Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
The transcription is a discussion about the importance of studying and practicing the Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa. It emphasizes that by following the teachings and principles of this practice, individuals can achieve a high level of spiritual enlightenment. The transcription suggests that those who want to attain ultimate liberation and benefit from the teachings of the Buddha should study and practice the various aspects of the Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa. It also highlights the positive effects and benefits of practicing this form of Buddhism. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 5 Quyển 104 ít ít ít phẩm so sánh công đức không hay Vì sao? Thiều Thi Ca Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V, V, ấy, nên nghĩ, xưa kia, đức như lai ở bậc Bồ Tát, vì thường cần tu học Bát Nhã Ba La Mật Đa và tình lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba La Mật Đa, nên chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi như lai khi ở bậc Bồ Tát vì thường cần an trụ cái sông nội và cái sông ngoại, cái sông nội ngoại, cái sông sông, cái sông lớn, cái sông thắng nhĩa, cái sông hữu vi, cái sông vô vi, cái sông rốt cháo, cái sông sông biên giới, cái sông tảng mạng, cái sông sông đội xác, cái sông bản tánh, cái sông tự tướng, cái sông tổng tướng, cái sông tất cả pháp, cái sông chẳng thể nắm bắt được, cái sông sông tánh, cái sông tự tánh, cái sông sông tánh tự tánh, nên chính đắc. Quả vị giác ngộ cao tột Xưa kia, khi như lai ở bậc Bồ Tát vì thường cần an trụ chân như và pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội xác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghị, nên chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi như lai ở bậc Bồ Tát vì thường cần an trụ thánh đế khổ và thánh đế tập, diệt, đạo, nên chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi như lai ở bậc Bồ Tát vì thường cần tu học 4 tình lựu và 4 vô lượng, 4 định vô sắc, nên chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi như lai ở bậc Bồ Tát vì thường cần tu học 8 giải thoát và 8 thắng sướng, 9 định thứ đệ, 10 điến sướng, nên chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi như lai ở bậc Bồ Tát vì thường cần tu học 4 niệm trụ và 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, nên chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi như lai ở bậc Bồ Tát vì thường cần tu học Pháp môn giải thoát không và Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, nên chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi như lai ở bậc Bồ Tát vì thường cần tu học 5 loại mắt và 6 phép thần thông, nên chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi như lai ở bậc Bồ Tát vì thường cần tu học 10 lực của Phật và 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, Đại Tư, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Phả, 18 Pháp Phật bất cộng, nên chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi như lai ở bậc Bồ Tát vì thường cần tu học Pháp không quên mất và tánh luôn luôn xả, nên chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi như lai ở bậc Bồ Tát vì thường cần tu học tất cả Pháp môn Đà La Nị và tất cả Pháp môn Tam Ma Địa, nên chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi như lai ở bậc Bồ Tát vì thường cần tu học trí nhất thiết và trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, nên chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi như lai ở bậc Bồ Tát vì thường cần tu học vô lượng vô biên các Phật Pháp khác, nên chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi như lai an trụ bậc Bồ Tát vì thường cần an trụ vô lượng Pháp môn khác tùy thuận Bát Nhã Ba La Mật Đa như Quẩn, Sứ, Giới V, V, nên chính đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nay đây, chúng ta vì cầu quả vị giác ngộ cao tột, nên đối với Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa thầm thâm này cũng phải theo Phật thường cần tinh tấn, tu học, an trụ. Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa thâm sâu như thế nhất định là bậc đại siêu chân thật của chúng ta, thường cần theo học thì sở nguyện đều viên mãn. Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa thâm sâu như thế là pháp ứng chân thật của các đức như lai ứng chánh đẳng giác, cũng là pháp ứng chân thật của tất cả quả độc giác, à la hãng, bất hoàng, nhất lai, dự lưu V, V. Tất cả như lai ứng chánh đẳng giác đối với Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa thầm thâm như thế vì thường cần tu học, nên đã chính quả vị giác ngộ cao tột, sẽ chính quả vị giác ngộ cao tột, hiện chính quả vị giác ngộ cao tột. Tất cả quả độc giác, à la hãng, bất hoàng, nhất lai, dự lưu V, V đối với Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa thầm thâm như thế vì thường cần tu học, nên đã đến bờ giác, sẽ đến bờ giác và hiện đến bờ giác. Vì duyên cớ ấy, nên các thiện nam tử, thiện nữ nhân, hoặc lúc Phật trụ thế, hoặc sau khi niết bàn, cần phải y cứu vào Bát Nhã Ba La Mật Đa, thường cần tu học, cần phải y cứu vào tỉnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tỉnh giới, bố thí Ba La Mật Đa, thường cần tu học. Vì sao? Vì Bát Nhã Ba La Mật Đa V, V như thế là chỗ y cứu an lạc lợi ích của tất cả thanh văn, độc giác, đại Bồ Tát và các trời, người, à tối lạc V, V. Kiều Thy Ca Các thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, hoặc khi Phật trụ thế, hoặc sau khi niết bàn, cần phải y cứu vào chân nhân, tỉnh giới, bố thí Ba La Mật Đa, thường cần tu học, cần phải y cứu vào tỉnh lự, tỉnh giới, bố thí Ba La Mật Đa, thường cần tu học. Kiều Thy Ca Các thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, hoặc khi Phật trụ thế, hoặc sau khi niết bàn, cần phải y cứu vào chân nhân, mà thường cần tu học, cần phải y cứu vào pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghị, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì chân như V, V, như thế là chỗ y cứu an lạc lợi ích của tất cả thanh văn, độc giác, đại bồ tát và các trời, người, a tố lạc V, V. Kiều Thy Ca Các thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, hoặc khi Phật trụ thế, hoặc sau khi niết bàn, cần phải y cứu vào thánh đế khổ, mà thường cần tu học, cần phải y cứu vào thánh đế tập, diệt, đạo, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì thánh đế khổ V, V, như thế là nơi y cứu an lạc lợi ích của tất cả thanh văn, độc giác, đại bồ tát và các trời, người, a tố lạc V, V. Kiều Thy Ca Các thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, hoặc khi Phật trụ thế, hoặc sau khi niết bàn, cần phải y cứu vào 4 tịnh lự, mà thường cần tu học, cần phải y cứu vào 4 vô lượng, 4 định vô sắc, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì 4 tịnh lự V, V, như thế là nơi y cứu an lạc lợi ích của tất cả thanh văn, độc giác, đại bồ tát và các trời, người, a tố lạc V, V. Kiều Thy Ca Các thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, hoặc khi Phật trụ thế, hoặc sau khi niết bàn, cần phải y cứu vào 8 giải thoát, mà thường cần tu học, cần phải y cứu vào 8 tháng sướng, 9 định thứ đệ, 10 điếm sướng, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì 8 giải thoát V, V, như thế là nơi y cứu an lạc lợi ích của tất cả thanh văn, độc giác, đại bồ tát và các trời, người, a tố lạc V, V. Kiều Thy Ca Các thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, hoặc khi Phật trụ thế, hoặc sau khi niết bàn, cần phải y cứu vào 4 niệm trụ, mà thường cần tu học, cần phải y cứu vào 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 trăng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì 4 niệm trụ V, V, như thế là nơi y cứu lợi ích, an lạc của tất cả thanh văn, độc giác, đại bồ tát và các trời, người, a tố lạc V, V. Kiều Thy Ca Các thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, hoặc khi Phật còn trụ thế, hoặc sau khi niết bàn, cần phải y cứu vào pháp môn giải thoát không, mà thường cần tu học, cần phải y cứu vào pháp môn giải thoát vô trướng, vô nguyện, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không V, V, như thế là nơi y cứu lợi ích, an lạc của tất cả thanh văn, độc giác, đại bồ tát và các trời, người, a tố lạc V, V. Kiều Thy Ca Các thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, hoặc