Home Page
cover of kinhdaibatnha (138)
kinhdaibatnha (138)

kinhdaibatnha (138)

Phuc Tien

0 followers

00:00-39:08

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech
0
Plays
0
Downloads
0
Shares

Audio hosting, extended storage and many more

AI Mastering

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 6, Quyển 138, ít ít ít phẩm so sánh công đức 36. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Lại nói thế này, người tu hành tỉnh lựu nên cầu thiệt giới hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vô thường, nên cầu thiệt giới hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu thiệt giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu thiệt giới hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, nên cầu vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tỉnh lựu là tu hành tỉnh lựu ba la mật đa. Đại Kiều Thi Ca Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói thân giới hoặc thường, hoặc cầu vị giới cho đến các thọ do thiệt súc làm duyên sanh ra hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh như thế để nương vào các pháp này mà tu hành tỉnh lựu thì ta gọi là tu hành tỉnh lựu ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ. Đại Kiều Thi Ca Nhiều trước đã nói, nên biết, đều là nói về tỉnh lựu ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ. Lại nữa, Kiều Thi Ca Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói thân giới hoặc thường, hoặc vô thường, nói súc giới, thân thức giới và thân súc cùng các thọ do thân súc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường, nói thân giới hoặc lạc, hoặc khổ, nói súc giới, thân thức giới và thân súc cùng các thọ do thân súc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ, nói thân giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói súc giới, thân thức giới và thân súc cùng các thọ do thân súc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói thân giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói súc giới, thân thức giới và thân súc cùng các thọ do thân súc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tịnh lựu là tu hành tịnh lựu Palamudda. Lại nói thế này, người tu hành tịnh lựu nên cậu thân giới hoặc thường, hoặc vô thường, nên cậu súc giới cho đến các thọ do thân súc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường, nên cậu thân giới hoặc lạc, hoặc khổ, nên cậu súc giới cho đến các thọ do thân súc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ, nên cậu thân giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cậu súc giới cho đến các thọ do thân súc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cậu thân giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cậu súc giới cho đến các thọ do thân súc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cậu các pháp như thế mà tu hành tịnh lựu là tu hành tịnh lựu Palamudda. Này Kiều Thí Ca! Này Kiều Thí Ca! Này Kiều Thí Ca! Này Kiều Thí Ca! Này Kiều Thí Ca! Này Kiều Thí Ca! Này Kiều Thí Ca! Này Kiều Thí Ca! Này Kiều Thí Ca! Này Kiều Thí Ca! Này Kiều Thí Ca! Này Kiều Thí Ca! Này Kiều Thí Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói ý giới hoặc thường, hoặc vô thường, nói pháp giới, ý thức giới và ý súc cùng các thọ do ý súc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường, nói ý giới hoặc lạc, hoặc khổ, nói pháp giới, ý thức giới và ý súc cùng các thọ do ý súc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ, nói ý giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói pháp giới, ý thức giới và ý súc cùng các thọ do ý súc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói pháp giới, ý thức giới và ý súc cùng các thọ do ý súc làm duyên sanh ra hoặc ngã, nói ý giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói pháp giới, ý thức giới và ý súc cùng các thọ do ý súc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tịnh lựu là tu hành tịnh lựu Balamudda. Lại nói thế này, người tu hành tịnh lựu nên cầu ý giới hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu pháp giới cho đến các thọ do ý súc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu ý giới hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu pháp giới cho đến các thọ do ý súc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu ý giới hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu pháp giới cho đến các thọ do ý súc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu ý giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu pháp giới cho đến các thọ do ý súc làm. Duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tịnh lựu là tu hành tịnh lựu Balamudda. Đại Chiều Thi Ca Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người ph tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói địa giới hoặc thường bộ đệ mà nói địa giới ho nên biết đều là nói về tình lực ba la mật đa hữu sở đắc tương tự. Lại nữa, Chiều Thi Ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói vô minh hoặc thường, hoặc vô thường, nói hành, thức, danh sát, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não hoặc thường, hoặc vô thường, nói vô minh hoặc lạc, hoặc khổ, nói hành, thức, danh sát, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não hoặc thường, hoặc vô thường, nói vô minh hoặc lạc, hoặc khổ, nói