Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
The transcription is a passage from the Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa, discussing the concept of not grasping onto any mental objects or phenomena. It emphasizes that all mental objects are ultimately empty and should not be clung to. It also highlights the importance of not clinging to the concepts of self or others, pleasure or pain, and permanence or impermanence. The passage concludes by stating that those who are able to practice the teachings of the Bát Nhã Ba La Mật Đa are truly practicing the Dharma. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 6, Quyển 149, ít ít ít phẩm so sánh Tông Đức 47. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bồ đề tuyên thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa, nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tất cả quả vị độc giác hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tất cả quả vị độc giác và tự tánh của tất cả quả vị độc giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị độc giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đối với Bát Nhã Ba La Mật Đa này, tất cả quả vị độc giác chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả quả vị độc giác có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu Bát Nhã như thế là tu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tất cả quả vị độc giác hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tất cả quả vị độc giác và tự tánh của tất cả quả vị độc giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị độc giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đối với Bát Nhã Ba La Mật Đa này, tất cả quả vị độc giác chẳng thể nắm bắt được thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả quả vị độc giác có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu Bát Nhã như thế là tu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên quán tất cả quả vị độc giác hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tất cả quả vị độc giác và tự tánh của tất cả quả vị độc giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị độc giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đối với Bát Nhã Ba La Mật Đa này, tất cả quả vị độc giác chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả quả vị độc giác có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu Bát Nhã như thế là tu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên quán tất cả quả vị độc giác hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tất cả quả vị độc giác và tự tánh của tất cả quả vị độc giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị độc giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đối với Bát Nhã Ba La Mật Đa này, tất cả quả vị độc giác chẳng thể nắm bắt được, thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả quả vị độc giác có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu Bát Nhã như thế là tu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Này Triều Thi Ca! Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Triều Thi Ca! Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. vì người phát tâm vô thường Bồ Đề tuyên thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa nói thế này, Thiện Nam Tử! Người nên tu Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên quán tất cả hành đại Bồ Tát hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tất cả hành đại Bồ Tát và tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát là không. Tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đối với Bát Nhã Ba La Mật Đa này, tất cả hành đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được, thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả hành đại Bồ Tát v.v. có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu Bát Nhã như thế là tu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, Thiện Nam Tử! Người nên tu Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên quán tất cả hành đại Bồ Tát hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tất cả hành đại Bồ Tát và tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát là không. Tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đối với Bát Nhã Ba La Mật Đa này, tất cả hành đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả hành đại Bồ Tát có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu Bát Nhã như thế là tu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, Thiện Nam Tử! Người nên tu Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên quán tất cả hành đại Bồ Tát hoặc lạc, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tất cả hành đại Bồ Tát và tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát là không. Tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đối với Bát Nhã Ba La Mật Đa này, tất cả hành đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả hành đại Bồ Tát có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu Bát Nhã như thế là tu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, Thiện Nam Tử! Người nên tu Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên quán tất cả hành đại Bồ Tát hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tất cả hành đại Bồ Tát và tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát là không. Tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đối với Bát Nhã Ba La Mật Đa này, tất cả hành đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được, thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả hành đại Bồ Tát có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu Bát Nhã như thế là tu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. vì người phát tâm vô thường bồ đệ tuyên thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa, nói thế này, Thiện Nam Tử! Người nên tu Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không? Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đối với Bát Nhã Ba La Mật Đa này, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được, thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu Bát Nhã như thế là tu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật và tự tánh quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không? Tự tánh quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đối với Bát Nhã Ba La Mật Đa này, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu Bát Nhã như thế là tu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu Bát Nhã Ba La Mật Đa, chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không? Tự tánh quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đối với Bát Nhã Ba La Mật Đa này, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu Bát Nhã như thế là tu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu Bát Nhã Ba La Mật Đa chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật và tự tánh quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không? Tự tánh quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đối với Bát Nhã Ba La Mật Đa này, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được, thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu Bát Nhã như thế là tu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Này Triều Thi Ca! Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Khi ấy, Trời đế thích lại Bạch Phật, Bạch Thế Tôn. Các Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. nói tình lựu Ba La Mật Đa vô sở đắc như thế nào mà gọi là nói tình lựu Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Phật dạy, này Triều Thi Ca! Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. vì người phát tâm vô thường Bồ Đề, tuyên thuyết tình lựu Ba La Mật Đa, nói thế này, Thiện Nam Tử! Người nên tu tình lựu Ba La Mật Đa, chẳng nên quán sắt hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì sắt và tự tánh của sắt là không, thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sắt ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, sắt chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có sắt V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tưởng. Người nên tu tình lựu Ba La Mật Đa chẳng nên quán sắt hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì sắt và tự tánh của sắt là không, thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sắt ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, sắt chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có sắt V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tình lựu Ba La Mật Đa, chẳng nên quán sắt hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì sắt và tự tánh của sắt là không, thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sắt ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, sắt chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có sắt V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tình lựu Ba La Mật Đa, chẳng nên quán sắt hoặc tình, hoặc bất tình, chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc tình, hoặc bất tình. Vì sao? Vì sắt và tự tánh của sắt là không, thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sắt ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, sắt chẳng thể nắm bắt được, thì cái tình, bất tình kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái tình, bất tình kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có sắt V, V, có thể nắm bắt được, cũng là có cái tình và bất tình kia. Nếu người có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết tình lựu Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đề, tuyên thuyết tình lựu Ba La Mật Đa, nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tình lựu Ba La Mật Đa, chẳng nên quá nhãn xứ hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quá nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì nhãn xứ và tự tánh của nhãn xứ là không, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ và tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ là không. Tự tánh của nhãn xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn xứ V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tình lựu Ba La Mật Đa chẳng nên quán nhãn xứ hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì nhãn xứ và tự tánh của nhãn xứ là không, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ và tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ là không. Tự tánh của nhãn xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn xứ V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tình lựu Ba La Mật Đa chẳng nên quán nhãn xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì nhãn xứ và tự tánh của nhãn xứ là không, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ và tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ là không. Tự tánh của nhãn xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn xứ V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tình lựu Ba La Mật Đa chẳng nên quán nhãn xứ hoặc tình, hoặc bất tình, chẳng nên quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tình, hoặc bất tình. Vì sao? Vì nhãn xứ và tự tánh của nhãn xứ là không, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ và tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ là không. Tự tánh của nhãn xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được thì cái tình, bất tình kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tình, bất tình kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có nhãn xứ V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái tình và bất tình kia. Nếu người có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết tình lựu Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tình lựu Ba La Mật Đa, nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tình lựu Ba La Mật Đa, chẳng nên quán xác xứ hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì xác xứ và tự tánh của xác xứ là không, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không. Tự tánh của xác xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, xác xứ chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có xác xứ V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tình lựu Ba La Mật Đa chẳng nên quán xác xứ hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì xác xứ và tự tánh của xác xứ là không, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không. Tự tánh của xác xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, xác xứ chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có xác xứ V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tình lựu Ba La Mật Đa, chẳng nên quán xác xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì xác xứ và tự tánh của xác xứ là không, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không. Tự tánh của xác xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, xác xứ chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có xác xứ V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tình lựu Ba La Mật Đa, chẳng nên quán xác xứ hoặc tình, hoặc bất tình, chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tình, hoặc bất tình. Vì sao? Vì xác xứ và tự tánh của xác xứ là không, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không. Tự tánh của xác xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, xác xứ chẳng thể nắm bắt được, thì cái tình, bất tình kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tình, bất tình kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có xác xứ V, V, có thể nắm bắt được, húng là có cái tình và bất tình kia. Nếu người có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết tình lựu Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tình lựu Ba La Mật Đa, nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tình lựu Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhãn giới hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán sát giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì nhãn giới và tử tánh của nhãn giới là không, sát giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tử tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không. Tử tánh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, nhãn giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sát giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có nhãn giới V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tình lựu Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhãn giới hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán sát giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì nhãn giới và tử tánh của nhãn giới là không, sát giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tử tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không. Tử tánh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, nhãn giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sát giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn giới V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tình lựu Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhãn giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán sát giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì nhãn giới và tử tánh của nhãn giới là không, sát giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tử tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không. Tử tánh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, nhãn giới chẳng thể nắm bắt được, thì trái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sát giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì trái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn giới V. V, có thể nắm bắt được, huống là có trái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện 5 tử. Người nên tu tình lựu Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhãn giới hoặc tình, hoặc bất tình, chẳng nên quán sát giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tình, hoặc bất tình. Vì sao? Vì nhãn giới và tử tánh của nhãn giới là không, sát giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tử tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không. Tử tánh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của sát giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, nhãn giới chẳng thể nắm bắt được thì cái tình, bất tình kia cũng chẳng thể nắm bắt được, sát giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tình, bất tình kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn giới V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái tình và bất tình kia. Nếu người có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Đây Kiều Thi Ca. Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết tình lựu Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tình lựu Ba La Mật Đa, nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tình lựu Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhãn giới hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán thanh giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì nhãn giới và tử tánh của nhãn giới là không, thanh giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tử tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không. Tử tánh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, nhãn giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có nhãn giới V, V, có thể nắm bắt được, cũng là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tình lựu Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhãn giới hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán thanh giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì nhãn giới và tử tánh của nhãn giới là không, thanh giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tử tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không. Tử tánh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, nhãn giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn giới V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, Thiện Nam tử. Ngươi nên tu tình lựu Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhãn giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán thanh giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì nhãn giới và tự tánh của nhãn giới là không, thanh giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, nhãn giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn giới V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tình lựu Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhãn giới hoặc tình, hoặc bất tình, chẳng nên quán thanh giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tình, hoặc bất tình. Vì sao? Vì nhãn giới và tự tánh của nhãn giới là không, thanh giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, nhãn giới chẳng thể nắm bắt được thì cái tình, bất tình kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tình, bất tình kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn giới V. V, có thể nắm bắt được, húng là có cái tình và bất tình kia. Nếu người có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết tình lựu Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tình lựu Ba La Mật Đa, nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tình lựu Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tỷ giới hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tỷ giới và tỷ tánh của tỷ giới là không, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra và tỷ tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không. Tỷ tánh của tỷ giới ấy tức chẳng phải là tỷ tánh, tỷ tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tỷ tánh. Nếu chẳng phải là tỷ tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, tỷ giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có tỷ giới V, V, có thể nắm bắt được, hướng là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tình lựu Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tỷ giới hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tỷ giới và tỷ tánh của tỷ giới là không, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra và tỷ tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không. Tỷ tánh của tỷ giới ấy tức chẳng phải là tỷ tánh, tỷ tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tỷ tánh. Nếu chẳng phải là tỷ tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, tỷ giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tỷ giới V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tình lựu Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tỷ giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tỷ giới và tự tánh của tỷ giới là không, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra và tỷ tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của tỷ giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, tỷ giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tỷ giới V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tình lựu Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tỷ giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tỷ giới và tự tánh của tỷ giới là không, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của tỷ giới ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tình lựu Ba La Mật Đa. Đối với tình lựu Ba La Mật Đa này, tỷ giới chẳng thể nắm bắt được thì cái tình, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tình, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tỷ giới V. V, có thể nắm bắt được, huống là có cái tình và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tình lựu như thế là tu tình lựu Ba La Mật Đa. Này Kiều Thí Ca, thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết tình lựu Ba La Mật Đa một cách chân chánh.