khi Phật còn trụ thế, hoặc sau khi niết bàn, cần phải y cứu vào 5 loại mắt, mà thường cần tu học, cần phải y cứu vào 6 phép thần thông, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì 5 loại mắt V, V, như thế là nơi y cứu lợi ích, an lạc của tất cả thanh văn, độc giác, đại bồ tát và các trời, người, a tố lạc V, V. Kiều Thy Ca Các thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, hoặc khi Phật còn trụ thế, hoặc sau khi niết bàn, cần phải y cứu vào 10 lực của Phật, mà thường cần tu học, cần phải y cứu vào 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 pháp Phật bất cộng, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì 10 lực của Phật V, V, như thế là nơi y cứu lợi ích, an lạc của tất cả thanh văn, độc giác, đại bồ tát và các trời, người, a tố lạc V, V. Kiều Thy Ca Kiều Thy Ca Các thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, hoặc khi Phật còn trụ thế, hoặc sau khi niết bàn, cần phải y cứu vào tất cả pháp môn Đà-la-ni, mà thường cần tu học, cần phải y cứu vào tất cả pháp môn Tam-ma-địa, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni V, V, như thế là nơi y cứu lợi ích, an lạc của tất cả thanh văn, độc giác, đại bồ tát và các trời, người, a tố lạc V, V. Kiều Thy Ca Các thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, hoặc khi Phật còn trụ thế, hoặc sau khi niết bàn, cần phải y cứu vào trí nhất thiết, mà thường cần tu học, cần phải y cứu vào trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì trí nhất thiết V, V, như thế là nơi y cứu lợi ích, an lạc của tất cả thanh văn, độc giác, đại bồ tát và các trời, người, a tố lạc V, V. Kiều Thy Ca Các thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, hoặc khi Phật còn trụ thế, hoặc sau khi niết bàn, cần phải y cứu vào vô lượng, vô biên Phật Pháp khác, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì vô lượng, vô biên Phật Pháp khác như thế là nơi y cứu lợi ích, an lạc của tất cả thanh văn, độc giác, đại bồ tát và các trời, người, a tố lạc V, V. Kiều Thy Ca Các thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, hoặc khi Phật còn trụ thế, hoặc sau khi niết bàn, cần phải y cứu vào vô lượng Pháp môn Tùy Thuận Bát Nhã Ba La Mật Đa Thầm Thâm Như Quẩn, giới, xứ V, V, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì vô lượng Pháp môn Tùy Thuận Bát Nhã Ba La Mật Đa Thầm Thâm Như Quẩn, xứ, giới V, V, như thế là nơi y cứu lợi ích, an lạc của tất cả thanh văn, độc giác, đại bồ tát và các trời, người, a tố lạc V, V. Lúc bấy giờ, trời đế thích bạch Phật, bạch Thế Tôn. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát Nhã Ba La Mật Đa này, chỉ tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh trần tu học, nhiều lý tư duy, vì hữu tình mà tuyên thuyết, truyền bá trọng đại, hoặc sao chết, rồi thiết bày lễ vật, cùng kính cúng dường, tôn trọng nợi khen, lại dùng các thứ tràn hoa, hương soa, hương bột V, V, y phục, an lạc, tràn phang, lọng bóng, các thứ ngọc quý lạ, kỹ nhạc, đèn sáng thượng diệu để cúng dường, thì thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy, do nhân duyên này, được bao nhiêu phước? Phật dạy, kêu thi ca, ta lại hỏi ngươi, tùy theo ý ngươi mà trả lời. Có thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, sau khi như lai vào miếc bàn, để cúng dường xá lợi Phật, nên dùng bảy thứ quý báu nhất xây dựng bảo tháp, trang trí bằng đủ các loại ngọc báu, tháp cao lớn một do tuần, bề rộng bằng nửi chiều cao, lại dùng các thứ tràn hoa, hương soa, hương bột, y phục, an lạc, tràn phang, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng V, V, tuyệt diệu của cõi trời suốt cả cuộc đời, cùng kính cúng dường, tôn trọng nợi khen. Theo ý ông thì sao, thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy, do nhân duyên này, phước đức phát sanh có nhiều chăng? Trời đế thích bạch, bạch thế tôn? Rất nhiều. Bạch thiện thể? Rất nhiều. Phật dạy, Kiều Thi Ca Các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu để cúng dường, thì thiện. Nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy, do nhân duyên này phước đức đã sanh ra, so với những người kia nhiều hơn vô lượng, vô