Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bác Nhật Quyển 363 LXI Phẩm Đa Vấn Bất Nhị 13 Cụ Thọ Thiện Hiện Lại Bạch Phật Bạch Thế Tôn Có phải Trụ Thắng Nghĩa, chính đắc quả vị giác ngộ cao tộc chăng? Không Thiện Hiện Bạch Thế Tôn Có phải Trụ Điên Đảo, chính đắc quả vị giác ngộ cao tộc chăng? Không Thiện Hiện Bạch Thế Tôn Nếu chắc an Trụ Thắng Nghĩa, chính đắc quả vị giác ngộ cao tộc, cũng chẳng Trụ Điên Đảo, chính đắc quả vị giác ngộ cao tộc, thì sẽ không có Thế Tôn chính quả vị giác ngộ cao tộc? Không Thiện Hiện Ta tuy chính đắc quả vị giác ngộ cao tộc, nhưng chẳng Trụ Hữu Vi Giới, cũng chẳng Trụ Vô Vi Giới? Này Thiện Hiện Như các vị mà như Lai đã biến hóa tuy chẳng Trụ Hữu Vi Giới, cũng chẳng Trụ Vô Vi Giới, nhưng có đi, đến, ngồi, đứng các vị? Này Thiện Hiện Vị được biến hóa ấy nếu hành Bố Thí Ba La Mật Đa, cũng hành Tịnh Giới, An Nhẫn, Tinh Tấn, Tình Lự, Bác Nhã Ba La Mật Đa, vị được biến hóa ấy nếu Trụ Pháp Không Nội, cũng Trụ Pháp Không Ngoại, Pháp Không Nội Ngoại, Pháp Không Không, Pháp Không Lớn, Pháp Không Thắng Nghĩa, Pháp Không Hữu Vi, Pháp Không Vô Vi, Pháp Không Trốt Cháo, Pháp Không Không Biên Giới, Pháp Không Tản Mạng, Pháp Không Không Đội Khác, Pháp Không Bản Tánh, Pháp Không Tự Tướng, Pháp Không Tổng Tướng, Pháp Không Tất Cả Pháp, Pháp Không Chẳng Thể Nắm Bắt Được, Pháp Không Không Tánh, Pháp Không Tự Tánh, Pháp Không Không Tánh Tự Tánh, vị được biến hóa ấy nếu Trụ Trân Như, cũng Trụ Pháp Giới, Pháp Tánh, Tánh Chẳng Hư Vọng, Tánh Chẳng Đội Khác, Tánh Bình Đẳng, Tánh Ly Xanh, Pháp Đinh, Pháp Trụ, Thật Tế, Cảnh Giới Hư Không, Cảnh Giới Bất Tư Nghì, vị được biến hóa ấy nếu Tù 4 Niệm Trụ, cũng Tù 4 Chánh Đoạn, 4 Thần Túc, 5 Căng, 5 Lực, 7 Chi Đẳng Giác, 8 Chi Thánh Đạo, vị được biến hóa ấy nếu Trụ Thánh Đế Khổ, cũng Trụ Thánh Đế Tập, Diệt, Đạo, vị được biến hóa ấy nếu Tù 4 Tịnh Lự, cũng Tù 4 Vô Lượng, 4 Định Vô Sắc, vị được biến hóa ấy nếu Tù 8 Giải Thoát, cũng Tù 8 Thắng Phướng, 9 Định Thứ Đệ, 10 Biến Phướng, vị được biến hóa ấy nếu Tù Tất Cả Pháp Môn Tam Ma Địa, cũng Tù Tất Cả Pháp Môn Đà La Ni, vị được biến hóa ấy nếu Tù Pháp Môn Giải Thoát Không, cũng Tù Pháp Môn Giải Thoát Vô Tướng, Vô Nguyện, vị được biến hóa ấy nếu Tù 5 Loại Mắt, cũng Tù 6 Phép Thần Thông, vị được biến hóa ấy nếu Tù 10 Lực Phật, cũng Tù 4 Điều Không Sợ, 4 Sự Hiểu Biết Thông Suốt, Đại Tư, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Phả, 18 Pháp Phật Bất Cộng, vị được biến hóa ấy nếu Tù Pháp Không Quên Mất, cũng Tù Tánh Luân Luân Phả, vị được biến hóa ấy nếu Tù Trí Nhất Thiết, cũng Tù Trí Đạo Tướng, Trí Nhất Thiết Tướng, vị được biến hóa ấy nếu Chứng Quả Vị Giác Ngộ Cao Tột, Chuyển Pháp Luân Mầu Nhiệm Làm Các Phật Sự, vị được biến hóa ấy lại biến hóa ra vô lượng hữu tình, rồi trong số hữu tình đó kiến lập 3 nhóm sai biệt như Chánh Tánh Định V, V, Thi Này Thiện Hiện. Theo ý ông thì sao? Các vị mà như Lai đã biến hóa ra đó có phải thật có đi đến cho đến Thường An Trụ, Tư Chứng Quả Vị Giác Ngộ Cao Tột, Chuyển Pháp Luân Mầu Nhiệm Làm Các Phật Sự, an lập 3 nhóm sai biệt chăng? Thiện Hiện Đát Bạch Thế Tôn Không Bạch Thiện Thệ Không Phật Dạy Này Thiện Hiện Như Lai cũng vậy, biết tất cả Pháp đều như sự biến hóa, nói tất cả Pháp đều như sự biến hóa, tuy có việc làm nhưng không chân thật, tuy độ hữu tình nhưng không sở độ, như vị được biến hóa, hóa độ hữu tình. Như vậy, này Thiện Hiện Các Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Balamudda nên biết các vị mà Phật đã biến hóa ra, tuy có làm việc mà không chấp trước. Cụ Thọ Thiện Hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Nếu tất cả Pháp đều như sự biến hóa, thì như Lai cũng vậy. Như vậy thì Phật cùng Hóa Nhân có gì sai biệt? Phật Dạy Này Thiện Hiện Phật cùng Hóa Nhân và tất cả Pháp bình đẳng không sai biệt. Vì sao? Này Thiện Hiện Vì sự việc mà Phật đã làm, thì Hóa Nhân của Phật cũng có thể làm. Thiện Hiện Bạch Phật Nếu không có Phật, Hóa Nhân của Phật có thể làm Phật sự chăng? Phật Dạy Có thể làm Thiện Hiện Bạch Việc đó như thế nào? Phật Dạy Này Thiện Hiện Như ở đời quá khứ có một đấng như Lai ứng chánh đẳng giác tên là Thiện Tịch Tuệ, khi việc Tự Độ và Người Đáng Độ đều đã Độ xong, nhưng không có Bồ Tát đảm nhận việc Thọ Ký, Ngài Bền biến hóa một vị Phật đệ trụ ở thế gian, rồi tự nhập cảnh giới Niết Bàn tuyệt đối. Bây giờ, vị Hóa Phật kia làm các Phật sự trong nửa kiếp, sau nửa kiếp, Thọ Ký cho một vị Đại Bồ Tát, rồi Thị Hiện nhập Niết Bàn. Lúc bấy giờ, Hàng Trời, Người, A Tố là V, V đều cho là Phật kia này nhập Niết Bàn, nhưng Hóa Thân Phật thật không khởi diệt. Như vậy, này Thiện Hiện Đại Bồ Tát Tu Hành Bát Nhã Ba La Mật Đa nên tin các