black friday sale

Big christmas sale

Premium Access 35% OFF

Home Page
cover of kinhdaibatnha (161)
kinhdaibatnha (161)

kinhdaibatnha (161)

Phuc Tien

0 followers

00:00-47:34

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech

Audio hosting, extended storage and much more

AI Mastering

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 7, Quyển 161, xxx Phẩm So Sánh Công Đức 59. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân về, về, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sứ hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tám giải thoát và tự tánh của tám giải thoát là không, tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sứ và tự tánh của tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sứ là không. Tự tánh của tám giải thoát ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, tám giải thoát chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tám giải thoát V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sứ hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tám giải thoát và tự tánh của tám giải thoát là không, tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sứ và tự tánh của tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sứ là không. Tự tánh của tám giải thoát ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, tám giải thoát chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và cái khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tám giải thoát V. V. có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sứ hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tám giải thoát và tử tánh của tám giải thoát là không, tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sứ và tử tánh của tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sứ là không. Tử tánh của tám giải thoát ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sứ ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, tám giải thoát chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tám giải thoát V. V, có thể nắm bắt được, hũn là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tám giải thoát và tự tánh của tám giải thoát là không, tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sứ và tự tánh của tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sứ là không. Tự tánh của tám giải thoát ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, tám giải thoát chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tám giải thoát V. V, có thể nắm bắt được, cũng là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì bốn niệm trụ và tử thánh của bốn niệm trụ là không, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và tử thánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không. Tử thánh của bốn niệm trụ ấy tức chẳng phải là tử thánh, tử thánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo ấy cũng chẳng phải là tử thánh. Nếu chẳng phải là tử thánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, bốn niệm trụ chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có bốn niệm trụ V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì bốn niệm trụ và tử tánh của bốn niệm trụ là không, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và tử tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không. Tử tánh của bốn niệm trụ ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, bốn niệm trụ chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có bốn niệm trụ V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, Thiện Nam Tử. Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì bốn niệm trụ và tự tánh của bốn niệm trụ là không, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không. Tự tánh của bốn niệm trụ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, bốn niệm trụ chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có bốn niệm trụ V. V, có thể nắm bắt được, cũng là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì bốn niệm trụ và tự tánh của bốn niệm trụ là không, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không. Tự tánh của bốn niệm trụ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, bốn niệm trụ chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có bốn niệm trụ V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Này Triều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V. V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Triều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V. V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán Pháp môn giải thoát không hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì Pháp môn giải thoát không và tự tánh của Pháp môn giải thoát không là không, Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh của Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không. Tự tánh của Pháp môn giải thoát không ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, Pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có Pháp môn giải thoát không về, về, có thể nắm bắt được, hũn là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán Pháp môn giải thoát không hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì Pháp môn giải thoát không và tự tánh của Pháp môn giải thoát không là không, Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh của Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không. Tự tánh của Pháp môn giải thoát không ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, Pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có Pháp môn giải thoát không về. Về, có thể nắm bắt được, cũng là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán Pháp môn giải thoát không hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì Pháp môn giải thoát không và tự tánh của Pháp môn giải thoát không là không, Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh của Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không. Tự tánh của Pháp môn giải thoát không ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, Pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có Pháp môn giải thoát không về. Về, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán Pháp môn giải thoát không hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì Pháp môn giải thoát không và tự tánh của Pháp môn giải thoát không là không, Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh của Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không. Tự tánh của Pháp môn giải thoát không ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, Pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có Pháp môn giải thoát không về. V, có thể nắm bắt được, húng là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán năm loại mắt hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán sáu phép thần thông hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì năm loại mắt và tự tánh của năm loại mắt là không, sáu phép thần thông và tự tánh của sáu phép thần thông là không. Tự tánh của năm loại mắt ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của sáu phép thần thông ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có năm loại mắt V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán năm loại mắt hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán sáu phép thần thông hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì năm loại mắt và tử tánh của năm loại mắt là không, sáu phép thần thông và tử tánh của sáu phép thần thông là không. Tử tánh của năm loại mắt ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của sáu phép thần thông ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có năm loại mắt V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán năm loại mắt hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán sáu phép thần thông hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì năm loại mắt và tử tánh của năm loại mắt là không, sáu phép thần thông và tử tánh của sáu phép thần thông là không. Tử tánh của năm loại mắt ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của sáu phép thần thông ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có năm loại mắt v, v, có thể nắm bắt được, húng là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán năm loại mắt hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán sáu phép thần thông hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì năm loại mắt và tử tánh của năm loại mắt là không, sáu phép thần thông và tử tánh của sáu phép thần thông là không. Tử tánh của năm loại mắt ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của sáu phép thần thông ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có năm loại mắt V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đề, tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Ngươi nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán mười lực Phật hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất trọng hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì mười lực Phật và tử tánh của mười lực Phật là không, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất trọng và tử tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất trọng là không. Tử tánh của mười lực Phật ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất trọng ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, mười lực Phật chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất trọng đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có mười lực Phật V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán mười lực Phật hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất trọng hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì mười lực Phật và tử tánh của mười lực Phật là không, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất trọng và tử tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất trọng là không. Tử tánh của mười lực Phật ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất trọng ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, mười lực Phật chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất trọng đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có mười lực Phật V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán mười lực Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất trọng hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì mười lực Phật và tử tánh của mười lực Phật là không, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất trọng và tử tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất trọng là không. Tử tánh của mười lực Phật ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất trọng ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, mười lực Phật chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất trọng đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có mười lực Phật V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán mười lực Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất trọng hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì mười lực Phật và tự tánh của mười lực Phật là không, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất trọng và tự tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất trọng là không. Tự tánh của mười lực Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất trọng ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, mười lực Phật chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất trọng đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có mười lực Phật V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Này Triều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Triều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán Pháp không quên mất hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán tánh luôn luôn xã hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì Pháp không quên mất và tự tánh của Pháp không quên mất là không, tánh luôn luôn xã và tự tánh của tánh luôn luôn xã là không. Tự tánh của Pháp không quên mất ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tánh luôn luôn xã ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, Pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tánh luôn luôn xã chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có Pháp không quên mất V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, Thiện Nam tử. Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán Pháp không quên mất hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán tánh luôn luôn xã hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì Pháp không quên mất và tự tánh của Pháp không quên mất là không, tánh luôn luôn xã và tự tánh của tánh luôn luôn xã là không. Tự tánh của Pháp không quên mất ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tánh luôn luôn xã ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, Pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tánh luôn luôn xã chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có Pháp không quên mất về, về, có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán Pháp không quên mất hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán tánh luôn luôn xã hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì Pháp không quên mất và tự tánh của Pháp không quên mất là không, tánh luôn luôn xã và tự tánh của tánh luôn luôn xã là không. Tự tánh của Pháp không quên mất ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tánh luôn luôn xã ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, Pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tánh luôn luôn xã chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có Pháp không quên mất về, về, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán Pháp không quên mất hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán tánh luôn luôn xã hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì Pháp không quên mất và tự tánh của Pháp không quên mất là không, tánh luôn luôn xã và tự tánh của tánh luôn luôn xã là không. Tự tánh của Pháp không quên mất ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tánh luôn luôn xã ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, Pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tánh luôn luôn xã chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có Pháp không quên mất về, về, có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V, V, vì người phát tâm vô thường Bồ Đệ, tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa, thì nói thế này, Thiện Nam Tử! Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán trí nhất thiết hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì trí nhất thiết và tự tánh của trí nhất thiết là không, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Tự tánh của trí nhất thiết ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có trí nhất thiết V, V, có thể nắm bắt được, hủng là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán trí nhất thiết hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì trí nhất thiết và tự tánh của trí nhất thiết là không, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Tự tánh của trí nhất thiết ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có trí nhất thiết V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán trí nhất thiết hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì trí nhất thiết và tử tánh của trí nhất thiết là không, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tử tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Tử tánh của trí nhất thiết ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có trí nhất thiết V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán trí nhất thiết hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì trí nhất thiết và tử tánh của trí nhất thiết là không, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tử tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Tử tánh của trí nhất thiết ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có trí nhất thiết V.V. có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V.V. ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V.V. vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà La Ni và tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni là không, tất cả pháp môn Tam Ma Địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không. Tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tất cả pháp môn Tam Ma Địa chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có tất cả pháp môn Đà La Ni v.v. có thể nắm bắt được, cũng là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà La Ni và tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni là không, tất cả pháp môn Tam Ma Địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không. Tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tất cả pháp môn Tam Ma Địa chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả pháp môn Đà La Ni về, về, có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này thì ngam tử. Ngươi nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà La Ni và tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni là không, tất cả pháp môn Tam Ma Địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không. Tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tất cả pháp môn Tam Ma Địa chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả pháp môn Đà La Ni v.v. có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà La Ni và tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni là không, tất cả pháp môn Tam Ma Địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không. Tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tất cả pháp môn Tam Ma Địa chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả pháp môn Đà La Ni V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa chẳng nên quán dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàn hướng, bất hoàn quả, à la hán hướng, à la hán quả hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì dự lưu hướng, dự lưu quả và tử tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả là không, nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàn hướng, bất hoàn quả, à la hán hướng, à la hán quả và tử tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả là không. Tử tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, dự lưu hướng, dự lưu quả chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhất lai hướng cho đến à la hán quả đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có dự lưu hướng V, V có thể nắm bắt được, hữu là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à la hán hướng, à la hán quả hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì dự lưu hướng, dự lưu quả và tự tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả là không, nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à la hán hướng, à la hán quả và tự tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả là không. Tự tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, dự lưu hướng, dự lưu quả chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhất lai hướng cho đến à la hán quả đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có dự lưu hướng V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, Thiện Nam Tử Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàn hướng, bất hoàn quả, à la hán hướng, à la hán quả hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì dự lưu hướng, dự lưu quả và tự tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả là không, nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàn hướng, bất hoàn quả, à la hán hướng, à la hán quả và tự tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả là không. Tự tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, dự lưu hướng, dự lưu quả chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhất lai hướng cho đến à la hán quả đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có dự lưu hướng V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện 5 tử. Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à la hán hướng, à la hán quả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì dự lưu hướng, dự lưu quả và tự tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả là không, nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à la hán hướng, à la hán quả và tự tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả là không. Tự tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, dự lưu hướng, dự lưu quả chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhất lai hướng cho đến à la hán quả đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có dự lưu hướng V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đề, tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tất cả quả vị độc giác hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tất cả quả vị độc giác và tự tánh của tất cả quả vị độc giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị độc giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, tất cả quả vị độc giác chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả quả vị độc giác có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tất cả quả vị độc giác hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tất cả quả vị độc giác và tự tánh của tất cả quả vị độc giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị độc giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, tất cả quả vị độc giác chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả quả vị độc giác có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tất cả quả vị độc giác hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tất cả quả vị độc giác và tự tánh của tất cả quả vị độc giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị độc giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, tất cả quả vị độc giác chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả quả vị độc giác có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tịnh giới Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tất cả quả vị độc giác hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tất cả quả vị độc giác và tự tánh của tất cả quả vị độc giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị độc giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh giới Ba La Mật Đa. Đối với tịnh giới Ba La Mật Đa này, tất cả quả vị độc giác chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả quả vị độc giác có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tịnh giới như thế là tu tịnh giới Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh giới Ba La Mật Đa một cách chân chánh.

Listen Next

Other Creators