biên. Phật bảo, Kiều Thi Ca Ngoài việc này ra, lại có thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, đối với các đức như lai sau khi nhập nhiết bạn, để cúng dường xá lợi Phật, đã dùng bảy thứ quý báu nhất để xây dựng bảo tháp, trang trí bằng đủ các loại ngọc báu, tháp cao lớn một do tuần, bề rộng bằng nửa chiều cao xây khắp cả châu Nam thiện bộ, không còn chỗ trống, lại dùng các thứ tràn hoa, hương soa, hương bột V, V, y phục, anh lạc, tràn phang, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu của cõi trời, suốt cả cuộc đời. Cung chính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Theo ý ông thì sao? Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy, do nhân duyên này phước đức phát sanh có nhiều chăng? Trời đế thích bạch, bạch thế tôn? Rất nhiều. Bạch thiện thể? Rất nhiều. Phật dạy, kiều thi ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân vờ vờ, chẳng lịa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với bác nhã Ba-la-mật-đa này trí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh trần tu học, nhiều lý tư duy, vì các hữu tình mà tuyên thuyết truyền bá trọng trải, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật. Cung chính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, lại dùng các thứ tràn hoa, hương soa, hương bột V, V, y phục, anh lạc, tràn phang, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu để cúng dường, thì thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy, do nhân duyên này phước đức đã sanh ra, so với những người kia nhiều hơn vô lượng, vô biên. Phật bảo, Kiều Thi Ca Kể cả châu Thiện Bộ, lại có thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, đối với các đức như Lai sau khi nhập Niết Bàn, để cúng dường xá lợi Phật, đã dùng bảy thứ quý báu nhất, xây dựng bảo tháp, và trang trí bằng đủ loại ngọc báu, tháp cao lớn một do tuần, bề rộng bằng nửa chiều cao xây đầy cả bốn châu, không còn chỗ trống, lại dùng các thứ tràn hoa, hương soa, hương bột V, V, y phục, anh lạc, tràn phang, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu của cõi trời, suốt cả cuộc đời, cung kính, cúng dường, tôn trọng người khen. Theo ý ông thì sao? Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy, do nhân duyên này phước đức sanh ra có nhiều chăng? Trời đế thích bạch, bạch thế tôn? Rất nhiều. Bạch thiện thể? Rất nhiều. Phật dạy, kiều thi ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, chẳng lịa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với bác nhã Palamarda này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh trần tu học, nhiều lý tư duy, vì các hữu tình mà tuyên thuyết, truyền bá rộng đại, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng người khen, lại dùng các thứ tràn hoa, hương soa, hương bột V, V, y phục, anh lạc, tràn phang, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt di dự để cúng dường, thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy, do nhân duyên này phước đức thu hoạch được, so với những người kia nhiều hơn vô lượng, vô biên. Phật bảo, Kiều Thi Ca Cả bốn châu giới, lại có thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, đối với các đức như lai sau khi nhập Niết Bàn, để cúng dường xá lợi Phật, đã dùng bảy thứ quý báu nhất xây dựng bảo tháp và trang trí bằng các thứ ngọc quý, tháp cao lớn một do tuần, bề rộng bằng nửi chiều cao xây xấp cả Tiểu Thiên Thế Giới, không còn chỗ trống, lại dùng các thứ tràn hoa, hương soa, hương bột V, V, y phục, anh lạc, tràn phang, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu của cõi trời, suốt cả cuộc đời Cúng. Kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Theo ý ông thì sao? Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy, do nhân duyên này phước đức thu hoạch được có nhiều chăng? Trời đế thích bạch, bạch thế tôn. Rất nhiều. Bạch thiện thể. Rất nhiều. Phật dạy, kiều thi ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. chẳng lìa tâm trí nhất thiết ký, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với bác nhã ba la mật đa này chỉ tâm lắng nghe thọ trì, đọc tụng, tinh trần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình mà tuyên thuyết, truyền bá trọng đại, hoặc sao chép, thiết bày lễ vật, cùng chính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, lại dùng các thứ tràn hoa, hương soa, hương bột V, V, y phục, anh lạc, tràn phang, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt dịu để cúng dường, thì thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy, do nhân. Duyên này phước đức thu hoạch được, so với những người kia, nhiều hơn vô lượng, vô biên. Phật bảo, kiều thi ca. Kể cả tiểu thiên thế giới, lại có thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. đối với các đức như lai sau khi nhập niết bàn, để cúng dường xá lợi Phật, đã dùng bảy thứ quý báu nhất xây dựng bảo tháp và trang trí bằng đủ các loại quý, tháp cao lớn một do tuần, bề rộng bằng nửa chiều cao xây khắp cả trung thiên thế giới, không còn chỗ trống, lại dùng các thứ tràn hoa, hương soa, hương bột V, V, y phục, anh lạc, tràn phang, lọng báu, các thứ ngọc quý, khỉ nhạc, đèn sáng tuyệt dịu của cõi trời, suốt cả cuộc đời, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Theo ý ông thì sao? Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy do nhân duyên này phước đức thu hoạch được có nhiều trăng. Trời đế thích bạch, bạch thế tôn. Rất nhiều. Bạch thiện thể. Rất nhiều. Phật dạy, kiều thi ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. Chẳng lịa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với bác nhã Ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, nhiều lý tư duy, vì các hữu tình mà tuyên truyết, truyền bá trọng đại, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, lại dùng các thứ tràn hoa, hương soa, hương bột V, V, y phục, anh lạc, tràn phang, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt dịu để cúng dường, thì thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy do. Nhân duyên này Phước Đức đã thu hoạch được, so với những người kia nhiều hơn vô lượng, vô biên. Phật bảo, Kiều thi ca Kể cả Trung thiên thế giới, lại có thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. đối với các Đức như Lai sau khi nhập Niết Bàn, để cúng dường xá lợi Phật, đã dùng bảy thứ quý báu nhất xây dựng bảo tháp và trang trí bằng các thứ ngọc quý, tháp cao lớn một do tuần, về rộng bằng nửi chiều cao xây khắp cả thế giới ba lần ngạn, không còn chỗ trống, lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v. y phục, anh lạc, tràng phang, lọng báo, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt dịu của cõi trời suốt cả cuộc. Đời cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Theo ý ông thì sao? Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy do nhân duyên này Phước Đức thu hoạch được, có nhiều chăng? Trời đế thích bạch, bạch thế tôn Rất nhiều Bạch thiện thể Rất nhiều Phật dạy, chiều thi ca Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. chẳng liệt tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối với bác nhã ba la mật đa này, chỉ cầm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh trần tu học, nhiều lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết, truyền bá trọng đải hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v., y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt dịu để cúng dường, thi thiện. Nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy, do nhân duyên này phước đức có được, so với những người kia nhiều hơn vô lượng, vô biên. Phật bảo, chiều thi ca Kể cả một thế giới ba lần ngàn, và giả sử các loại hữu tình trong thế giới ba lần ngàn, đối với Như Lai sau khi nhập Niết Bàn, để cúng dường xá lợi Phật, dùng bảy thứ quý báu nhất, xây dựng bảo tháp, trang trí bằng các thứ ngọc quý, tháp cao một do tuần, về rộng bằng nửi chiều cao xây xấp cả thế giới ba lần ngàn, không còn chỗ trống, lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v., y phục, anh lạc, tràng phang, lọng bóng, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu của cõi trời, suốt cả. Cuộc đời cung kính cúng dường, tôn trọng người khen. Theo ý ông thì sao? Các loại hữu tình trong thế giới ba lần ngàn như thế, do nhân duyên này phước đức có được nhiều chăng? Trời đế thích bạch, bạch thế