Home Page
cover of kinhdaibatnha (76)
kinhdaibatnha (76)

kinhdaibatnha (76)

Phuc Tien

0 followers

00:00-54:43

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech
0
Plays
0
Downloads
0
Shares

Audio hosting, extended storage and much more

AI Mastering

Transcription

The transcription discusses the concepts of the six Perfections and how they relate to the practice of the Bodhisattva. The Perfections include generosity, morality, patience, diligence, meditation, and wisdom. The Bodhisattva should practice these Perfections without attachment to self, others, or the results of their actions. By practicing the Perfections, the Bodhisattva can bring happiness and benefit to all sentient beings. The Bodhisattva should also cultivate qualities such as compassion, equanimity, and non-attachment. These teachings are explained in the context of the Mahayana Buddhist tradition. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 04, từ quyển 76 đến quyển 100 Hán Dịch, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang Việt Dịch, Hòa Thượng Thích Trí Nhiên Khảo Dịch, Hòa Thượng Thích Quảng Độ Quyển 76 21, Phẩm Tình Đạo 01 Lúc bấy giờ, cụ Thọ Thiền Hiện nói với xá lợi tử, các đại Bồ Tát, khi tu hành sáu Pháp Ba La Mật Đa nền sắc thanh tịnh, nền thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh, nền nhãn xứ thanh tịnh, nền nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh, nền sắc xứ thanh tịnh, nền thanh, hương, vị, xuất, Pháp xứ thanh tịnh, nền nhãn giới thanh tịnh, nền sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xuất cùng các thọ do nhãn xuất làm duyên sanh ra thanh tịnh, nền nhĩ giới thanh tịnh, nền thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xuất cùng các thọ do nhĩ xuất làm duyên sanh ra thanh tịnh, nền tỉ giới thanh tịnh, nền hương giới, tỉ thức giới và tỉ xuất cùng các thọ do tỉ xuất làm duyên sanh ra thanh tịnh, nền thiệt giới thanh tịnh, nền vị giới, thiệt thức giới và thiệt xuất cùng các thọ do thiệt xuất làm duyên sanh ra thanh tịnh, nền thân giới thanh tịnh, nền xuất giới, thân thức giới và thân xuất cùng các thọ do thân xuất làm duyên sanh ra thanh tịnh, nền ý giới thanh tịnh Nền pháp giới, ý thức giới và ý xuất cùng các thọ do ý xuất làm duyên sanh ra thanh tịnh, nền vị giới thanh tịnh, nền thủy, hỏa, phong, không, thức giới thanh tịnh, nền thánh đế khổ thanh tịnh, nền thánh đế tập, diệt, đạo thanh tịnh, nền vô minh thanh tịnh, nền hành, thức, danh sách, luật sứ, xuất, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não thanh tịnh, nền cái không nội thanh tịnh, nền cái không nội thanh tịnh, nền cái không nội thanh tịnh, n cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt tráo, cái không không biên giới, cái không tản mạng, cái không không đổi xác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh thanh tịnh, nền bố thí ba la mật đa thanh tịnh, nền tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, t tinh tấn, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạ tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh lạc, tịnh Thế nào là Đại Bồ-Tát khi tu hành sáu Pháp-Ba-la-mật-đa, đạo Bồ-đề Thanh tịnh? Thiện hiện đáp, xá lợi tử Sáu phép-Ba-la-mật-đa, mỗi phép đều có hai thứ, một là thế gian, hai là phức thế gian. Xá lợi tử hỏi, thế nào là bố thí-Ba-la-mật-đa-thế gian? Thiện hiện đáp, nếu Đại Bồ-Tát là Đại Thí Chủ, thì luôn luôn bố thí cho tất cả sa môn, ba-la-môn, người nghèo, người