hành, th ức, danh sát, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não hoặc lạc, hoặc vô thường, nói hành, thức, danh sát, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não hoặc lạc, hoặc vô thường, nói hành, thức, danh sát, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não hoặc thường, nói hành, thức, danh sát, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ Người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tịnh lự là tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa Lại nói thế này, người tu hành tịnh lự nên cầu vô minh hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu vô minh hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu vô minh hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu vô minh hoặc tịnh, hoặc vô ngã, nên cầu hành cho đến lão tử, sầu, th tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tịnh lự là tu hành tịnh lự ba la mật đa. Này Tiểu Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v, v, cầu vô minh hoặc thường, hoặc vô thường, cầu hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não hoặc thường, hoặc vô thường, cầu vô minh hoặc lạc, hoặc khổ, cầu hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não hoặc lạc, hoặc khổ, cầu vô minh hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu vô minh hoặc tử, sầu, thang, khổ, ưu, não hoặc ngã, hoặc v vô minh hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, cầu hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh như thế, để nương vào. Các pháp này mà tu hành tỉnh lựu thì ta gọi là tu hành tỉnh lựu ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ. Này Tiểu Thi Ca! Nhiều trước đã nói, nên biết, đều là nói về tỉnh lựu ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ. Lại nữa, Tiểu Thi Ca! Mật đa hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, nói tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lựu, bát nhã ba la mật đa hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói bố thí ba la. Mật đa hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, nói tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lựu, bát nhã ba la mật đa hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tỉnh lựu là tu hành tỉnh lựu ba la mật đa. Lại nói thế này, người tu hành tỉnh lựu nên cầu bố thí ba la mật đa hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu tỉnh giới cho đến bát nhã ba la mật đa hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu bố thí ba la mật đa hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu tỉnh giới cho đến bát nhã ba la mật đa hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu bố thí ba la mật đa hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu tỉnh giới cho đến bát nhã ba la mật đa hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu bố thí ba la mật đa hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, nên cầu tỉnh giới cho đến bát nhã ba la mật đa hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tỉnh lựu là tu hành tỉnh lựu ba la mật đa. Nếu thiện 5 tử, thiện nữ nhân V, V, cầu bố thí ba la mật đa hoặc thường, hoặc vô thường, cầu tỉnh giới cho đến bát nhã ba la mật đa hoặc thường, hoặc vô thường, cầu bố thí ba la mật đa hoặc lạc, hoặc khổ, cầu tỉnh giới cho đến bát nhã ba la mật đa hoặc lạc, hoặc khổ, cầu bố thí ba la mật đa hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu tỉnh giới cho đến bát nhã ba la mật đa hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu bố thí ba la mật đa hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, cầu tỉnh giới cho đến bát nhã ba la mật đa hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh. Như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tỉnh lựu thì ta gọi là tu hành tỉnh lựu ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ. Này Kiều Thí Ca! Như trước đã nói, nên viết, đều là nói về tỉnh lựu ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ. Lại nữa, Kiều Thí Ca! Nếu thiện 5 tử, thiện nữ nhân V, V, vì người Pháp tâm vô thường bồ đề mà nói Pháp không nội hoặc thường, hoặc vô thường, nói Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không đốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đổi khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh hoặc thường, hoặc vô thường, nói Pháp không nội hoặc lạc, hoặc khổ, nói Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không đốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đổi khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh hoặc lạc, hoặc khổ, nói Pháp không nội hoặc ngả, hoặc vô ngả, nói Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không đốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đổi khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh hoặc ngả, hoặc vô ngả, nói Pháp không nội hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, nói Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không đốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đổi khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không tổng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh hoặc tỉnh, hoặc bất, tỉnh và nếu người có khả năng nương vào các Pháp như thế mà tu hành tỉnh lự là tu hành tỉnh lự ba-la-mật-đa. Lại nói thế này, người tu hành tỉnh lự nên cầu Pháp