Details
Nothing to say, yet
Big christmas sale
Premium Access 35% OFF
Nothing to say, yet
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 6, Quyển 135, ít ít ít phẩm so sánh công đức 33. Này Kiều Thi Ca, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. giáo hóa các loại hữu tình trong mười phương thế giới như số các xông hàng, khiến đều an trụ quả vị độc giác, thì Phước Đức có được chẳng bằng người giáo hóa một hữu tình, khiến hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Kiều Thi Ca. Vì nếu giáo hóa hữu tình, khiến hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, tức là làm cho Phật nhãn trong thế gian chẳng dứt. Vì sao? Vì do có Đại Bồ Tát nên mới có quả dự lưu, nhất Lai, Bất Hoàng, A-La-Hán, và quả vị độc giác. Vì do có Đại Bồ Tát nên mới có như Lai ứng chánh đẳng giác chính các quả vị giác ngộ cao tột. Vì do có Đại Bồ Tát nên mới có Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo, tất cả thế gian quy y cúng dường. Vì vậy nên, Kiều Thi Ca. Tất cả thế gian hoặc Trời, hoặc Ma, hoặc Phạm, hoặc Sa-môn, hoặc Bà-la-môn và A-tố-lạc, nhân phi nhân V, V, nên dùng vô lượng tràng hoa, hương xoa, hương bột V. V, tuyệt dịu, y phục, anh lạc, tràng phang, lọng báu, các thứ ngọc quý, khỉ nhạc, đèn sáng, hết cả vật sở hữu, cùng kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Đại Bồ Tát. Này Kiều Thi Ca. Do đó nên biết, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, sao chép bát nhã Ba-la-mật-đa thầm thâm như thế, biểu tặng người khác độc tụng, hoặc truyền nhau sao chép, truyền bá rộng rãi, thì Phước có được, hơn Phước nói trước vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì tất cả Pháp thiện thù thắng thế gian, suốt thế gian, đã rộng nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa như thế, vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của dòng giỏi lớn sát đế lợi, dòng giỏi lớn Ba-la-môn, dòng giỏi lớn trưởng giả, dòng giỏi lớn cư sĩ. Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của chúng trời Tứ Đại Vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-ma, trời Đỗ-sử-đa, trời Lạc Biến. Hóa, trời Tha-hóa Tự Tại, vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của trời Phạm Chúng, trời Phạm Phụ, trời Phạm Hồi, trời Đại Phạm, vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của trời Quang, trời Thiểu Quang, trời Vô-lượng Quang, trời Thực Quang Tịnh. Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của trời Tình, trời Thiểu Tình, trời Vô-lượng Tình, trời Biến Tình, vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của trời Quảng, trời Thiểu Quảng, trời Vô-lượng Quảng, trời Quảng Quả, vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của trời Vô-phiền, trời Vô-nhịt, trời Thiện Hiện, trời Thiện Kiến. Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của trời Không Vô-biên Sướng, trời Thức Vô-biên Sướng, trời Vô-sở hữu Sướng, trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Sướng, vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của bố thí Ba-la-mật-đa, tình giới Ba-la-mật-đa, an nhẫn Ba-la-mật-đa, tình tấn Ba-la-mật-đa, tình lự Ba-la-mật-đa, bát nhã Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của Pháp Không Nội, Pháp Không Ngoại, Pháp Không Nội Ngoại, Pháp Không Không, Pháp Không Lớn, Pháp Không Thắng Nghĩa, Pháp Không Hữu Vi, Pháp Không Vô Vi, Pháp Không Rốt Tráo, Pháp Không Không Biên Giới, Pháp Không Tản Mạng, Pháp Không Không Đội Khác, Pháp Không Bản Tánh, Pháp Không Tự Tướng, Pháp Không Tổng Tướng, Pháp Không Tất Cả Pháp, Pháp Không Chẳng Thể Nắm Bắt Được, Pháp Không Không Tánh, Pháp Không Tự Tánh, Pháp Không Không Tánh Tự T Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của Pháp Không Nội, Pháp Không Ngoại, Pháp Không Lớn, Pháp Không Thắng Nghĩa, Pháp Không Lớn, Pháp Không Tự Tưởng, Pháp Không Thể Nắm Bắt Được, Pháp Không Chẳng Thể Nắm Bắt Được, Pháp Không Tự T Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của Thánh Đế Khổ, Thánh Đế Tập, Thánh Đế Diệt, Thánh Đế Đạo, Pháp Không Tự T Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của Bốn Tịnh Lự, Bốn Vô Lường, Bốn Định Vô Sắc, Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của Tám Giải Thoát, Tám Thắng Thướng, Chính Định Thứ Đệ, Mười Biến Thướng, Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của Bốn Niệm Trụ, Bốn Chánh Đoạn, Bốn Thần Thánh Đạo, Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của Pháp Môn Giải Thoát Không, Pháp Môn Giải Thoát Vô Tướng, Pháp Môn Giải Thoát Vô Nguyền, Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của Năm Loại Mắt, Sáu Phép Thần Thông, Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của Mười Lực Phật, Bốn Điều Không Sợ, Bốn Sự Hiểu Biết Thông Xuất, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Sả, 18 Pháp Phật bất cộng, Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của Pháp Không Quên Mất, Tánh Luân Luân Sả, Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của Trí Nhất Thiết Tướng, Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của tất cả Pháp Môn Đà-la-ni, tất cả Pháp Môn Tam-ma-địa, Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàng, A-la-hán, và Dự Lưu Hướng, Dự Lưu Quả, Nhất Lai Hướng, Nhất Lai Quả, Bất Hoàng Hướng, Bất Hoàng Quả, A-la-hán Hướng, A-la-hán Qu Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của Độc Giác, và Quả Vị Độc Giác, Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của tất cả Đại Bồ-Tát, và các hành Đại Bồ-Tát, Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nên thế gian mới có được sự hiện hữu của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đặng Giác, và Quả Vị Giác Ngộ Cao Tột của Chư Phật. Lại nữa, Chiều Thi Ca. Ngoài các loại hữu tình trong mười phương thế giới như số các sông hàng này, nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. giáo hóa các loại hữu tình ở tất cả thế giới trong mười phương, khiến đều tu học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông, thì theo ý ông thế nào? Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. ấy, do nhân duyên này, được phước nhiều chăng? Trời Đế Thích Bạch, Bạch Thế Tôn. Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ. Rất nhiều. Phật dạy, này Chiều Thi Ca. Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. sao chép bác nhã Ba-la-mật-đa thầm thâm như thế, biểu tặng người khác độc tụng, hoặc truyền nhau sao chép, truyền bá rộng đải, thì Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. ấy, phước đức có được hơn trước rất nhiều. Vì sao? Chiều Thi Ca. Vì tất cả Pháp vô lậu đã rộng nói trong tạng bí mật bác nhã Ba-la-mật-đa như thế, Bổ đặc Gia-la của chủng tánh Thanh Văn, tu học Pháp này, mau nhập tránh tánh ly xanh của Thanh Văn, đắc quả Dự Lưu, đắc quả Nhất Lai, đắc quả Bất Hoàng, đắc quả A-la-hán, Bổ đặc Gia-la của chủng tánh độc giác tu học Pháp này, mau nhập tránh tánh ly xanh của độc giác, lần lượt chính đắc quả vị độc giác, Bổ đặc Gia-la của chủng tánh Bồ-tát tu học Pháp này, mau nhập tránh tánh ly xanh của Bồ-tát, hành Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Tất cả Pháp vô lậu, đã trọng nói trong tạng bí mật bác nhã Ba-la-mật-đa như thế, đó là Bổ thí Ba-la-mật-đa, tỉnh giới Ba-la-mật-đa, an nhẫn Ba-la-mật-đa, tinh tấn Ba-la-mật-đa, tình lự Ba-la-mật-đa, bác nhã Ba-la-mật-đa, Pháp không nội, Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không trốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đổi khác Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không cộng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh, chân như Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định Pháp, trụ Pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghi, 4 tình lự vô lậu, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 8 dạy thoát, 8 thắng hướng, 9 định thứ đầy, 9 định thứ đầy 4 niệm trụ, 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 500, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, Pháp môn giải thoát không, Pháp môn giải thoát vô tướng, Pháp môn giải thoát vô nguyện, 5 loại mắt, 