Details
Nothing to say, yet
Details
Nothing to say, yet
Comment
Nothing to say, yet
Nguyễn Kim Thành, born in 1920, was a poet from Quảng Điền, Thừa Thiên Huế. He was known for his deep political poems that expressed love for his country and people. His poetry reflected historical and national issues, and he used a variety of poetic styles to convey the emotions of his people. His most famous work, Việt Bắc, focused on the revolutionary struggle in northern Vietnam. Thành was considered a revolutionary poet and a symbol of the Vietnamese revolution. His work was highly regarded and celebrated. Nguyễn Kim Thành, sinh năm 1920, trong một gia đình nhà nho nghèo thuộc Quảng Điền, Thờ Thiên Huế. Ngoài ra, trong một gia đình nhà nho nghèo thuộc Quảng Điền, Thờ Thiên Huế, trong một gia đình nhà nho nghèo thuộc Quảng Điền, Thờ Thiên Huế, trong một gia đình nhà nho nghèo thuộc Quảng Điền, Thờ Thiên Huế, trong một gia đình nhà nho nghèo thuộc Quảng Điền, Thờ Thiên Huế, trong một gia đình nhà nho nghèo thuộc Quảng Điền, Thờ Thiên Huế, trong một gia đình nhà nho nghèo thuộc Quảng Điền, Thờ Thiên Huế, trong một gia đình nhà nho nghèo thuộc Quảng Điền, Thờ Thiên Huế, trong một gia đình nhà nho nghèo thuộc Quảng Điền, Thờ Thiên Huế, trong một gia đình nhà nho nghè Sau kết mạng tháng 8 năm 1945, Tổ Hiếu hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, từng giữ những chức vụ trọng trách của nhà nước công mất. Vào năm 2002, ông được nhận giải thưởng ở Hồ Chí Minh năm 1996, khai quát về pháp cách kết thuật của văn hóa Tổ Hiếu về nội dung. Thơ Tổ Hiếu mang tính chất chứa tình chính trị sâu sắc. Thơ Tổ Hiếu biểu hiện lẻ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn. Thơ Tổ Hiếu thường khai thác cảm hứng đời sống chính trị của đất nước, đời sống tích mạng và hứng đến các vấn đề lý tưởng lẻ sống tích mạng. Thơ Tổ Hiếu sâu sắc sâu tình đồng chí, nghĩa đồng bào, lòng yêu dân, yêu nước, ân tình ích mạng. Thơ Tổ Hiếu có ngang tính lịch sử. Thơ Tổ Hiếu thường đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân, như cái tôi tiền sĩ đến cái tôi công dân, tiến tới cái tôi nâng danh dân tộc. Cách mạng, nhiều bài thơ trong tập Việt Bắc, gió lộng, ra trận, máu và hoa. Nhân vật chứ tình trong thơ Tổ Hiếu là những con người đại diện cho phẩm chất của dân tộc đang tâm vóc lịch sử và thời đại, như Anh Giải Phóng Quân, Nguyễn Văn Chối, Trần Thị Lý, Mẹ Suốt. Cảm hứng trong thơ Tổ Hiếu là cảm hứng lịch sử dân tộc, số phận cá nhân, hòa và số phận dân tộc, cộng đồng. Về nghệ thuật thì nghệ thuật Tổ Hiếu giàu tính dân tộc, sử dụng đa dạng các thể thơ đặc biệt, các thể thơ truyền thống, như là thơ lục bách ở Việt Bắc, kính gửi cụ Nguyễn Du, như là thơ bày chứ ở trong quê mẹ, mẹ tơm, bác ơi. Sử dụng từ ngữ lồi nói quen thuộc của dân tộc để so sánh ví von truyền thống, phát huy tính nhạc phong phú của tiếng Việt, sử dụng đài tình từ lái phối hợp âm thanh nhịp điệu, vần tạo nên chất nhạc chứa được cảm xúc dân tộc, tâm hồn dân tộc, quê mẹ, mẹ tơm, em ơi, ba lan. Thơ Tổ Hiếu là một ngọn cờ đầu, một đỉnh cao của thơ ca cách mạng năm 1945-1975. Phong cách Tổ Hiếu rất đa dạng, đã kế tục được truyền thống thơ ca dân tộc kết hợp một cách nguyền mỹ, hai yếu tố cách mạng và dân tộc trong nghệ thuật sức út của thơ Tổ Hiếu, chính là ủy nghiệp xe mê lý tưởng và tính dân tộc đậm đà. Đúng như Xuân Triệu đã hẳn định, Tổ Hiếu đã đưa thơ chính trị đến một trình độ gọi là thơ rất đổi chữ tình. Vì vậy, Tổ Hiếu xứng đáng là thi si của nhân dân và là cửa đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Về tác phẩm Việt Bắc, chúng ta thấy về phần đầu là hoạt cảnh giáo tác và vị trí tác phẩm. Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc của kháng chiến, nơi đã chế trở lộn bọc cho đảng, chính phủ, bộ đội trong suốt những năm kháng chiến chống pháp sát phổ sau Chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 10 năm 1954, các cơ quan trung ương của đảng và chính phủ rời chiến phu Việt Bắc về thủ đô Hà Nội. Nhân sự kể trọng đài này, Tổ Hiếu đã viết thêm bài thơ Việt Bắc. Bài thơ được viết vào tháng 10 năm 1954, được in trọng trọng Việt Bắc năm 1945 đến năm 1954.