không nội hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu Pháp không ngoại cho đến Pháp không không tánh tự tánh hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu Pháp không nội hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu Pháp không ngoại cho đến Pháp không không tánh tự tánh hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu Pháp không nội hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu Pháp không ngoại cho đến Pháp không không tánh tự tánh hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu Pháp không nội hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, nên cầu. Pháp không ngoại cho đến Pháp không không tánh tự tánh hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh và nếu người có khả năng cầu các Pháp như thế mà tu hành tỉnh lự là tu hành tỉnh lự ba-la-mật-đa. Này Kiều Thí Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân vê, nói chân như hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, nói Pháp giới, Pháp tánh, nên cầu Pháp không nội hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu Pháp không ngoại cho đến Pháp không không tánh tự tánh hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh như thế để nương vào các Pháp này mà tu hành tỉnh lự thì ta gọi là tu hành tỉnh lự ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ. Này Kiều Thí Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tỉnh lự ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tợ. Lại nữa, Kiều Thí Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân vê, nói chân như hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, nói Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định Pháp, trụ Pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhì hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh và nếu người có khả năng nương vào các Pháp như thế mà tu hành tỉnh lự là tu hành tỉnh lự ba-la-mật-đa. Lại nói thế này, người tu hành tỉnh lự nên cầu chân như hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu Pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nhì hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu chân như hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu Pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nhì hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu chân như hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu Pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nhì hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu chân như hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, nên cầu Pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nhì hoặc tỉnh, hoặc vô ngã, nên cầu Pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nhì hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, và nếu người có khả năng cầu các Pháp như thế mà tu hành tỉnh lự là tu hành tỉnh lự Ba-la-mật-đa. Nói chân như hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, nói Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhì hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, và nếu người có khả năng nương vào các Pháp như thế mà tu hành tỉnh lự là tu hành tỉnh lự Ba-la-mật-đa. Lại nói thế này, người tu hành tỉnh lự nên cầu chân như hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu Pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nhì hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu chân như hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu Pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nhì hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu chân như hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu Pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nhì hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu chân như hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, nên cầu Pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nhì hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, và nếu người có khả năng cầu các Pháp như thế mà tu hành tỉnh lự là tu hành tỉnh lự ba-la-mật-đa. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, cầu chân như hoặc thường, hoặc vô thường, cầu Pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nhì hoặc thường, hoặc vô thường, cầu chân như hoặc lạc, hoặc khổ, cầu Pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nhì hoặc lạc, hoặc khổ, cầu chân như hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu Pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nhì hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu chân như hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, cầu Pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nhì hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh như thế, để nương vào các Pháp này mà. Tu hành tỉnh lựu thì ta gọi là tu hành tỉnh lựu ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tự. Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tỉnh lựu ba-la-mật-đa hữu sở đắc tương tự. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V vì người phát tâm vô thường bồ đệ mà nói thánh đế khổ hoặc thường, hoặc vô thường, nói thánh đế tập, diệt, đạo hoặc thường, hoặc vô thường, nói thánh đế khổ hoặc lạc, hoặc khổ, nói thánh đế tập, diệt, đạo hoặc lạc, hoặc khổ, nói thánh đế khổ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói thánh đế tập, diệt, đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói thánh đế khổ hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, nói thánh đế tập, diệt, đạo hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như... Thế mà tu hành tịnh lự là tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa. Lại nói thế này, người tu hành tịnh lự nên cầu thánh đế khổ hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu thánh đế tập, diệt, đạo hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu thánh đế khổ hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu thánh đế tập, diệt, đạo hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu thánh đế khổ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu thánh đế tập, diệt, đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu thánh đế khổ hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, nên cầu thánh đế tập, diệt, đạo hoặc lạc, hoặc vô ngã, nên cầu thánh đế tập, diệt đạo hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tịnh lự là tu hành tịnh lự Balamarda. Nếu thiện 5 tử, thiện nữ nhân V, V, cầu thánh đế khổ hoặc thường, hoặc vô thường, cầu thánh đế tập, diệt, đạo hoặc thường, hoặc vô thường, cầu thánh đế khổ hoặc lạc, hoặc khổ, cầu thánh đế tập, diệt, đạo hoặc lạc, hoặc khổ, cầu thánh đế khổ hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu thánh đế tập, diệt, đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu thánh đế khổ hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, cầu thánh đế tập, diệt, đạo hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh như thế, để nương vào các pháp, nên cầu thánh các pháp này mà tu hành tịnh lựu thì ta gọi là tu hành tịnh lựu 3, là mật đa hữu sở đắc tương tợ. Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tịnh lựu 3 là mật đa hữu sở đắc tương tợ. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện 5 tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói 4 tịnh lựu hoặc thường, hoặc vô thường, nói 4 vô lượng, 4 định vô sắc hoặc thường, hoặc vô thường, nói 4 tịnh lựu hoặc lạc, hoặc khổ, nói 4 vô lượng, 4 định vô sắc hoặc lạc, hoặc khổ, nói 4 tịnh lựu hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói 4 vô lượng, 4 định vô sắc hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói 4 tịnh lựu hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, nói 4 vô lượng, 4 định vô sắc hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh và nếu người có khả năng nương. Vào các pháp như thế mà tu hành tịnh lựu là tu hành tịnh lựu ba-la-mật-đa. Lại nói thế này, người tu hành tịnh lựu nên cầu 4 tịnh lựu hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu 4 vô lượng, 4 định vô sắc hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu 4 tịnh lựu hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu 4 vô lượng, 4 định vô sắc hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu 4 tịnh lựu hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu 4 vô lượng, 4 định vô sắc hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu 4 tịnh lựu hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, nên cầu 4 vô lượng, 4 định vô sắc hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh và nếu người có khả năng cầu khác. Pháp như thế mà tu hành tịnh lựu là tu hành tịnh lựu ba-la-mật-đa. Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, cầu 4 tịnh lựu hoặc thường, hoặc vô thường, cầu 4 vô lượng, 4 định vô sắc hoặc thường, hoặc vô thường, cầu 4 tịnh lựu hoặc lạc, hoặc khổ, cầu 4 vô lượng, 4 định vô sắc hoặc lạc, hoặc khổ, cầu 4 tịnh lựu hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu 4 vô lượng, 4 định vô sắc hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu 4 tịnh lựu hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, cầu 4 vô lượng, 4 định vô sắc hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tịnh lựu thì ta gọi là tu hành tịnh lựu ba la mật đa hữu sở đắc tương tự. Này Kiều Thi Ca, như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tịnh lựu ba la mật đa hữu sở đắc tương tự. Lại nữa, Kiều Thi Ca, nếu thiện 5 tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói 8 giải thoát hoặc thường, hoặc vô thường, nói 8 thắng phướng, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ hoặc thường, hoặc vô thường, nói 8 giải thoát hoặc lạc, hoặc khổ, nói 8 thắng phướng, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ hoặc lạc, hoặc khổ, nói 8 giải thoát hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói 8 thắng phướng, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói 8 giải thoát hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, nói 8 thắng phướng, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tỉnh lựu là tu hành tỉnh lựu ba la mật đa. Lại nói thế này, người tu hành tỉnh lựu nên cầu 8 giải thoát hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu 8 thắng phướng, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu 8 giải thoát hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu 8 thắng phướng, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu 8 giải thoát hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu 8 thắng phướng, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu 8 giải