6 phép thần thông, 10 lực của Phật, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại tư, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 Pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, tất cả Pháp môn Đà La Nhi, tất cả Pháp môn Đà La Nhi, tất cả Pháp môn Đà La Nhi, tất cả Pháp môn Đà La Nhi, tất cả Pháp môn Tam Ba Địa và vô lượng, vô biên Phật Pháp khác, tất cả đều là Pháp vô lậu đã nói trong đó. Này Kiều Thi Ca, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V giáo hóa một hữu tình trụ quả dự lưu, thì Phước Đức có được còn hơn giáo hóa các loại hữu tình ở tất cả thế giới trong 10 phương như thế, khiến đều tu học 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 5 phép thần thông. Vì sao? Kiều Thi Ca, vì các hữu tình tu hành 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 5 phép thần thông chẳng thoát khỏi địa ngục, bàn sanh, quỷ thú, nhưng nếu các hữu tình trụ quả dự lưu thì được vĩnh viễn được thoát khỏi 3 đường ác, húng là giáo hóa, khiến trụ quả nhất lai, bất hoàng, à là háng, thì Phước Đức có được, chẳng hơn kia sao? Này Kiều Thi Ca, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V giáo hóa các loại hữu tình ở tất cả thế giới trong 10 phương đều trụ quả dự lưu, nhất lai, bất hoàng, à là háng, thì Phước Đức có được chẳng bằng người giáo hóa 1 hữu tình, khiến họ an trụ quả vị độc giác. Vì sao? Kiều Thi Ca, vì công đức của quả vị độc giác hơn dự lưu V, V, gấp trăm, ngàn lần. Này Kiều Thi Ca, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V giáo hóa các loại hữu tình ở tất cả thế giới trong 10 phương, khiến đều an trụ quả vị độc giác, thì Phước Đức có được chẳng bằng người giáo hóa 1 hữu tình, khiến hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Kiều Thi Ca, vì nếu giáo hóa hữu tình, khiến hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, tức là làm cho Phật nhãn trong thế gian chẳng dứt. Vì sao? Vì do có Đại Bồ Tát nên mới có quả dự lưu, nhất Lai, Bất Hoàng, A-La-Hán, và quả vị độc giác. Vì do có Đại Bồ Tát nên mới có như Lai ứng chánh đẳng giác chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì do có Đại Bồ Tát nên mới có Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo, tất cả thế gian quy y cúng dường. Vì vậy nên, Kiều Thi Ca, tất cả thế gian hoặc Trời, hoặc Ma, hoặc Phạm, hoặc Sa-môn, hoặc Bà-la-môn và A-tố-lạc, nhân phi nhân V, V nên dùng vô lượng tràng hoa, hương xoa, hương bột V, V tuyệt dịu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng, hết cả vật sở hữu, cùng chính cúng dường, tôn trọng nợi khen Đại Bồ Tát. Này Kiều Thi Ca! Do đó nên biết, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, sao chép bát nhã Ba-la-mật-đa thầm thâm như thế, điếu tặng người khác độc tụng, hoặc truyền nhau sao chép, truyền bá rộng rãi, thì Phước Đức có được hơn Phước nói trước vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì tất cả Pháp thiện thù thắng thế gian, suốt thế gian, đã rộng nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa như thế, vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nền thế gian mới có được sự hiện hữu của dòng dõi lớn sát đế lợi, dòng dõi lớn Ba-la-môn, dòng dõi lớn trưởng giả, dòng dõi lớn cư sĩ, vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nền thế gian mới có được sự hiện hữu của chúng trời Tứ Đại Vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-ma, trời Đỗ-sử-đa, trời Lạc Biến, Hóa, trời Tha-hóa Tự Tại, vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nền thế gian mới có được sự hiện hữu của trời Phạm Chúng, trời Phạm Phụ, trời Phạm Hồi, trời Đại Phạm, vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nền thế gian mới có được sự hiện hữu của trời Quang, trời Thiểu Quang, trời Vô-lượng Quang, trời Cực Quang Tịnh. Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nền thế gian mới có được sự hiện hữu của trời Tình, trời Thiểu Tình, trời Vô-lượng Tình, trời Biến Tình, vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nền thế gian mới có được sự hiện hữu của trời Quảng, trời Thiểu Quảng, trời Vô-lượng Quảng, trời Quảng Quả, vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nền thế gian mới có được sự hiện hữu của trời Vô-phiền, trời Vô-nhịt, trời Thiện Hiện, trời Thiện Trời Sắc Cứu Cánh, vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nền thế gian mới có được sự hiện hữu của trời Không Vô-biên-phướng, trời Thức Vô-biên-phướng, trời Vô-sở hữu-phướng, trời Phi-tưởng Phi-phi-tưởng-phướng, vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này, nền thế gian mới có được sự hiện hữu của bố thí Ba-la-mật-đa, tình giới Ba-la-mật-đa, an nhẫn Ba-la-mật-đa, tình tấn Ba-la-mật-đa, tình l bát nhã Ba-la-mật-đa này, nền thế gian mới có được sự hiện hữu của Pháp không nội, Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không đốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đội khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không trọng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh, Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh, vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của chân như Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định Pháp, trụ Pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghi, vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo, Thánh đế t Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của tám giải thoát, tám thắng hướng, chính định thứ đệ, mười biến hướng, Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của Pháp môn giải thoát không, Pháp môn giải thoát vô tướng, Pháp môn giải thoát vô nguyền, Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của năm loại mắt, sáu phép thần thông, Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng, Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, trí nhất thiết tướng, Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của tất cả Pháp môn Đà-la-ni, tất cả Pháp môn Tam-ma-địa, Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của dự lưu, nhất lai, bất hoàng, A-la-hán, và dự lưu hướng, dự lưu quả, nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả. Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của độc giác, và quả vị độc giác, Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của tất cả đại Bồ-Tát và các hành đại Bồ-Tát, Vì do Pháp đã nói trong tạng bí mật bát nhã Ba-la-mật-đa này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của tất cả như lai ứng chánh đặng giác và quả vị giác ngộ cao tổ của chư Phật. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. đối với bát nhã Ba-la-mật-đa này thọ trì độc tùng, như Lý Tư Duy, thì thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy, Phước Đức có được hơn sự giáo hóa các loại hữu tình cả châu thiền bộ, khiến đều an trụ 10 thiện nhiệt đạo, 4 tình lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 5 phép thần thông. Này Kiều Thi Ca. Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy, Phước Đức có được cũng hơn giáo hóa các loại hữu tình trong châu nam thiền bộ, châu đông thắng thân, khiến đều an trụ 10 thiện nhiệt đạo, 4 tình lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 5 phép thần thông. Này Kiều Thi Ca. Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy, Phước Đức có được cũng hơn giáo hóa các loại hữu tình trong châu nam thiền bộ, châu đông thắng thân, châu tay ngư hóa, khiến đều an trụ 10 thiện nhiệt đạo, 4 tình lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 5 phép thần thông. Này Kiều Thi Ca. Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy, Phước Đức có được cũng hơn giáo hóa các loại hữu tình trong châu nam thiền bộ, châu đông thắng thân, châu tay ngư hóa, châu bắc cu lô khiến đều an trụ 10 thiện nhiệt đạo, 4 tình lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 5 phép thần thông. Này Kiều Thi Ca. Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy, Phước Đức có được cũng hơn giáo hóa các loại hữu tình cả 4 đại châu, khiến đều an trụ 10 thiện nhiệt đạo, 4 tình lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 5 phép thần thông. Này Kiều Thi Ca. Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy, Phước Đức có được cũng hơn giáo hóa các loại hữu tình trong tiểu thiên thế giới, khiến đều an trụ 10 thiện nhiệt đạo, 4 tình lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 5 phép thần thông. Này Kiều Thi Ca. Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy, Phước Đức có được cũng hơn giáo hóa các loại hữu tình trong trung thiên thế giới, khiến đều an trụ 10 thiện nhiệt đạo, 4 tình lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 5 phép thần thông. Này Kiều Thi Ca. Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy, Phước Đức có được cũng hơn giáo hóa các loại hữu tình trong thế giới 3 lần ngàn, khiến đều an trụ 10 thiện nhiệt đạo, 4 tình lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 5 phép thần thông. Này Kiều Thi Ca. Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy, Phước Đức có được cũng hơn giáo hóa các loại hữu tình trong 10 phương thế giới như số các sông hàng, khiến đều an trụ 10 thiện nhiệt đạo, 4 tình lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 5 phép thần thông. Này Kiều Thi Ca. Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy, Phước Đức có được cũng hơn giáo hóa các loại hữu tình ở tất cả thế giới trong 10 phương, khiến đều an trụ 10 thiện nhiệt đạo, 4 tình lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 5 phép thần thông. Này Kiều Thi Ca. Ở đây, sự như lý tư duy ấy, nghĩa là dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu bác nhã Palamerta này, và thọ trì độc tụng, như lý tư duy, lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu tình lự, tinh tấn, an nhẫn, tình giới, bố thí Palamerta, thọ trì, độc tụng, như lý tư duy. Này Kiều Thi Ca. Lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu Pháp không nội, như lý tư duy, lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu Pháp không ngoại, Pháp không nội ngoại, Pháp không không, Pháp không lớn, Pháp không thắng nghĩa, Pháp không hữu vi, Pháp không vô vi, Pháp không tốt tráo, Pháp không không biên giới, Pháp không tảng mạng, Pháp không không đội khác, Pháp không bản tánh, Pháp không tự tướng, Pháp không trọng tướng, Pháp không tất cả Pháp, Pháp không chẳng thể nắm bắt được, Pháp không không tánh. Pháp không tự tánh, Pháp không không tánh tự tánh, như lý tư duy. Này Kiều Thi Ca. Lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu Trân Như, như lý tư duy, lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu Pháp giới, Pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định Pháp, trụ Pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghị, như lý tư duy. Này Kiều Thi Ca. Lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu Thánh Đế Khổ, như lý tư duy, lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu Thánh Đế Tập, Diệt, Đạo, như lý tư duy. Này Kiều Thi Ca. Lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu 4 tình lự, như lý tư duy, lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu 4 vô lượng, 4 định vô sắc, như lý tư duy. Này Kiều Thi Ca. Lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu 8 giải thoát, như lý tư duy, lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu 8 thắng sướng, 9 định thứ đệ, 10 biến sướng, như lý tư duy. Này Kiều Thi Ca. Lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu 4 niệm trụ, như lý tư duy, lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, như lý tư duy. Này Kiều Thi Ca. Lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu pháp môn giải thoát không, như lý tư duy, lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, như lý tư duy. Này Kiều Thi Ca. Lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu 5 loại mắt, như lý tư duy, lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu 6 phép thần thông, như lý tư duy. Này Kiều Thi Ca. Lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu 10 lực của Phật, như lý tư duy, lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp Phật bất trọng, như