Pháp đều như sự biến hóa. Cụ Thọ Thiện Hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Nếu thân như Lai cùng Hóa Thân không khác, thì làm sao có thể làm Phước Điện Chân Tịnh? Nếu các hữu tình vì việc giải thoát nên đối với như Lai cung kính cúng dường, Phước ấy vô tận, cho đến cuối cùng nhập cảnh giới Niết Bàn tuyệt đối. Cũng vậy, nếu có hữu tình vì việc giải thoát, cúng dường Hóa Phật thì Phước Đức đạt được đáng lẽ cũng vô tận, cho đến cuối cùng cũng nhập Niết Bàn tuyệt đối. Phật Dạy Này Thiện Hiện Như thân như Lai do Tự Pháp Tánh nên có thể làm Phước Điện Thanh Tịnh cho Trời, Người, A Tố là V, V. Hóa Phật cũng vậy, vì do Tự Pháp Tánh nên có thể làm Phước Điện Thanh Tịnh cho Trời, Người, A Tố là V, V. Như thân như Lai nhận người cúng dường, khiến vì Thí Chủ ấy hết sự sanh tử, Phước ấy vô tận. Hóa Phật cũng thế, nhận người cúng dường cũng khiến cho Thí Chủ ấy hết sự sanh tử, Phước ấy vô tận. Này Thiện Hiện Ngoài lượng Phước Đức Đạt được do cúng dường như Lai và hóa Phật ra, nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân nào, đối với như Lai khởi tâm từ kính, tư duy nhớ nghĩ thì Thiện Căng của Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân ấy vô tận, cho đến cuối cùng vượt vòng khổ não. Này Thiện Hiện Ngoài lượng Phước Đức Đạt được do dùng tâm từ kính, nhớ nghĩ như Lai ra, nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân nào vì cúng dường Phật, cho dù chỉ dùng một đoá hoa tung lên hư không, thì Thiện Căng của Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân ấy vô tận, cho đến cuối cùng thoát vòng khổ não. Này Thiện Hiện Ngoài lượng Phước Đức Đạt được do vì cúng dường Phật mà chỉ dùng một đoá hoa tung lên hư không ra, nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân nào, tối thiểu chỉ một lần phương niệm Nam Mô Phật Đạ, thì Thiện Căng của Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân ấy vô tận, cho đến cuối cùng thoát vòng khổ não. Như vậy, này Thiện Hiện Đối với như Lai cung kính cúng dường, thì đạt được công đức lợi ích to lớn số lượng khó lường như thế. Vì vậy, này Thiện Hiện Nên biết, thân như Lai cùng với hóa Phật bình đẳng, không sai biệt, vì dùng các pháp và tánh làm định lượng. Cũng thế, này Thiện Hiện Đại Bồ Tát nên dùng các pháp và pháp tánh mà làm định lượng, tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, dùng phương tiện thiện xảo nhập các pháp và pháp tánh rồi, nhưng đối với các pháp chẳng hoài pháp tánh, nghĩa là chẳng phân biệt. Đây là bác nhã Ba-la-mật-đa, đây là pháp tánh của bác nhã Ba-la-mật-đa, đây là tỉnh lựu, tinh tấn, an nhẫn, tỉnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa, đây là pháp tánh của tỉnh lựu cho đến bố thí Ba-la-mật-đa. Đây là pháp không nội, đây là pháp tánh của pháp không nội, đây là pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không trốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không trọng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không t pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, đây là pháp tánh của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh, đây là chân như, đây là pháp tánh của chân như, đây là pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghị, đây là pháp tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nghị. Đây là 4 niệm trụ, đây là pháp tánh của 4 niệm trụ, đây là 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, đây là pháp tánh của 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo. Đây là thánh đế khổ, đây là pháp tánh của thánh đế khổ, đây là thánh đế tập, diệt, đạo, đây là pháp tánh của thánh đế tập, diệt, đạo. Đây là 4 tịnh lự, đây là pháp tánh của 4 tịnh lự, đây là 4 vô lượng, 4 định vô sắc, đây là pháp tánh của 4 vô lượng, 4 định vô sắc. Đây là 8 giải thoát, đây là pháp tánh của 8 giải thoát, đây là 8 thắng sướng, 9 định thứ đệ, 10 biến sướng, đây là pháp tánh của 8 thắng sướng, 9 định thứ đệ, 10 biến sướng. Đây là tất cả pháp môn Tama địa, đây là pháp tánh của tất cả pháp môn Tama địa, đây là tất cả pháp môn Dalani, đây là pháp tánh của tất cả pháp môn Dalani. Đây là pháp môn giải thoát không, đây là pháp tánh của pháp môn giải thoát không, đây là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, đây là pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Đây là 5 loại mắt, đây là pháp tánh của 5 loại mắt, đây là 6 phép thần thông, đây là pháp tánh của 6 phép thần thông. Đây là 10 lực Phật, đây là pháp tánh của 10 lực Phật, đây là 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp Phật bất cộng, đây là pháp tánh của 4 điều không sợ cho đến 18 pháp Phật bất cộng. Đây là pháp không quên mất, đây