thoát hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, nên cầu 8 thắng phướng, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tỉnh lựu là tu hành tỉnh lựu ba la mật đa. Đại Kiều Thi Ca Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, cầu 8 giải thoát hoặc thường, hoặc vô thường, cầu 8 thắng phướng, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ hoặc thường, hoặc vô thường, cầu 8 giải thoát hoặc lạc, hoặc khổ, cầu 8 thắng phướng, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ hoặc lạc, hoặc khổ, cầu 8 giải thoát hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu 8 thắng phướng, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu 8 giải thoát hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, cầu 8 thắng phướng, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ hoặc tỉnh, hoặc bất. Tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tịnh lựu thì ta gọi là tu hành tịnh lựu ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ. Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tịnh lựu ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện 5 tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bộ đệ mà nói 4 niềm trụ hoặc thường, hoặc vô thường, nói 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo hoặc thường, hoặc vô thường, nói 4 niềm trụ hoặc lạc, hoặc khổ, nói 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo hoặc lạc, hoặc khổ, nói 4 niềm trụ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói 4 niềm trụ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tịnh lựu là tu hành tịnh lựu ba la mật đa. Lại nói thế này, người tu hành tịnh lựu nên cầu 4 niềm trụ hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu 4 niềm trụ hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu 4 niềm trụ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu 4 niềm trụ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tịnh lựu là tu hành tịnh lựu Palamarda. Này Tiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, cầu 4 niềm trụ hoặc thường, hoặc vô thường, cầu 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo hoặc thường, hoặc vô thường, cầu 4 niềm trụ hoặc lạc, hoặc khổ, cầu 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo hoặc lạc, hoặc khổ, cầu 4 niềm trụ hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu 4 niềm trụ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu 4 chánh đoạn cho đến 8 chi thánh đạo hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương. Vào các pháp này mà tu hành tịnh lựu thì ta gọi là tu hành tịnh lựu Palamarda hữu sở đắc tương tự. Này Tiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tịnh lựu Palamarda hữu sở đắc tương tự. Lại nữa, Tiều Thi Ca! Nếu thiện 5 tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói pháp môn giải thoát không hoặc thường, hoặc vô thường, nói pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc thường, hoặc vô thường, nói pháp môn giải thoát không hoặc lạc, hoặc khổ, nói pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc lạc, hoặc khổ, nói pháp môn giải thoát không hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói pháp môn giải thoát không hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tịnh lựu là tu hành tịnh lựu Palamarda. Lại nói thế này, người tu hành tịnh lựu nên cầu pháp môn giải thoát không hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu pháp môn giải thoát không hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu pháp môn giải thoát không hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu pháp môn giải thoát không hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tịnh lựu là tu hành tịnh lựu ba la mật đa. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, cầu pháp môn giải thoát không hoặc thường, hoặc vô thường, cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc thường, hoặc vô thường, cầu pháp môn giải thoát không hoặc lạc, hoặc khổ, cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc lạc, hoặc khổ, cầu pháp môn giải thoát không hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu pháp môn giải thoát không hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tịnh lựu thì ta gọi là tu hành tịnh lựu ba la mật đa hữu sở đắc tương tự. Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tịnh lựu ba la mật đa hữu sở đắc tương tự. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V vì người phát tâm vô thường bồ đề mà nói 5 loại mắc hoặc thường, hoặc vô thường, nói 6 phép thần thông hoặc thường, hoặc vô thường, nói 5 loại mắc hoặc lạc, hoặc khổ, nói 6 phép thần thông hoặc lạc, hoặc khổ, nói 5 loại mắc hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói 6 phép thần thông hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói 5 loại mắc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói 6 phép thần thông hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tịnh lựu là tu hành tịnh lựu ba la mật đa. Lại nói thế này, người tu hành tịnh lựu nên cầu 5 loại mắc hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu 6 phép thần thông hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu 5 loại mắc hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu 6 phép thần thông hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu 5 loại mắc hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu 6 phép thần thông hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu 5 loại mắc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu 6 phép thần thông hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tịnh lựu là tu hành tịnh lựu ba la mật đa. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. cầu 5 loại mắc hoặc thường, hoặc vô thường, cầu 6 phép thần thông hoặc thường, hoặc vô thường, cầu 5 loại mắc hoặc lạc, hoặc khổ, cầu 6 phép thần thông hoặc lạc, hoặc khổ, cầu 5 loại mắc hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu 6 phép thần thông hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu 5 loại mắc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu 6 phép thần thông hoặc tịnh, để nương vào các pháp này mà tu hành tịnh lựu thì ta gọi là tu hành tịnh lựu ba la mật đa hữu sở, đắc tương tợ. Này Kiều Thi Ca, như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tịnh lựu ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ. Lại nữa, Kiều Thi Ca, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bồ đệ mà nói 10 lực của Phật hoặc thường, hoặc vô thường, nói 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp Phật bất trọng hoặc thường, hoặc vô thường, nói 10 lực của Phật hoặc lạc, hoặc khổ, nói 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp Phật bất trọng hoặc lạc, hoặc khổ, nói 10 lực của Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp Phật bất trọng hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói 10 lực của Phật hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, nói 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp Phật bất trọng hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tịnh lựu là tu hành tịnh lựu Palamudda. Lại nói thế này, người tu hành tịnh lựu nên cầu 10 lực của Phật hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu 4 điều không sợ cho đến 18 pháp Phật bất trọng hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu 10 lực của Phật hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu 4 điều không sợ cho đến 18 pháp Phật bất trọng hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu 10 lực của Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu 4 điều không sợ cho đến 18 pháp Phật bất trọng hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu 10 lực của Phật hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, nên cầu 4 điều không sợ cho đến 18 pháp Phật bất trọng hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tịnh lựu là tu hành tịnh lựu Palamudda. Đại Kiều Thi Ca Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. cầu 10 lực của Phật hoặc thường, hoặc vô thường, cầu 4 điều không sợ cho đến 18 pháp Phật bất trọng hoặc thường, hoặc vô thường, cầu 10 lực của Phật hoặc lạc, hoặc khổ, cầu 10 lực của Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu 4 điều không sợ cho đến 18 pháp Phật bất trọng hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu 10 lực của Phật hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, cầu 4 điều không sợ cho đến 18 pháp Phật bất trọng hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh như thế để nương vào các pháp này mà tu hành tịnh lựu thì ta gọi là tu hành tịnh lựu Palamudda hữu sở đắc tương tự. Đại Kiều Thi Ca Như trước đã nói nên biết đều là nói về tình lựu Palamudda hữu sở đắc tương tự. Lại nữa, Kiều Thi Ca Nếu thiện 5 tử, thiện nữ nhân V, V vì người pháp tâm vô thường bồ đề mà nói pháp không quên mất hoặc thường, hoặc vô thường, nói tánh luôn luôn xả hoặc thường, hoặc vô thường, nói pháp không quên mất hoặc lạc, hoặc khổ, nói tánh luôn luôn xả hoặc lạc, hoặc khổ, nói tánh luôn luôn xả hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói pháp không quên mất hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói tánh luôn luôn xả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp. Như thế mà tu hành tịnh lựu là tu hành tịnh lựu Palamudda. Lại nói thế này, người tu hành tịnh lựu nên cậu pháp không quên mất hoặc thường, hoặc vô thường, nên cậu tánh luôn luôn xả hoặc thường, hoặc vô thường, nên cậu pháp không quên mất hoặc lạc, hoặc khổ, nên cậu tánh luôn luôn xả hoặc lạc, hoặc khổ, nên cậu pháp không quên mất hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cậu tánh luôn luôn xả hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cậu pháp không quên mất hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cậu tánh luôn luôn xả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà. Tu hành tịnh lựu là tu hành tịnh lựu Palamudda. Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, cậu pháp không quên mất hoặc thường, hoặc vô thường, cậu tánh luôn luôn xả hoặc thường, hoặc vô thường, cậu pháp không quên mất hoặc lạc, hoặc khổ, cậu tánh luôn luôn xả hoặc lạc, hoặc khổ, cậu pháp không quên mất hoặc ngã, hoặc vô ngã, cậu tánh luôn luôn xả hoặc ngã, hoặc vô ngã, cậu pháp không quên mất hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cậu tánh luôn luôn xả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tịnh lựu thì ta gọi là tu hành tịnh lựu Palamudda Hữu Sở Đắc Tương Tợ. Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tịnh lựu Palamudda Hữu Sở Đắc Tương Tợ.

Listen Next

Other Creators