lý tư duy. Này Kiều Thi Ca. Lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu pháp không quên mất, như lý tư duy, lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu tánh luôn luôn xã, như lý tư duy. Này Kiều Thi Ca. Lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu trí nhất thiết, như lý tư duy, lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, như lý tư duy. Này Kiều Thi Ca. Lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu tất cả pháp môn Đà-La-Ni, như lý tư duy, lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu tất cả pháp môn Ta-Ma-Địa, như lý tư duy. Này Kiều Thi Ca. Lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu hành Đại Bồ-Tát, như lý tư duy. Này Kiều Thi Ca. Lại dùng hành phi nhị phi bất nhị để hiểu quả vị giác ngộ cao tột, như lý tư duy. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. đối với bác nhã Ba-La-Mật-Đa này dùng vô lượng phương pháp vì người khác trọng nói, chỉ bày, khai diễn, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì Phước Đức có được hơn công đức tự thọ trì, hoặc đọc, hoặc tụng, như lý tư duy bác nhã Ba-La-Mật-Đa như thế. Này Kiều Thi Ca. Cái gọi là nghĩa thú của bác nhã Ba-La-Mật-Đa này, là bác nhã Ba-La-Mật-Đa này phi nhị phi bất nhị, phi hữu tướng phi vô tướng, phi nhập phi sút, phi tăng phi giảm, phi nhiễm phi tịnh, phi xanh phi diệt, phi thủ phi xã, phi chấp phi bất chấp, phi trụ phi bất trụ, phi thật phi bất thật, phi tương ưng phi bất tương ưng, phi hòa hợp phi bất hòa hợp, phi nhân duyên phi phi nhân duyên, phi pháp phi phi pháp, phi chân như phi phi chân như, phi thật tế phi phi thật tế. Nghĩa thú như vậy có vô lượng pháp môn. Này Kiều Thi Ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. thường giáo huấn trọng đại cho những người khác về nghĩa thú thậm thâm của bác nhã Ba-La-Mật-Đa như thế, khiến họ dễ hiểu, thì phước đức có được hơn công đức tự thọ trị, hoặc đọc, hoặc tụng, nhiều lý tư duy bác nhã Ba-La-Mật-Đa như thế, gấp vô lượng lần. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. đối với bác nhã Ba-La-Mật-Đa tự thọ trị, đọc tụng, nhiều lý tư duy, dùng vô lượng phương pháp vì người khác trọng nói, chỉ bày, khai diễn, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy phước đức có được hơn phước nói trước vô lượng vô biên. Lúc bấy giờ, trời đế thích bạch Phật, bạch Thế Tôn. Các thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. nên dùng các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc tuyên thuyết, sai thi bác nhã Ba-La-Mật-Đa như thế. Phật dạy, này Kiều Thi Ca. Đúng vậy. Đúng vậy. Đúng như ông đã nói. Các thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. nên dùng các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc tuyên thuyết, sai thi bác nhã Ba-La-Mật-Đa như thế. Này Kiều Thi Ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. thường dùng các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc tuyên thuyết, sai thi bác nhã Ba-La-Mật-Đa như thế, thì thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy thành tử vô lượng, vô số, vô biên đại công đức chẳng thể nghĩ bằng. Này Kiều Thi Ca. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. suốt cả cuộc đời dùng vô lượng các thứ tràng hoa, hương soa, hương bột v.v. tuyệt diệu, y phục, anh lạc, tràng phang, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng, hết cả vật sở hữu, nhạc cụ thanh tịnh, cung kính cúng dương, tôn trọng nợi khen tất cả như lai ứng chánh đẳng giác ở vô lượng, vô số thế giới trong mười phương, lại có thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. đối với bác nhã Ba-la-mật-đa tự thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, lại nương vào các thứ văn. Nghĩa khéo léo sâu sắc dùng vô lượng phương pháp vì người khác trọng nói, chỉ bày, khai diễn giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy phước đức có được hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca Vì do tất cả như lai ứng chánh đẳng giác trong quá khứ, vị lai và hiện tại đều học bác nhã