bệnh, người cô độc, người lỡ đường, người hành khắc, họ cần ăn, cho ăn, cần uống cho uống, cần xe cho xe, cần y phục cho y phục, cần hương cho hương, cần hoa cho hoa, cần đồ trang sức cho đồ trang sức, cần nhà cửa cho nhà cửa, cần thuốc men cho thuốc men, cần ánh sáng cho ánh sáng, cần đồ ngồi nằm cho đồ ngồi nằm, tất cả thứ ấy, tùy theo nhu cầu về sự sinh sống của họ mà cho đầy. Đủ. Kẻ kia chấp trước vào ba luân mà hành bố thí, một là tưởng về mình, hai là tưởng về người, ba là tưởng về vật cho. Do chấp trước ba luân này mà hành bố thí, nên gọi là thế gian bố thí-Ba-la-mật-đa. Vì duyên cớ gì mà sự bố thí này gọi là thế gian? Vì cùng làm như thế gian, chẳng đạt đến pháp suốt thế gian. Như vậy gọi là bố thí-Ba-la-mật-đa-thế gian. Kẻ kia chấp trước vào ba luân mà hành bố thí, một là tưởng về mình, hai là tưởng về người, ba là tưởng về vật cho. Do chấp trước ba luân này mà hành bố thí, nên gọi là thế gian bố thí-Ba-la-mật-đa. Vì duyên cớ gì mà sự bố thí này gọi là thế gian? Vì cùng làm như thế gian, chẳng đạt đến pháp suốt thế gian. Như vậy gọi là bố thí-Ba-la-mật-đa-thế gian. Xá lợi tử hỏi, thế nào là bố thí-Ba-la-mật-đa suốt thế gian? Thiện hiện đáp, nếu Đại Bồ-Tát, khi hành bố thí, ba luân thanh tịnh, một là chẳng chấp ta là người cho, hai là chẳng chấp kẻ kia là người nhận, ba là chẳng chấp việc bố thí và kết quả bố thí, thì đó là Đại Bồ-Tát khi thực hành bố thí, ba luân thanh tịnh. Lại, xá lợi tử. Nếu Đại Bồ-Tát lấy Đại Bi làm đầu, đem phước bố thí đã tu cho khắp hữu tình, thì đối với các hữu tình hoàn toàn không sợ đắt. Tuy cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, nhưng ở trong đó chẳng thấy một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà hành bố thí, nên gọi là bố thí-Ba-la-mật-đa suốt thế gian. Vì duyên cớ gì mà việc bố thí này gọi là suốt thế gian? Vì chẳng cùng làm như thế gian, vì có thể đạt đến Pháp suốt thế gian, nên gọi là bố thí-Ba-la-mật-đa suốt thế gian. Xá lợi tử. Thế nào là tình giới-Ba-la-mật-đa thế gian? Hiện hiện đắt, nếu Đại Bồ-Tát, tuy thọ trì tình giới, mà có chỗ nương, nghĩa là nghĩ thế này, ta vì lợi ích của tất cả hữu tình mà thọ trì tình giới, ta làm theo lời Phật dạy, đối với tình giới không có gì vi phạm, ta hành tình giới-Ba-la-mật-đa, thì trong khi vị ấy trì giới, lấy hữu sợ đắt làm phương tiện, cùng với các hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột. Lại khởi lên ý nghĩa thế này, ta đem Phước này bố thí cho các hữu tình, khiến đời này, đời khác được an vui cho đến chính đắc vô dư y niết bàn. Vị ấy chấp trước Ba luôn mà thọ trì giới, một là tưởng về mình, hai là tưởng về người, ba là tưởng về giới. Do chấp trước Ba luôn này mà thọ trì giới, nên gọi là tình giới-Ba-la-mật-đa thế gian. Vị duyên cớ gì mà tình giới này gọi là thế gian? Vị cùng làm như thế gian, vị chẳng đạt đến Pháp suốt thế gian, như vậy gọi là tình giới-Ba-la-mật-đa thế gian. Xá lợi tử hỏi, thế nào là tình giới-Ba-la-mật-đa suốt thế gian? Thiện hiện đáp, nếu Đại Bồ-Tát, khi thọ trì giới, Ba luôn thanh tịnh, một là chẳng chấp ta năng trì giới, hai là chẳng chấp hữu tình được phòng hộ, ba là chẳng chấp giới và kết quả của giới, thì gọi là Đại Bồ-Tát khi thọ trì giới, Ba luôn thanh tịnh. Đại Bồ-Tát lấy Đại Bi làm đầu, Đen Phước đã trì giới bố thí sắp hữu tình, đối với các hữu tình hoàn toàn không sợ đắt. Tuy cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, nhưng ở trong đó, chẳng thấy một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà thọ trì giới, nên gọi là tình giới-Ba-la-mật-đa suốt thế gian. Vị duyên cớ gì mà tình giới này gọi là suốt thế gian? Vị chẳng cùng làm như thế gian, vị có thể đạt đến Pháp suốt thế gian. Như vậy gọi là tình giới-Ba-la-mật-đa suốt thế gian. Xá lợi tử hỏi, thế nào là An-nhẫn-Ba-la-mật-đa thế gian? Thiện hiện đáp, nếu Đại Bồ-Tát, tuy tu An-nhẫn, mà có chỗ nương, nghĩa là khởi lên ý nghĩ thế này, ta vì sự lợi ích của tất cả hữu tình mà tu An-nhẫn, ta theo lời Phật dạy, Cùng với An-nhẫn Thù Thắng, thường tu tập đúng đắn, ta tu hành An-nhẫn-Ba-la-mật-đa, thì vị ấy khi tu hành An-nhẫn, lấy hữu sở đắc làm phương tiện, cùng với các hữu tình đồng hội hướng về quả vị giác ngộ cao tột, lại khởi lên ý nghĩ thế này, ta đem Phước này bố thí cho các hữu tình, khiến đời này, đời khác được An vui cho đến. Chứng đáp vô dư yi Niết Bang Vị ấy chấp trước Ba luôn mà tu hành An-nhẫn, một là tưởng về mình, hai là tưởng về người, ba là tưởng về nhẫn. Do chấp trước Ba luôn này mà tu An-nhẫn nên gọi là An-nhẫn-Ba-la-mật-đa thế gian. Vị duyên cớ gì mà An-nhẫn này gọi là thế gian? Vị cùng làm như thế gian, vị chẳng đạt đến Pháp suốt thế gian, như vậy, gọi là An-nhẫn-Ba-la-mật-đa thế gian. Xá lợi tử hỏi, thế nào là An-nhẫn-Ba-la-mật-đa suốt thế gian? Thiện hiện đáp, nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành An-nhẫn, Ba luôn thanh tịnh, một là chẳng chấp ta thường tu nhẫn, hai là chẳng chấp đối tượng nhẫn là hữu tình, ba là chẳng chấp trước nhẫn và kết quả của nhẫn, thì đó là Đại Bồ-Tát, khi tu hành An-nhẫn, Ba luôn thanh tịnh. Lại, xá lợi tử Đại Bồ-Tát lấy Đại Bi làm đầu, Đen Phước đã tu hành An-nhẫn bố thí sắp hữu tình, đối với các hữu tình hoàn toàn không sợ đắt, tuy cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, nhưng ở trong đó, chẳng thấy một chút trứng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà tu An-nhẫn, nên gọi là An-nhẫn-Ba-la-mật-đa suốt thế gian. Vị duyên cớ gì gọi An-nhẫn này là suốt thế gian? Vị chẳng cùng làm như thế gian, vị có thể đạt tới Pháp suốt thế gian, như vậy gọi là An-nhẫn-Ba-la-mật-đa suốt thế gian. Xá lợi tử hỏi, thế nào là tinh tấn Ba-la-mật-đa thế gian? Thiện hiện đáp, nếu Đại Bồ-Tát, tuy dốc lòng tinh tấn, nhưng có chỗ nương, nghĩa là khởi lên ý nghĩ thế này, ta vì lợi ích tất cả hữu tình mà dốc lòng tinh tấn, ta theo lời Phật dạy, sách tấn thân tâm không hề giải đải, ta hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, thì vị ấy khi hành tinh tấn, lấy hữu sợ đắt mà làm phương tiện, cùng với các hữu tình hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, lại khởi lên ý nghĩ, ta đem phước này bố thí cho các hữu tình, khiến đời này, đời khác được an vệ. Vị ấy chấp trước vào ba lương mà dốc lòng tinh tấn, một là tưởng về mình, hai là tưởng về người, ba là tưởng về tinh tấn. Do chấp trước ba lương này mà tu tinh tấn, nên gọi là tinh tấn Ba-la-mật-đa thế gian. Vị duyên cớ gì tinh tấn này gọi là thế gian? Vị cùng làm như thế gian, vị chẳng đạt đến pháp suốt thế gian, như vậy, gọi là tinh tấn Ba-la-mật-đa thế gian. Xá lợi tử hỏi, thế nào là tinh tấn Ba-la-mật-đa suốt thế gian? Thiện hiện đáp, nếu Đại Bồ-Tát, khi dốc lòng tinh tấn, làm cho ba lương thanh tịnh, một là chẳng chấp ta thường tinh tấn, hai là chẳng chấp vào cái vị hữu tình, ba là chẳng đắm vào sự tinh tấn và kết quả tinh tấn, thì đó là Đại Bồ-Tát khi dốc lòng tinh tấn, ba lương thanh tịnh. Lại, xá lợi tử. Đại Bồ-Tát lấy Đại Bi làm