tôn. Rất nhiều. Bạch thiện thể. Rất nhiều. Phật dạy, Kiều Thi Ca Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với bác nhã Ba-la-mật-đa này trí tâm lắng nghe, thòi trì, đọc tụng, tinh cận tu học, nhiều lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết, truyền bá rộng đải, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng người khen, lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v., y phục, anh lạc, tràng phang, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt dịu để cúng dường, thì thiện. Nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy do nhân duyên này phước đức có được, so với những người kia nhiều hơn vô lượng, vô biên. Khi ấy, trời đế thích lại bạch Phật, đúng vậy. Đúng vậy. Đúng như Ngài đã dạy. Nếu thiện Nam tử, thiện nữ nhân v.v. cung kính cúng dường, tôn trọng người khen bát nhã Ba-la-mật-đa như thế, thì thiện Nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy nên biết như thế tức là đã cung kính cúng dường, tôn trọng người khen chiêu Phật thế tôn quá khứ, vị Lai, hiện tại. Giả sử tất cả các hữu tình ổ vô số thế giới trong mười phương, đối với như Lai sau khi nhập Niết Bàn, để cúng dường xá lợi Phật, dùng bảy thứ rất quý báu xây dựng bảo tháp, trang trí bằng các thứ ngọc quý, tháp cao lớn một do tuần, về rộng bằng nửa chiều cao, xây sắp cả thế giới ba lần ngàn, không còn chỗ trống, lại dùng các thứ tràng hoa, hương soa, hương bột v, v, y phục, anh lạc, tràng phang, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu của cõi trời, hoặc trải qua một kiếp, hoặc hơn một kiếp, cung kính cúng dường, tôn trọng người khen thế tôn, thì các hữu tình ấy, do nhân duyên này phước đức đã có được nhiều chăng. Phật dạy, rất nhiều. Trời đế thích bạch, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v, v, chẳng lìa tâm khí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với bác nhạ Ba-la-mật-đa này, chỉ tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh trần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình, tuyên thuyết, truyền bá trọng đại, hoặc sao chết, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng người khen, lại dùng các thứ tràng hoa, hương soa, hương bột v, v, y phục, anh lạc, tràng phang, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu để. Cúng dường, thì thiện nam tử, thiện nữ nhân v, v, ấy, do nhân duyên này phước đức có được, đối với những người kia, nhiều hơn vô lượng, vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể tính đếm. Vì sao? Bạch thế tôn. Do bác nhạ Ba-la-mật-đa này, có thể bao gồm chứa nhóm tất cả thiện pháp. Đó là 10 thiện nhiệt đạo, hoặc là 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, hoặc là 8 giải thoát, 8 thắng phướng, 9 định thứ đệ, 10 biến phướng, hoặc là 4 niệm trụ, 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căng, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi thánh đạo, hoặc là pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện, hoặc là thánh đế khổ, thánh đế tập, thánh đế diệt, thánh đế đạo, hoặc là 5 loại mắt, 6 phép thần thông, hoặc là 4 sự hiểu biết thông suốt, hoặc là bố thí Ba-la-mật-đa, tịnh giới Ba-la-mật-đa, an nhẫn Ba-la-mật-đa, tinh tấn Ba-la-mật-đa, tịnh lự Ba-la-mật-đa, bác nhạ Ba-la-mật-đa, hoặc là cái không nội, cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt tráo, cái không không biên giới, cái không tảng mạng, cái không không đội khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, hoặc là chơn như pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cạnh giới hư không, cạnh giới bất tương nghị, hoặc là tất cả pháp Môn Đà-La-Ni, tất cả pháp Môn Ta-Ma-Địa, hoặc là mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc là pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã, hoặc là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hoặc là vô lượng, vô biên Phật Pháp khác, đều nhít nhập trong bát nhã Ba-La-Mật-đa thầm thâm này. Bạch Thế Tôn Bát nhã Ba-La-Mật-đa thầm thâm như thế là pháp ứng chân thật của các đức như lại ứng chánh đặng giác, cũng là pháp ứng chân thật của tất cả thanh văn, độc giác. Bạch Thế Tôn Tất cả các đức như lại ứng chánh