là pháp tánh của pháp không quên mất, đây là tánh luôn luôn xã, đây là pháp tánh của tánh luôn luôn xã. Đây là trí nhất thiết, đây là pháp tánh của trí nhất thiết, đây là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, đây là pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Đây là quả dự lưu, đây là pháp tánh của quả dự lưu, đây là quả nhất lai, bất hoàng, A-la-háng, đây là quả vị độc giác, đây là pháp tánh của quả vị độc giác. Đây là tất cả hành đại Bồ-Tát, đây là pháp tánh của tất cả hành Bồ-Tát, đây là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, đây là pháp tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa chẳng nên phân biệt sự sai sát của các pháp và pháp tánh như thế mà hoại pháp tánh. Cụ thọ thiện hiện bạch Phật Bạch Thế Tôn Nếu đại Bồ-Tát chẳng nên hoại các pháp và pháp tánh, thì tại sao như lai tự hoại các pháp và pháp tánh, nghĩa là ngày thường dậy, đây là sắc, đây là thọ, tưởng, hành, thức. Đây là nhãn xứ, đây là nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ. Đây là sắc xứ, đây là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Đây là nhãn giới, đây là nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới. Đây là sắc giới, đây là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Đây là nhãn thức giới, đây là nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới. Đây là nhãn xúc, đây là nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc. Đây là các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, đây là các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Đây là địa giới, đây là thủy, hỏa, phòng, không, thức giới. Đây là vô minh, đây là hành, thức, danh sắc, luật sứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưa, não. Đây là pháp nội, đây là pháp ngoại. Đây là pháp thiện, đây là pháp phi thiện. Đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu. Đây là pháp thế gian, đây là pháp xúc thế gian. Đây là pháp cộng, đây là pháp bất cộng. Đây là pháp có tranh cãi, đây là pháp không tranh cãi. Đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi. Phật đã từng nói các pháp như thế lẽ nào không tự hoại các pháp, pháp tánh. Phật dạy, này thiện hiện, ta chẳng tự hoại các pháp, pháp tánh, chỉ dùng danh tướng phương tiện giả nói các pháp, pháp tánh, khiến các hữu tình được ngộ nhập lý vô sai biệt của các pháp. Phật dạy, này thiện hiện, ta tùy theo thế tục giả lập danh tướng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tư tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng, phương tiện tưởng Ông đã nói, nếu tất cả Pháp chỉ có danh tướng, thì Đại Bồ-Tát vì việc gì mà phát tâm Bồ-đề, hành Bồ-Tát hành, nhưng này thiện hiện. Vì tất cả Pháp chỉ có danh tướng, và danh tướng ấy chỉ giả đặt ra, tánh của danh tướng là không, các loại hữu tình điên đảo chấp trước, lưu chuyển sanh tử, chẳng được giải thoát. Vì vậy, Đại Bồ-Tát phát tâm Bồ-đề, hành Bồ-Tát hành, dần dần chính đắc trí nhất thiết, chuyển bánh xe chánh Pháp, dùng Pháp Ba thừa độ thoát hữu tình, khiến ra khỏi sanh tử, nhập cảnh giới Niết Bàn tuyệt đối, nhưng các danh tướng không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác có thể an lập được. Bây giờ, Cụ Thọ thiện hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Phật nói trí nhất thiết tướng là trí nhất thiết tướng chăng? Phật dạy Này thiện hiện Ta nói trí nhất thiết tướng là trí nhất thiết tướng Cụ Thọ thiện hiện lại Bạch Phật Bạch Thế Tôn Như Lai thường nói trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, ba trí như thế, tướng của nó như thế nào, có gì sai biệt? Phật dạy Này thiện hiện Trí nhất thiết là trí chung cùng Thanh Văn và Độc Giác, trí đạo tướng là trí chung cùng với Đại Bồ Tát, trí nhất thiết tướng là diệu trí riêng có của chư như Lai ứng chánh Đảng Giác Cụ Thọ thiện hiện lại Bạch Phật Bạch Thế Tôn Vì duyên gì mà trí nhất thiết là trí chung cùng Thanh Văn và Độc Giác? Phật dạy Này thiện hiện Vì với trí nhất thiết, Thanh Văn, Độc Giác cũng có thể biết rõ 5 quận, 12 xứ, 18 giới v.v. mà không có thể biết tất cả đạo tướng và tất cả pháp, tất cả các loại tướng Cụ Thọ thiện hiện lại Bạch Phật Bạch Thế Tôn Vì duyên gì mà trí đạo tướng là trí chung cùng Đại Bồ Tát? Phật dạy Này thiện hiện Các Đại Bồ Tát nên học biết hết tất cả đạo tướng, đó là đạo tướng Thanh Văn, đạo tướng Độc Giác, đạo tướng Bồ Tát, đạo tướng Như Lai Các Đại Bồ Tát đối với các đạo này thường nên tu học khiến mau viên mãn, tuy khiến đạo này làm việc nên làm, nhưng không khiến chứng thật tế Cụ Thọ thiện hiện lại Bạch Phật Bạch Thế Tôn Đại Bồ Tát tu đạo Như Lai được viên mãn rồi, đối với thật tế đâu chẳng tác chứng Phật dạy