đầu, đem phước tinh tấn đã tu bố thí sắp hữu tình, đối với các hữu tình hoàn toàn không sợ đắt. Tuy cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, nhưng ở trong đó, chẳng thấy có một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà lại dốc lòng tinh tấn, nên gọi là tinh tấn Ba-la-mật-đa suốt thế gian. Vì duyên cớ gì tinh tấn này gọi là suốt thế gian? Vì chẳng cùng làm như thế gian, vì có thể đạt đến pháp suốt thế gian. Như vậy, gọi là tinh tấn Ba-la-mật-đa suốt thế gian. Xá lợi tử hỏi, thế nào là tình lựu Ba-la-mật-đa thế gian? Thiện hiện đắt, nếu Đại Bồ-Tát, tuy tu tình lựu, nhưng có chỗ nương, nghĩa là khởi lên ý nghĩ. Ta vì lợi ích tất cả hữu tình mà tu tình lựu, ta theo lời Phật dạy, đối với các đảng trì thù thắng luôn luôn tu tập đúng đắn, ta hành tình lựu Ba-la-mật-đa, thì vì ấy, khi tu định, lấy hữu sợ đắt mà làm phương tiện, cùng với các hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, lại khởi lên ý nghĩ. Ta đem Phước này bố thí cho các hữu tình, khiến đời này, đời khác được an vui cho đến chứng đắc vô dư y. Niết bàn. Vì ấy chấp trước Ba luôn mà tu tình lựu, một là tưởng về mình, hai là tưởng về người, ba là tưởng về tình lựu. Do chấp trước Ba luôn này mà tu tình lựu, nên gọi là tình lựu Ba-la-mật-đa thế gian. Vì duyên cớ gì tình lựu này gọi là thế gian? Vì cùng lầm như thế gian, vì chẳng đạt đến pháp suốt thế gian. Như vậy, gọi là tình lựu Ba-la-mật-đa thế gian. Xá lợi tử hỏi, thế nào là tình lựu Ba-la-mật-đa suốt thế gian? Thiện hiện đáp, nếu Đại Bồ-Tát, khi tu tình lựu, Ba luôn thanh tình, một là chẳng chấp ta thường tu tình, hai là chẳng chấp cái vị hữu tình, ba là chẳng đắm vào tình lựu và kết quả tình lựu, thì đó là Đại Bồ-Tát, khi tu tình lựu, Ba luôn thanh tình. Lại, xá lợi tử. Đại Bồ-Tát lấy Đại Bi làm đầu, đem phước đã tu tình lựu bố thí khắp hữu tình, đối với các hữu tình hoàn toàn không sợ đắt. Tuy cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, nhưng ở trong đó, chẳng thấy một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà tu tình lựu, nên gọi là tình lựu Ba-la-mật-đa suốt thế gian. Vì duyên cớ gì mà tình lựu này gọi là suốt thế gian? Vì chẳng cùng lầm như thế gian, vì có thể đạt đến pháp suốt thế gian. Như vậy, gọi là tình lựu Ba-la-mật-đa suốt thế gian. Xá lợi tử hỏi, thế nào là bác nhã Ba-la-mật-đa thế gian? Thiện hiện đáp, nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành bác nhã, mà có chỗ nương, nghĩa là khởi lên ý nghĩ, ta vị lợi ích cho tất cả hữu tình mà tu bác nhã, ta theo lời Phật dạy, đối với bác nhã Thù Thắng, thường tu hành đúng đắn, ta thường ăn năng trừ bỏ điều ác mình đã làm, ta thấy điều ác kẻ khác, hoàn toàn chẳng chê cách. Ta luôn luôn tùy hỷ sự tu phước của kẻ khác, ta thường thỉnh Phật chuyển pháp luôn nhiệm mầu, ta tùy theo điều đã nghe, luôn luôn chọn lựa đúng đắn, ta tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa. Thì vì ấy khi tu tuệ, lấy hữu sở đắc mà làm phương tiện, cùng với các hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, lại khởi lên ý nghĩ, ta đem phước này bố thí cho các hữu tình, khiến đời này, đời khác được an vui cho đến chứng đắc vô dư y niết bàn. Vì ấy chấp trước ba luôn mà tu bác nhã, một là tưởng về mình, hai là tưởng về người, ba là tưởng về bác nhã. Do chấp trước ba luôn này mà hành bác nhã nên gọi là bác nhã Ba-la-mật-đa thế gian. Vì duyên cớ gì bác nhã này gọi là thế gian? Vì cùng làm như thế gian, vì chẳng đạt đến pháp suốt thế