đặng giác, vì đối với bát nhã Ba-La-Mật-đa thầm thâm như thế, đều thường cần tu học, nên đã chứng quả vị giác ngộ cao tột, sẽ chứng quả vị giác ngộ cao tột, hiện chứng quả vị giác ngộ cao tột. Bạch Thế Tôn Vì tất cả thanh văn, độc giác đối với bát nhã Ba-La-Mật-đa thầm thâm như thế, đều thường cần tu học, nên đã đạt đến bờ giác, sẽ đạt đến bờ giác và hiện đạt đến bờ giác. Bạch Thế Tôn Do nhân duyên này, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. chẳng liệt tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với bát nhã Ba-La-Mật-đa này trí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, nhiều lý tư duy, vì các hữu tình, tuyên thuyết, truyền bá trọng đại, hoặc sao chép, rồi thiết bậy lễ vật, cùng kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, lại dùng các thứ tràng hoa, hương soa, hương bột v.v., y phục, anh lạc, tràng phang, lộng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt dịu đễ. Cúng dường, thiện thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy, do nhân duyên này phước đức có được, so với những người kia nhiều hơn vô lượng, vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể tính đếm. Lúc bấy giờ, Phật bảo trời đế thích, đúng vậy, đúng vậy, đúng như ông đã nói. Kiều Thi Ca Kiều Thi Ca Vì do bác nhạ Ba La Mật Đa này mà tất cả cái không nội, cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nhĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tảng mạng, cái không không đội khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không tổng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh được xuất hiện. Kiều Thi Ca Vì do bác nhạ Ba La Mật Đa này mà tất cả chân như pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đội khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nhị được xuất hiện. Kiều Thi Ca Vì do bác nhạ Ba La Mật Đa này mà tất cả thánh đế khổ, thánh đế tập, thánh đế diệt, thánh đế đạo được xuất hiện. Kiều Thi Ca Vì do bác nhạ Ba La Mật Đa này mà tất cả bốn tình lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc được phát sinh. Kiều Thi Ca Vì do bác nhạ Ba La Mật Đa này mà tất cả tám giải thoát, tám thắng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ được phát sinh. Kiều Thi Ca Vì do bác nhạ Ba La Mật Đa này mà tất cả bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần trúc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo được phát sinh. Kiều Thi Ca Vì do bác nhạ Ba La Mật Đa này mà tất cả pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện được phát sinh. Kiều Thi Ca Vì do bác nhạ Ba La Mật Đa này mà tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông được phát sinh. Kiều Thi Ca Vì do bác nhạ Ba La Mật Đa này mà tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng được phát sinh. Kiều Thi Ca Vì do bác nhạ Ba La Mật Đa này mà tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã được phát sinh. Kiều Thi Ca Vì do bác nhạ Ba La Mật Đa này mà tất cả pháp môn Đà La Ni, tất cả pháp môn Tam Ma Địa được phát sinh. Kiều Thi Ca Vì do bác nhạ Ba La Mật Đa này mà trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng được phát sinh. Kiều Thi Ca Vì do bác nhạ Ba La Mật Đa này mà tất cả đại Bồ Tát thành thuộc hữu tình, nghiêm tình cõi Phật được thành tựu. Kiều Thi Ca Vì do bác nhạ Ba La Mật Đa này mà tất cả thanh văn thừa, độc giác thừa, vô thượng thừa được phát sinh. Kiều Thi Ca Vì do bác nhạ Ba La Mật Đa này mà tất cả dự lưu hướng, dự lưu quả, nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàn hướng, bất hoàn quả, à la hán hướng, à la hán quả xuất hiện. Kiều Thi Ca Vì do bác nhạ Ba La Mật Đa này mà tất cả độc giác hướng, độc giác quả xuất hiện. Kiều Thi Ca Vì do bác nhạ Ba La Mật Đa này mà công đức của tất cả các đại Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến định kim canh dụ xuất hiện. Kiều Thi Ca Vì do bác nhạ Ba La Mật Đa này mà quả vị giác ngộ cao tột và đại bác nhiết bàn của tất cả như lai ứng chánh đặng giác xuất hiện. Kiều Thi Ca Do duyên cớ này, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. chẳng lịa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối với bác nhạ Ba La Mật Đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, kinh cận tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình, tuyên thuyết, truyền bá rộng đại, hoặc sao chét, rồi thiết bày lễ vật, cùng chính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, lại dùng các thứ tràn hòa, hương xoa, hương bột v, v, y phục, anh lạc, tràn phang, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt dịu để. Cúng dường, Phước Đức đã tạo bảo tháp trước kia, so với Phước Đức này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, ước phần chẳng bằng một, trăm ước phần chẳng bằng một, ngàn ước phần chẳng bằng một, trăm ngàn ước phần chẳng bằng một, trăm ngàn vô số phần chẳng bằng một, phần toán số, phần tính đếm, phần thí dụ cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một. Vì sao? Kiều Thi Ca Vì nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong cõi người ở châu Thiện Bộ, thì Phật Bảo, Pháp Bảo, Bí Sô Tăng Bảo trong thế gian này đều trụ chẳng gì? Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có mười thiện nghiệt đạo và thí, giới, tu thiện, tri ân, báo ân, cúng dường hiền thánh. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã Ba La Mật Đa. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có cái phong nội, cái phong ngoại, cái phong nội ngoại, cái phong không, cái phong lớn, cái phong thắng nghĩa, cái phong hữu vi, cái phong vô vi, cái phong trốt tráo, cái phong không biên giới, cái phong tản mạng, cái phong không đổi xác, cái phong bản tánh, cái phong tự tướng, cái phong cộng tướng, cái phong tất cả Pháp, cái phong chẳng thể nắm bắt được, cái phong không tánh, cái phong tự tánh, cái phong không... Tánh Tự Tánh Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có chân như Pháp Giới, Pháp Tánh, Tánh Chẳng Hư Vọng, Tánh Chẳng Đổi Xác, Tánh Bình Đẳng, Tánh Ly Xanh, Định Pháp, Trụ Pháp, Thật Tế, Cảnh Giới Hư Không, Cảnh Giới Bất Tương Nghị. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có Thánh Đế Khổ, Thánh Đế Tập, Thánh Đế Diệt, Thánh Đế Đạo. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có tám giải thoát, tám thắng sướng, chính định thứ đệ, mười biến sướng. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có năm loại mắt, sáu phép thần thông. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám pháp Phật bất cộng. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có tất cả pháp môn Đà La Ni, tất cả pháp môn Tam Ma Địa. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có dòng họ lớn sát đế lợi, dòng họ lớn bà la môn, dòng họ lớn trường giả, dòng họ lớn cư sĩ. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có chúng trời Tứ Đại Vương, trời Ba Mươi Ba, trời Dạ Ma, trời Đỗ Sự Đa, trời Lạc Biến Hóa, trời Tha Hóa Tự Tại. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có trời Phạm Chúng, trời Phạm Phù, trời Phạm Hồi, trời Đại Phạm, trời Quang, trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quang, trời Cực Quang Tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh, trời Quảng, trời Thiểu Quảng, trời Vô Lượng Quảng, trời Quảng Quả. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có trời Vô Viện, trời Vô Nhiệt, trời Thiện Hiền, trời Thiện Kiến, trời Sát Cứu Cánh. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có trời Không Vô Biên Sứ, trời Thức Vô Biên Sứ, trời Vô Sở Hữu Sứ, trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Sứ. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có thanh văn thừa, độc giác thừa, vô thường thừa. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có dự lưu hướng, dự lưu quả, nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à la hán hướng, à la hán quả. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có độc giác hướng, độc giác quả. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có đại Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh, thành thuộc hữu tình, nghiêm tình cõi Phật. Kiều Thi Ca Nếu Bát Nhã Ba La Mật Đa này trụ trong loại người ở châu Thiện Bộ thì thế gian thường có như lai ứng chánh đẳng giác, chính đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luôn nhịn màu, độ vô lượng chúng sanh.