Ba-la-mật-đa nên đã chứng quả vị giác ngộ cao tột, sẽ chứng quả vị giác ngộ cao tột và đang chứng quả vị giác ngộ cao tột. Lại nữa, Kiều Thi Ca Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. Vô số, vô biên đại kiết, dùng hữu sở đắc làm phương tiện, tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa. Trong vô lượng, vô số, vô biên đại kiết, dùng hữu sở đắc làm phương tiện, tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa, lại có thiện nam tử, thiện nữ nhân v. V. Đối với bác nhã Ba-la-mật-đa này, dùng vô sở đắc làm phương tiện, thò trì, đọc tụng, nhiều lý tư duy, lại dùng các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc, chỉ trong khoảnh khắc vì người khác biển thuyết, chỉ bày, sai diễn, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì Phước Đức có được hơn kể trước rất nhiều. Này Kiều Thi Ca! Ở đây cái gọi là hữu sở đắc là thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. khi tu hành bố thí, nghĩ thế này, ta là người ban cho, kia là kẻ nhận. Đây là sự cho, kết quả sự cho và vật cho. Khi người ấy tu hành bố thí mà chấp vào cái danh bố thí, thì chẳng thể gọi là bố thí Ba-la-mật-đa, vì đã dùng hữu sở đắc làm phương tiện. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. khi tu hành tịnh giới, nghĩ thế này, ta có khả năng trì giới, là vì hộ giới. Đây là kết quả của sự trì giới và giới được trì. Khi người ấy trì giới mà chấp vào cái danh tịnh giới, thì chẳng thể gọi là tịnh giới Ba-la-mật-đa, vì đã dùng hữu sở đắc làm phương tiện. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. khi tu hành an nhẫn, nghĩ thế này, ta có khả năng tu hành an nhẫn là vì hộ trì an nhẫn. Đây là kết quả an nhẫn và tự tánh an nhẫn. Khi người ấy tu hành an nhẫn mà chấp vào cái danh an nhẫn, thì chẳng thể gọi là an nhẫn Ba-la-mật-đa, vì đã dùng hữu sở đắc làm phương tiện. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. khi tu hành tinh tấn, nghĩ thế này, ta có khả năng tinh tấn là vì tu hành đoạn trừ pháp ấy. Đây là kết quả tinh tấn và tự tánh tinh tấn. Khi người ấy tinh tấn chấp vào cái danh tinh tấn, thì chẳng thể gọi là tinh tấn Ba-la-mật-đa, vì đã dùng hữu sở đắc làm phương tiện. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. khi tu hành tinh lự, nghĩ thế này, ta có khả năng tu hành thiền định, kia là cảnh định. Đây là kết quả của định và tự tánh của định. Khi người ấy tu hành tinh lự mà chấp vào cái danh tinh lự, thì chẳng thể gọi là tinh lự Ba-la-mật-đa, vì đã dùng hữu sở đắc làm phương tiện. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. khi tu hành tinh lự, nghĩ như này, ta có khả năng tu hành trí tuệ, kia là cảnh tuệ. Đây là kết quả của tinh lự và tự tánh của tinh lự. Khi người ấy tu hành trí tuệ chấp vào cái danh tinh lự, thì chẳng thể gọi là tinh lự Ba-la-mật-đa, vì đã dùng hữu sở đắc làm phương tiện. Này Kiều Thi Ca, thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy vì dùng hữu sở đắc làm phương tiện nên chẳng thể viên mạng bố thí, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã Ba-la-mật-đa. Lúc bấy giờ, trời đế thích bạch Phật, bạch Thế Tôn. Đại Bồ Tát làm thế nào có thể viên mạng bố thí, tình giới, an nhẫn, tinh tấn, tình lự, bác nhã Ba-la-mật-đa? Phật dạy, này Kiều Thi Ca, nếu Đại Bồ Tát khi tu hành bố thí, chẳng thấy có người cho, kẻ nhận, sự cho, kết quả sự cho và vật cho, vì đã dùng hữu sở đắc làm phương tiện, thì có thể viên mạng bố thí Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ Tát khi tu hành tình giới, chẳng thấy có người thọ trì, kết quả sự hộ giới và giới được trì, vì đã dùng hữu sở đắc làm phương tiện, thì có thể viên mạng tình giới Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ Tát khi tu hành an nhẫn, chẳng thấy có người nhẫn, kết quả sự nhẫn và tự tánh của sự nhẫn, vì đã dùng hữu sở đắc làm phương tiện, thì có thể viên mạng an nhẫn Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ Tát khi tu hành tinh tấn, chẳng thấy có người xuyên năng, kết quả của xuyên năng và tự tánh của tinh tấn, vì đã dùng hữu sở