Này thiện hiện Các Đại Bồ Tát nếu chưa viên mãn việc nhiêm tình cõi Phật, thành thuộc hữu tình, tu các đại nguyện, thì đối với thật tế vẫn chưa nên tác chứng Nếu đã viên mãn việc nhiêm tình cõi Phật, thành thuộc hữu tình, tu các đại nguyện, thì đối với thật tế nên tác chứng Bạch Thế Tôn Đại Bồ Tát do trụ đạo mà chứng thật tế chăng? Không Thiện hiện Bạch Thế Tôn Đại Bồ Tát do trụ phi đạo mà chứng thật tế chăng? Không Thiện hiện Bạch Thế Tôn Đại Bồ Tát do trụ đạo phi đạo mà chứng thật tế chăng? Không Thiện hiện Bạch Thế Tôn Đại Bồ Tát do trụ phi đạo phi phi đạo mà chứng thật tế chăng? Không Thiện hiện Cụ thọ thiện hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Nếu vậy thì Đại Bồ Tát do trụ chỗ nào mà chứng thật tế? Phật dạy Này Thiện hiện Theo ý ông thì sao? Ông do trụ đạo mà được hết các lậu, tâm giải thoát chăng? Bạch Thế Tôn Không Này Thiện hiện Ông do trụ phi đạo mà được hết các lậu, tâm giải thoát chăng? Bạch Thế Tôn Không Này Thiện hiện Ông do trụ đạo phi đạo mà được hết các lậu, tâm giải thoát chăng? Bạch Thế Tôn Không Này Thiện hiện Ông do trụ phi đạo phi phi đạo mà được hết các lậu, tâm giải thoát chăng? Bạch Thế Tôn Không Chẳng phải con có trụ mà được hết các lậu, tâm vĩnh viễn giải thoát Nhưng con hết các lậu, tâm được giải thoát là hoàn toàn không trụ vào đâu Phật dạy Này Thiện hiện Đại Bồ Tát cũng như thế, tu hành bác nhã Palamarda hoàn toàn không trụ vào đâu mà chính thật tế Cụ thọ Thiện hiện lại bạch Phật Bạch Thế Tôn Vì duyên gì mà trí nhất thiết tướng gọi là trí nhất thiết tướng? Phật dạy Này Thiện hiện Biết tất cả Pháp đều đồng một tướng, đó là tướng tịch Việt Vì vậy, gọi là trí nhất thiết tướng Lại nữa, Thiện hiện Các hành, trạng, tướng có khả năng biểu hiện các Pháp Như lai có khả năng như thật hiểu biết, vì vậy gọi là trí nhất thiết tướng Cụ thọ Thiện hiện bạch Phật Bạch Thế Tôn Hoặc trí nhất thiết, hoặc trí đạo tướng, hoặc trí nhất thiết tướng, ba trí như thế đoạn trừ các phiền não có sai biệt chăng? Có trí đoạn còn, có trí đoạn hết chăng? Phật dạy Này Thiện hiện Chẳng phải sự đoạn trừ các phiền não có sai biệt Nhưng chưa như lai ứng chánh đẳng giác, đều đã vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí phiền não tương tục Còn Thanh Văn, độc giác chưa đoạn trừ vĩnh viễn tập khí tương tục Bạch Thế Tôn Các phiền não dứt trừ, đắc vô vi chăng? Này Thiện hiện Đúng vậy Bạch Thế Tôn Thanh Văn, độc giác không đắc vô vi, phiền não có đoạn chăng? Này Thiện hiện Không Bạch Thế Tôn Trong pháp vô vi có sai biệt chăng? Này Thiện hiện Không Bạch Thế Tôn Nếu pháp vô vi không sai biệt, thì tại sao Phật nói tất cả như lai ứng chánh đẳng giác vĩnh viễn đoạn trừ tập khí tương tục Còn Thanh Văn, độc giác vẫn chưa vĩnh viễn đoạn trừ tập khí tương tục Này Thiện hiện Tập khí tương tục, Phật chẳng phải phiền não, nhưng các Thanh Văn và các độc giác tuy đã đoạn trừ phiền não, nhưng vẫn còn một phần nhỏ giống như tham, sân, si, ảnh hưởng thân, ngữ, ý, đó chính là tập khí tương tục Nó tương tục ở hàng phàm phu mu si, có thể dẫn giác vô nghĩa, chẳng phải tương tục ở Thanh Văn, độc giác để dẫn giác việt vô nghĩa Tất cả tập khí tương tục như thế, chư Phật vĩnh viễn không còn Bây giờ, cụ Thọ Thiện hiện bạch Phật Bạch Thế Tôn À ơ và Niết Bàn đều không có tự tánh, thì tại sao Phật nói, đây là Dự Lưu, đây là Nhất Lai, đây là Bất Hoàng, đây là A-La-Hán, đây là độc giác, đây là Đại Bồ-Tát, đây là Như Lai ứng chánh đẳng giác Phật dạy Này Thiện hiện Hoặc Dự Lưu, hoặc Nhất Lai, hoặc Bất Hoàng, hoặc A-La-Hán, hoặc độc giác, hoặc Đại Bồ-Tát, hoặc các Như Lai ứng chánh đẳng giác, tất cả bật ấy đều hiện rõ vô vi Bạch Thế Tôn Trong Pháp vô vi thật có ý nghĩa sai biệt giữa Dự Lưu cho đến Như Lai ứng chánh đẳng giác chăng? Này Thiện hiện Không Bạch Thế Tôn Nếu vậy, thì tại sao Phật nói Dự Lưu cho đến Như Lai ứng chánh đẳng giác, tất cả đều hiện rõ vô vi? Này Thiện hiện Ta nương vào thế tục mà nói hiện thì chứ không y cứ vào thắng nghĩa, chẳng phải trong thắng nghĩa có thể có sự hiện thị. Vì sao? Này Thiện hiện Vì chẳng phải trong thắng nghĩa có con đường ngôn ngữ, hoặc tuệ phân biệt, hoặc cả hai thứ. Nhưng đoạn trừ giới hạn kia để kiến lập cho đời sau. Cụ thỏ Thiện hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Tự tướng tất cả Pháp đều là không, khi đời trước còn không có, húng gì có đời sau? Như thế tại sao có thể lập nên đời sau? Phật dạy Này Thiện hiện Đúng vậy Đúng vậy Đúng như lời ông nói, tự tướng của các Pháp sở hữu đều không, đời trước còn không có húng là có đời sau, kiến lập cái có đời sau, nhất định không có điều đó. Nhưng các hữu tình chẳng thể hiểu rõ tự tướng của các Pháp sở hữu đều không. Vì