tám chi thánh đạo khởi lên sự gia hành. Vì do sự gia hành này nên chẳng thể nhiếp thọ bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể viên mạng bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ-Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào mười lực của Phật, trụ vào bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật quất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì do sự trụ này, nên đối với mười lực của Phật khởi lên sự gia hành, cho đến đối với trí nhất thiết tướng khởi lên sự gia hành. Vì do sự gia hành này, nên chẳng thể nhiết thọ bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể viên mạng bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, thì bị trái chấp ngã, ngã sở tràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào các văn tử, trụ vào sự dẫn dãi của các văn tử, hoặc một lời dẫn dãi, hoặc hai lời dẫn dãi, hoặc nhiều lời dẫn dãi. Bạch Thế Tôn Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, thì bị trái chấp ngã, ngã sở tràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào các pháp thường, hoặc vô thường, trụ vào các pháp lạc, hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, tịch tịnh hoặc bất tịch tịnh, viễn ly hoặc bất viễn ly. Vì do sự trụ này, nên đối với các pháp thường, hoặc vô thường khởi lên sự gia hạnh, cho đến đối với các pháp viễn ly, bất viễn ly khởi lên sự gia hạnh. Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiết thọ bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể viên mạng bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng. Bạch Thế Tôn Nếu Đại Bồ-Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào tất cả pháp Môn Đa-la-ni, trụ vào tất cả pháp Môn Ta-ma-địa. Vì do sự trụ này, nên đối với tất cả pháp Môn Đa-la-ni khởi lên sự gia hạnh, đối với tất cả pháp Môn Ta-ma-địa khởi lên sự gia hạnh. Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiết thọ bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể viên mạng bác nhã Ba La Mật Đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vì sắc chẳng nên nhiết thọ, nên thọ, tưởng, hành, thức chẳng nên nhiết thọ, sắc đã chẳng nên nhiết thọ, thì liền chẳng phải sắc, thọ, tưởng, hành, thức đã chẳng nên nhiết thọ, liền chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao vậy? Vì bản tánh là không, cho đến tất cả Pháp Môn Đa La Ni chẳng nên nhiết thọ, tất cả Pháp Môn Ta Ma Địa chẳng nên nhiết thọ, Pháp Môn Đa La Ni đã chẳng nên nhiết thọ, thì liền chẳng phải là Pháp Môn Đa La Ni, Pháp Môn Ta Ma Địa đã chẳng nên nhiết thọ, thì liền chẳng phải là Pháp Môn Ta Ma Địa. Vì sao vậy? Vì bản tánh là không. Cái nhiết thọ, tu hành, viên mạng bác nhã Ba La Mật Đa, cũng chẳng nên nhiết thọ. Như vậy, bác nhã Ba La Mật Đa chẳng nên nhiết thọ, thì liền chẳng phải là bác nhã Ba La Mật Đa. Vì sao vậy? Vì bản tánh là không. Như vậy, Đại Bồ-Tát, khi tu hành bác nhã Ba La Mật Đa, nên dùng bản tánh không mà quán tất cả Pháp. Khi sởi lên quán này, thì đối với tất cả Pháp, tầm không sở hành, đó gọi là sự nhiết thọ Ta Ma Địa của Đại Bồ-Tát. Ta Ma Địa này vi diệu, thu thắng, động lớn vô lượng, có khả năng tập hợp tác dụng vô biên, vô ngại, mà tất cả thanh văn, độc giác không có được. Trí nhất thiết tướng đã hoàn thành đó, cũng chẳng nên nhiết thọ. Như vậy, trí nhất thiết tướng đã chẳng nên nhiết thọ, thì liền chẳng phải là trí nhất thiết tướng. Vì sao vậy? Vì nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tảng không, vô biến dị không, bản tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết Pháp không, bất xạ đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn Trí nhất thiết tướng này chẳng phải thủ đắc tướng mà tu đắc. Vì sao vậy? Vì những cái thủ đắc tướng đều là phiền não. Tướng là những gì? Đó là tướng sắt, tướng thọ, tướng, hành, thức, cho đến tướng của tất cả Pháp môn Đà La Ni, tướng của tất cả Pháp môn Ta Ma Địa. Đối với các tướng này mà ai đắm vào, gọi là phiền não. Nếu ai thủ đắc tướng mà tu đắc trí nhất thiết tướng, thì người tu hành giọng mạnh, đối với trí nhất thiết trí, chẳng nên tính giải. Tướng của tính giải ấy là những gì? Đó là, đối với bác nhà Ba La Mật Đa, Pháp sanh lòng tin sâu xa, thanh tịnh. Do sức hiểu biết thù thắng mà tư duy, quan sát trí nhất thiết trí, không dùng tướng làm phương tiện, cũng chẳng phải dùng phi tướng làm phương tiện, vì tướng và phi tướng đều không thể thủ đắc. Người tu hành giọng mạnh ấy, tuy do sức tính giải mà quay về với Phật Pháp, nên gọi là người tùy tính hành, nhưng có khả năng dùng bản tánh không mà ngộ nhập trí nhất thiết trí. À ngộ nhập rồi, chẳng thủ đắc tướng sắc, chẳng thủ đắc tướng họ, tướng, hành, thức, cho đến chẳng thủ đắc tướng tất cả Pháp môn Đa La Ni, chẳng thủ đắc tướng tất cả Pháp môn Ta Ma Địa. Vì sao? Vì tự tướng của tất cả Pháp đều không, nên năng thủ, sở thủ đều chẳng thể nắm bắt được. Như vậy, người tu hành chẳng dùng nội đắc hiện quán mà quán trí nhất thiết trí, chẳng dùng ngoại đắc hiện quán mà quán trí nhất thiết trí, chẳng dùng nội ngoại đắc hiện quán mà quán trí nhất thiết trí, chẳng dùng vô trí đắc hiện quán mà quán trí nhất thiết trí, chẳng dùng dư đắc hiện quán mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng dùng bất đắc hiện quán mà quán trí nhất thiết trí. Vì sao vậy? Người tu hành giọng mạnh ấy, chẳng thấy sở quán là trí nhất thiết trí, chẳng thấy năng quán là bắt nhã, chẳng thấy người quán và chỗ dựa vào để quán. Người tu hành giọng mạnh ấy, chẳng phải đối với nội sắc mà quán trí nhất thiết trí, chẳng phải đối với nội thọ, tưởng, hành, thức mà quán trí nhất thiết trí, chẳng phải đối với ngoại sắc mà quán trí nhất thiết trí, chẳng phải đối với ngoại thọ, tưởng, hành, thức mà quán trí nhất thiết trí, chẳng phải đối với nội, ngoại sắc mà quán trí nhất thiết trí, chẳng phải đối với nội, ngoại thọ, tưởng, hành, thức mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳ chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải li sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng ch� chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lia sắc mà qu

Listen Next

Other Creators