đắc làm phương tiện, thì có thể viên mạng tinh tấn Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ Tát khi tu hành tình lự, chẳng thấy có người định, cảnh định, kết quả của định và tự tánh của tình lự, vì đã dùng hữu sở đắc làm phương tiện, thì có thể viên mạng tình lự Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ Tát khi tu hành bác nhã, chẳng thấy có người tu tuệ, cảnh tuệ, kết quả sự tu tuệ và tự tánh của bác nhã, vì đã dùng hữu sở đắc làm phương tiện, thì có thể viên mạng bác nhã Ba-la-mật-đa. Này Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. nên dùng tuệ vô sở đắc như thế và dùng các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc. Tuyên thuyết bác nhã Ba-la-mật-đa nên dùng tuệ vô sở đắc như thế và dùng các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc. Tuyên thuyết tình lự Ba-la-mật-đa nên dùng tuệ vô sở đắc như thế và dùng các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc. Tuyên thuyết tinh tấn Ba-la-mật-đa nên dùng tuệ vô sở đắc như thế và dùng các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc. Tuyên nói an nhẫn Ba-la-mật-đa nên dùng tuệ vô sở đắc như thế và dùng các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc. Tuyên thuyết tình giới Ba-la-mật-đa nên dùng tuệ vô sở đắc như thế và dùng các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc. Tuyên thuyết bố thí Ba-la-mật-đa. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì ở đời Vĩ Lai, có thiện nam tử, thiện nữ nhân V.V. vì người khác tuyên thuyết bác nhã Ba-la-mật-đa tương tự, người sơ phát tâm vô thường bồ đệ nghe người ấy nói pháp bác nhã Ba-la-mật-đa tương tự, tâm liền mê lầm, làm mất trung đạo. Cho nên, phải dùng tuệ vô sở đắc và các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc, vì người sơ phát tâm vô thường bồ đệ mà tuyên nói bác nhã Ba-la-mật-đa. Này Kiều Thi Ca! Ở đời Vĩ Lai, có thiện nam tử, thiện nữ nhân V.V. vì người khác tuyên nói pháp tịnh lự Ba-la-mật-đa tương tự, người sơ phát tâm vô thường bồ đệ nghe người ấy nói pháp tịnh lự Ba-la-mật-đa tương tự, tâm liền mê lầm, làm mất trung đạo. Cho nên, phải dùng tuệ vô sở đắc và các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc, vì người sơ phát tâm vô thường bồ đệ mà tuyên nói bác nhã Ba-la-mật-đa. Này Kiều Thi Ca! Ở đời Vĩ Lai, có thiện nam tử, thiện nữ nhân V.V. vì người khác tuyên nói pháp tịnh lự Ba-la-mật-đa tương tự, người sơ phát tâm vô thường bồ đệ nghe người ấy nói pháp tịnh lự Ba-la-mật-đa tương tự, tâm liền mê lầm, làm mất trung đạo. Cho nên, phải dùng tuệ vô sở đắc và các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc, vì người sơ phát tâm vô thường bồ đệ mà tuyên nói bác nhã Ba-la-mật-đa. Này Kiều Thi Ca! Ở đời Vĩ Lai, có thiện nam tử, thiện nữ nhân V.V. vì người khác tuyên nói pháp tịnh lự Ba-la-mật-đa tương tự, người sơ phát tâm vô thường bồ đệ nghe người ấy nói pháp tịnh lự Ba-la-mật-đa tương tự, tâm liền mê lầm, làm mất trung đạo. Cho nên, phải dùng tuệ vô sở đắc và các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc, vì người sơ phát tâm vô thường bồ đệ mà tuyên nói bác nhã Ba-la-mật-đa. Này Kiều Thi Ca! Ở đời Vĩ Lai, có thiện nam tử, thiện nữ nhân V.V. vì người khác tuyên nói pháp tịnh lự Ba-la-mật-đa tương tự, người sơ phát tâm vô thường bồ đệ nghe người ấy nói pháp tịnh lự Ba-la-mật-đa tương tự, tâm liền mê lầm, làm mất trung đạo. Cho nên, phải dùng tuệ vô sở đắc và các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc, vì người sơ phát tâm vô thường bồ đệ mà tuyên nói bác nhã Ba-la-mật-đa. Này Kiều Thi Ca! Ở đời Vĩ Lai, có thiện nam tử, thiện nữ nhân V.V. vì người khác tuyên nói pháp tịnh lự Ba-la-mật-đa tương tự, người sơ phát tâm vô thường bồ đệ nghe người ấy nói pháp tịnh lự Ba-la-mật-đa tương tự, tâm liền mê lầm, làm mất trung đạo. Cho nên, phải dùng tuệ vô sở đắc và các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc, vì người sơ phát tâm vô thường bồ đệ mà tuyên nói bác nhã Ba-la-mật-đa. Hãy đăng kí cho kênh lalaschool Để không bỏ lỡ những video hấp dẫn