sự ít lợi cho họ nên phương tiện nói đây là đời trước, đây là đời sau. Nhưng trong cái tự tướng của tất cả các Pháp, đời trước đời sau đều chẳng thể nắm bắt được. Như vậy, này Thiện hiện Đại Bồ-Tát đạt được tự tướng không của tất cả Pháp rồi, nên hành bác nhả Ba-la-mật-đa. Này Thiện hiện Nếu Đại Bồ-Tát đạt được tự tướng của tất cả Pháp đều là không, tu hành bác nhả Ba-la-mật-đa, thì đối với các Pháp, không có chấp trước, đó là không chấp trước Pháp trong, Pháp ngoài, Pháp thiện, Pháp chẳng thiện, Pháp thế gian, Pháp khức thế gian, Pháp hữu lậu, Pháp vô lậu, Pháp hữu vi, Pháp vô vi, hoặc Pháp thanh văn, hoặc Pháp độc giác, hoặc Pháp Bồ-Tát, hoặc Pháp như lai, đối với tất cả Pháp như thế, đều không chấp trước. Cụ thỏ Thiện hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Như lai thường nói bác nhả Ba-la-mật-đa. Vậy, bác nhả Ba-la-mật-đa vì ý nghĩa gì mà gọi là bác nhả Ba-la-mật-đa? Phật dạy Này Thiện hiện Bác nhả Ba-la-mật-đa như thế đạt đến bờ bên kia rốt tráo của tất cả Pháp, cho nên gọi là bác nhả Ba-la-mật-đa. Lại nữa, Thiện hiện Do bác nhả Ba-la-mật-đa này, mà tất cả thanh văn, độc giác, Bồ-Tát và chưa nhiều lai ứng chánh đẳng giác có thể đạt đến bờ bên kia, cho nên gọi là bác nhả Ba-la-mật-đa. Lại nữa, Thiện hiện Tất cả như lai ứng chánh đẳng giác và các chúng đại Bồ-Tát, dùng bác nhả Ba-la-mật-đa ấy đi vào thắng nghĩa mà phân tích các Pháp, như phân tích các sách đến điểm vi tế nhất còn chẳng thấy có điểm nhỏ nào thật có thể nắm bác được, cho nên gọi là bác nhả Ba-la-mật-đa. Lại nữa, Thiện hiện Ở trong bác nhả Ba-la-mật-đa này, bao hàm chân như thật tế, pháp giới, cho nên gọi là bác nhả Ba-la-mật-đa. Lại nữa, Thiện hiện Chẳng phải bác nhả Ba-la-mật-đa này có phần nhỏ pháp, hoặc hợp, hoặc tan, hoặc hữu sắc, hoặc vô sắc, hoặc hữu kiến, hoặc vô kiến, hoặc hữu đối, hoặc vô đối, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc hữu vi, hoặc vô vi. Vì sao? Này Thiện hiện Vì bác nhả Ba-la-mật-đa như thế vô sắc, vô kiến, vô đối, chỉ có một tướng, đó là vô tướng, cho nên gọi là bác nhả Ba-la-mật-đa. Lại nữa, Thiện hiện Bác nhả Ba-la-mật-đa như thế có khả năng phát sinh tất cả thiện pháp thù thắng, có khả năng phát sinh tất cả trí tuệ biện tài, có khả năng đưa đến tất cả cái vui của thế gian và suốt thế gian, cho nên gọi là bác nhả Ba-la-mật-đa. Lại nữa, Thiện hiện Bác nhả Ba-la-mật-đa như thế sâu xa chắc thật nên chẳng thể lây chuyển hoại diệt bác nhả Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ Tát hành bác nhả Ba-la-mật-đa như thế thì tất cả ác ma và quyến thủ của chúng, thanh văn, độc giác, phạm chiến ngoại đạo, ác hữu, kẻ thù đều chẳng thể phá hoại được. Vì sao? Này Thiện hiện Vì bác nhả Ba-la-mật-đa này giải bày tự tướng của tất cả pháp đều không, các ác ma v.v. đều chẳng thể làm được, cho nên gọi là bác nhả Ba-la-mật-đa. Này Thiện hiện Các Đại Bồ Tát nên như thật tu hành nhễ thú sâu xa của bác nhả Ba-la-mật-đa như thế. Lại nữa, Thiện hiện Nếu Đại Bồ Tát muốn hành nhễ thú sâu xa của bác nhả Ba-la-mật-đa thì nên hành nhễ vô thường, nhễ khổ, nhễ không, nhễ vô ngã, nên hành nhễ khổ trí, nhễ tập trí, nhễ diệt trí, nhễ đạo trí, nên hành nhễ pháp trí, nhễ loại trí, nhễ thế tục trí, nhễ tha tâm trí, nên hành nhễ tận trí, nhễ vô sanh trí, nhễ như thuyết trí. Này Thiện hiện Các Đại Bồ Tát vì hành nhễ thú sâu xa của bác nhả Ba-la-mật-đa nên hành bác nhả Ba-la-mật-đa. Cụ thỏ Thiện hiện Bạch Phật Bạch Thế Tôn Trong bác nhả Ba-la-mật-đa sâu xa này, nhễ cùng phi nhễ đều chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao Đại Bồ Tát vì hành nhễ thú sâu xa của bác nhả Ba-la-mật-đa nên hành bác nhả Ba-la-mật-đa? Phật dạy Này Thiện hiện Đại Bồ Tát vì hành nhễ thú sâu xa của bác nhả Ba-la-mật-đa nên nghĩ thế này, ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của tham dục. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của sân nhuế. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của ngu si. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của tà kiến. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của tà đình. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của các ác kiến thú. Vì sao? Này Thiện hiện Tham dục, sân nhuế, ngu si, tà kiến, tà đình, kiến thú, chân như, thật tế chẳng làm nhễ phi nhễ cho các Pháp. Lại nữa, Thiện hiện Đại Bồ Tát vì hành nhễ thú sâu xa của bác nhả Ba-la-mật-đa nên nghĩ thế này, ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của sắc. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của thọ, tưởng, hành, thức. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của nhãn sứ. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của sắc sứ. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của thanh, hương, vị, súc, Pháp sứ. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của nhãn giới. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của sắc giới. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của thanh, hương, vị, súc, Pháp giới. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của nhãn thức giới. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của nhãn súc. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý súc. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của các thọ do nhãn súc làm duyên sanh ra. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý súc làm duyên sanh ra. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của địa giới. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của vô minh. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của hành, thức, danh sát, luật sứ, súc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ ưu, não. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của bố thí Ba-la-mật-đa. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lự, bác nhã Ba-la-mật-đa. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của pháp không nội. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nhễ, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không trốt tráo, pháp không không biên giới, pháp không tảng mạng, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không trọng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng có thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không không trọng tánh, pháp không trọng tánh, pháp không trọng tánh, pháp không trọng tánh, ph pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của chân như ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, pháp định, pháp trụ, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghị. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của bốn niệm trụ, ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của thánh đế khổ, ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của thánh đế tập, diệt, đạo. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của bốn tình lự, ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của tám giải thoát, ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của tất cả pháp môn Tamadea, ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của tất cả pháp môn Dalani. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của pháp môn giải thoát không, ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của năm loại mắt, ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của sáu phép thần thông. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của mười lực Phật, ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của pháp không quên mất, ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của tánh luôn luôn xã. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của trí nhất thiết, ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của quả dự lưu, ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của quả nhất lai, bất hoàng, A-la-háng. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của quả vị độc giác. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của tất cả hành đại Bồ-Tát. Ta chẳng nên hành nhễ phi nhễ của quả vị giác ngộ cao tộc của chư Phật. Vì sao? Này thiện hiện! Vì khi như lai đắc quả vị giác ngộ cao tộc chẳng thấy có pháp nào có thể cùng với pháp nhỏ nào tạo ra nhễ phi nhễ. Này thiện hiện! Như lai xuất thế, hay chẳng xuất thế, thì các pháp, pháp tánh, pháp trụ, pháp định, thường trụ như thế, không có pháp nào đối với pháp nào làm nhễ phi nhễ. Như vậy, này thiện hiện! Đại Bồ-Tát nên xa liền nhễ phi nhễ, thường hành nhễ thú sâu xa bác nhã ba-la-mật-đa. Cụ thọ thiện hiện bạch Phật! Bạch Thế Tôn! Vì sao bác nhã ba-la-mật-đa chẳng cùng các pháp tạo thành nhễ phi nhễ? Phật dạy! Này thiện hiện! Bác nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với pháp hữu vi và pháp vô vi đều không tạo tác, chẳng phải ân, chẳng phải oán, không thêm, không bớt. Vì vậy, bác nhã ba-la-mật-đa chẳng cùng các pháp tạo thành nhễ phi nhễ. Cụ thọ thiện hiện lại bạch Phật! Bạch Thế Tôn! Chiêu Phật và đệ tử, tất cả hiền thánh đâu chẳng lấy vô vi làm đệ nhất nhễ. Phật dạy! Này thiện hiện! Đúng vậy! Đúng như ông nói! Chiêu Phật và đệ tử, tất cả hiền thánh đều dùng pháp vô vi làm đệ nhất nhễ. Nhưng pháp vô vi chẳng làm thêm, làm bớt các pháp. Này thiện hiện! Thì như chơn như hư không chẳng làm thêm, làm bớt các pháp. Bác nhã ba-la-mật-đa của Đại Bồ-Tát cũng như vậy, chẳng làm thêm, làm bớt các pháp. Vì vậy, bác nhã ba-la-mật-đa chẳng tạo thành nhễ phi nhễ cho các pháp. Cụ thọ thiện hiện bạch Phật! Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-Tát cần phải học bác nhã ba-la-mật-đa vô vi sâu xa mới có thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Phật dạy! Này thiện hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói! Đại Bồ-Tát cần phải học bác nhã ba-la-mật-đa vô vi sâu xa mới có thể chứng đắc trí nhất thiết trí, không dùng hai pháp mà làm phương tiện. Bạch Thế Tôn! Có phải dùng pháp bất nhị, đắc pháp bất nhị chăng? Không! Thiện hiện! Bạch Thế Tôn! Có phải dùng pháp nhị, đắc pháp bất nhị chăng? Không! Thiện hiện! Bạch Thế Tôn! Nếu không có hai pháp, chẳng dùng pháp nhị, pháp bất nhị mà đắc, thì Đại Bồ-Tát làm sao để đắc trí nhất thiết trí? Này thiện hiện! Pháp nhị bất nhị đều chẳng thể nắm bắt được, cho nên trí nhất thiết trí sợ đắc chẳng phải có sợ đắc nên chứng đắc, cũng chẳng phải vô sợ đắc nên chứng đắc, vì Pháp hữu sợ đắc, Pháp vô sợ đắc chẳng thể nắm bắt được. Nếu biết như thế mới chứng đắc trí nhất thiết trí? LXII Phẩm nói thật không một! Bây giờ, cụ Thọ thiện hiện Bạch Phật! Bạch Thế Tôn! Bác nhã Palamata như thế rất là sâu xa! Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-Tát chẳng được hữu tình, lại cũng chẳng được an lập hữu tình, nhưng vì hữu tình mà cầu đến quả vị giác ngộ cao tộc là việc rất khó! Bạch Thế Tôn! Cho như có người muốn các thứ cây trong hư không, không có sắc, không thấy không đối, không nương tựa vào đâu, điều ấy vô cùng khó khăn! Các Đại Bồ-Tát cũng như thế, chẳng được hữu tình, cũng lại chẳng được an lập hữu tình, mà vì hữu tình cầu đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc là việc rất khó! Phật dạy! Này thiện hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói, Bác Nhã-Ba-La-Mật-Đa như thế rất là sâu xa! Các Đại Bồ-Tát chẳng được hữu tình, lại cũng chẳng được an lập hữu tình, mà vì hữu tình cầu đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc là việc rất khó! Này thiện hiện! Các Đại Bồ-Tát tuy chẳng thấy có hữu tình chân thật và sự an lập của chúng, nhưng các hữu tình ngu si điên đảo chấp là thật có, nên luôn hồi sanh tử, chịu khổ vô cùng, vì độ hữu tình kia nên cầu đến quả vị giác ngộ cao tộc, đắt giác ngộ rồi, đoạn trường ngã chấp kia và khiến giải thoát các khổ sanh tử! Này thiện hiện! Thì như có người trồng cây nơi ruộng tốt, người ấy tuy chẳng thấy gốc, thân, cành, lá, hoa quả của cây này, nhưng trồng cây xong, tùy theo thời mà tưới tẩm, chăm sóc dữ viện. Sau đó, cây này dần dần lớn lên, cành, lá, hoa quả đều tươi tốt, mọi người thọ dụng, càng được an ổn. Này thiện hiện! Các đại Bồ Tát cũng giống như thế, tuy chẳng thấy có hữu tình, Phật quả, nhưng vì hữu tình cầu đến quả vị giác ngộ cao tộc, dần dần tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bát ngã ba la mật đa, khi đã viên mãn, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tộc, khiến các hữu tình thọ dụng các thứ lá hoa quả của cây Phật đều được lợi ít. Thiện hiện nên biết! Loại lá ít lợi là các hữu tình nhờ cây Phật này thoát khổ ác thú, hoặc sanh trời vô sở hữu sướng, hoặc sanh tời phi tưởng phi phi tưởng sướng. Quả lợi ít là các hữu tình nhờ cây Phật này, hoặc trù quả dự lưu, hoặc trù quả ngất lai, hoặc trù quả bất hoàng, hoặc trù quả A-la-hán, hoặc trù quả vị độc giác, hoặc trù quả vị giác ngộ cao tộc. Các hữu tình ấy thanh Phật rồi lại dùng cành, lá, hoa, quả của cây Phật làm lợi ít hữu tình, khiến các hữu tình thoát khổ ác thú, được sự an lạc của trời, người, dần dần an lập, khiến nhập cảnh giới niết bàn của ba thừa, đó là cảnh giới niết bàn thanh văn thừa, hoặc cảnh giới niết bàn của độc giác thừa, hoặc cảnh giới niết bàn của vô thường thừa. Hoặc sanh trời vô sở hữu sướng, hoặc sanh tời phi tưởng phi phi tưởng sướng. Quả lợi ít là các hữu tình nhờ cây Phật này, hoặc trù quả dự lưu, hoặc trù quả nhất lai, hoặc trù quả bất hoàng, hoặc trù quả ala-hán, hoặc trù quả vị độc giác, hoặc trù quả vị giác ngộ cao tộc. Các hữu tình ấy thanh Phật rồi lại dùng cành, lá, hoa, quả của cây Phật làm lợi ít hữu tình, khiến các hữu tình thoát khổ ác thú, được sự an lạc của trời, người, dần dần an lập, khiến nhập cảnh giới niết bàn của ba thừa, đó là cảnh giới niết bàn thanh văn thừa, hoặc cảnh giới niết bàn của độc giác thừa, hoặc cảnh giới niết bàn của vô thường thừa. Này thiện hiện! Đại Bồ-Tát ấy, tuy làm việc lợi ích lớn như thế, nhưng hoàn toàn chẳng thấy hữu tình thật sự đắc niết bàn, chỉ thấy các khổ vọng tưởng vắng lặng. Như vậy, này thiện hiện! Các Đại Bồ-Tát tu hành bát nhã Ba-la-mật-đa chẳng được hữu tình và sự an lập họ. Nhưng vì trừ việc ngã chấp điên đảo của họ, mà cầu đạt đến quả vị giác ngộ cao tộc. Do nhân duyên này, nên cho là việc rất khó. Bây giờ, cụ Thọ thiện hiện Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Nên biết, Đại Bồ-Tát tức là như lại ứng chánh đặng giác. Vì sao? Bạch Thế Tôn Vì các Đại Bồ-Tát có khả năng giúp trừ vĩnh viễn tất cả địa ngục, cũng có khả năng giúp trừ vĩnh viễn tất cả bàn xanh, cũng có khả năng giúp trừ vĩnh viễn tất cả quỷ giới, cũng có khả năng giúp trừ vĩnh viễn tất cả vô gián, cũng có khả năng giúp trừ vĩnh viễn tất cả bần cùng, cũng có khả năng giúp trừ vĩnh viễn tất cả đường hạ liệt, cũng có khả năng giúp trừ vĩnh viễn tất cả dục giới, sát giới, vô sát giới. Phật dạy! Này thiện hiện! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói! Nên viết Đại Bồ-Tát tức là như lai ứng chánh đẳng giác. Này thiện hiện! Nếu không có Đại Bồ-Tát phát tâm hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, thì thế gian không có chư Phật quá hướng, vị lai, hiện tại, chính đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng không có độc giác xuất hiện ở đời, cũng không có A-La-Háng xuất hiện ở đời, cũng không có Bất Hoàng xuất hiện ở đời, cũng không có Nhất Lai xuất hiện ở đời, cũng không có Dự Lưu xuất hiện ở đời, cũng không có khả năng giúp trừ vĩnh viễn địa ngục, cũng không có khả năng giúp trừ vĩnh viễn bàn xanh, cũng không có khả năng giúp trừ vĩnh. Viễn quỷ giới, cũng không có khả năng giúp trừ vĩnh viễn vô gián, cũng không có khả năng giúp trừ vĩnh viễn bần cùng, cũng không có khả năng giúp trừ vĩnh viễn đường hạ liệt, cũng không có khả năng giúp trừ vĩnh viễn dục giới, sắc, vô sắc giới. Vì vậy, này thiện hiện! Như ông đã nói, nên biết Đại Bồ-Tát tức là Như Lai ứng chánh đẳng giác. Đúng như thế! Nên biết Đại Bồ-Tát tức là Như Lai ứng chánh đẳng giác. Vì sao? Này thiện hiện! Vì nếu do chân như này an lập Như Lai, tức do chân như này an lập độc giác. Nếu do chân như này an lập độc giác, tức do chân như này an lập thanh văn. Nếu do chân như này an lập thanh văn, tức do chân như này an lập tất cả hiền thánh. Nếu do chân như này an lập tất cả hiền thánh, tức do chân như này an lập sắc. Nếu do chân như này an lập sắc, tức do chân như này an lập thọ, tưởng, hành, thức. Nếu do chân như này an lập thọ, tưởng, hành, thức, tức do chân như này an lập nhãn xứng. Nếu do chân như này an lập nhãn xứng, tức do chân như này an lập nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứng. Nếu do chân như này an lập nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứng, tức do chân như này an lập sắc xứng. Nếu do chân như này an lập sắc xứng, tức do chân như này an lập thanh, hương, vị, xúc, pháp xứng. Nếu do chân như này an lập thanh, hương, vị, xúc, pháp xứng, tức do chân như này an lập nhãn giới. Nếu do chân như này an lập nhãn giới, tức do chân như này an lập nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới. Nếu do chân như này an lập nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới, tức do chân như này an lập sắc giới. Nếu do chân như này an lập sắc giới, tức do chân như này an lập thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Nếu do chân như này an lập thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, tức do chân như này an lập nhãn thức giới. Nếu do chân như này an lập nhãn thức giới, tức do chân như này an lập nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới. Nếu do chân như này an lập nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới, tức do chân như này an lập nhãn xúc. Nếu do chân như này an lập nhãn xúc, tức do chân như này an lập nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc. Nếu do chân như này an lập nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc, tức do chân như này an lập các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Nếu do chân như này an lập các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, tức do chân như này an lập các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Nếu do chân như này an lập các thọ do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, tức do chân như này an lập địa giới. Nếu do chân như này an lập các thọ do nhĩ, tức do chân như này an lập các thọ do nhĩ, tức do chân như này an lập các thọ do nhĩ, tức do chân như này an lập các thọ do nhĩ, tức do chân như này an lập các thọ do nhĩ, tức do chân như này an lập các thọ do nhĩ, tức do chân như này an lập các thọ do nhĩ, tức do chân như này an lập các thọ do nhĩ, tức do chân như này an lập các thọ do nhĩ, tức do chân như này an lập các thọ do nhĩ, tức do chân như này an lập các thọ do nhĩ, tức do chân như này an lập các thọ do nhĩ, tức do chân như này an lập các thọ do nhĩ