gian. Như vậy, gọi là bác nhã Ba-la-mật-đa thế gian. Xá lợi tử hỏi, thế nào là bác nhã Ba-la-mật-đa suốt thế gian? Thiện hiện đáp, nếu Đại Bồ-Tát, khi tu hành bác nhã, ba luôn thanh tình, một là chẳng chấp ta thường tu tuệ, hai là chẳng chấp cái vì hữu tình, ba là chẳng đắm vào bác nhã Ba-la-mật-đa và kết quả bác nhã, thì đó là Đại Bồ-Tát, khi tu hành bác nhã, ba luôn thanh tình. Lại, xá lợi tử. Đại Bồ-Tát lấy Đại Bi làm đầu, đem phước đã tu hành bác nhã bố thí sắp hữu tình, đối với các hữu tình hoàn toàn vô sở đắc. Tuy cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, nhưng ở trong đó, chẳng thấy một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà tu hành bác nhã, nên gọi là bác nhã Ba-la-mật-đa suốt thế gian. Vì duyên cớ gì bác nhã này gọi là suốt thế gian? Vì chẳng cùng lầm như thế gian, vì có thể đạt đến Pháp suốt thế gian. Như vậy, gọi là bác nhã Ba-la-mật-đa suốt thế gian. Xá lợi tử. Như vậy là Đại Bồ-Tát khi tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa làm thanh tình đạo Bồ-đề. Khi ấy, xá lợi tử hỏi thiện hiện, những gì gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát. Thiện hiện đáp, xá lợi tử. Xá lợi tử. Chân như gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghị gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát. Xá lợi tử. Thánh đế khổ gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát, thánh đế tập, diệt, đạo gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát. Xá lợi tử. Bố thí Ba-la-mật-đa gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát, tỉnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tỉnh lựu, bát nhã Ba-la-mật-đa gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát. Xá lợi tử. Bốn tịnh lựu gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát, bốn vô lượng, bốn định vô sắc gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát. Xá lợi tử. Tám giải thoát gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát. Xá lợi tử. Bốn niệm trụ gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát. Xá lợi tử. Pháp môn giải thoát không gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát. Xá lợi tử. Năm loại mắt gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát, sáu phép thần thông gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát. Xá lợi tử. Mười lực của Phật gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát. Xá lợi tử. Pháp không quên mất gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát, tánh luôn luôn xá gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát. Xá lợi tử. Tất cả pháp môn Đà-La-Ni gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát, tất cả pháp môn Tam-ma-địa gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát. Xá lợi tử. Trí nhất thiết gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát. Xá lợi tử. Vô lường, vô biên các nhóm công đức lớn như vậy gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-Tát. Khi ấy, xá lợi tử khen thiện hiện, hay thay? Hay thay? Đúng như Ngài đã nói, công đức như vậy là do những thế lực Ba-la-mật-đa nào mà đạt được. Thiện hiện đáp, xá lợi tử. Công đức như vậy đều do thế lực của bác nhã Ba-la-mật-đa mà đạt được. Vì sao? Xá lợi tử. Vì bác nhã Ba-la-mật-đa ấy luôn luôn là mẹ của tất cả thiện pháp. Tất cả thiện pháp của Thanh Văn, Độc Giác, Bồ-Tát, Như Lai đều từ đó mà sanh. Xá lợi tử. Bác nhã Ba-la-mật-đa này có khả năng nhít họ khắp tất cả thiện pháp. Thiện pháp của Thanh Văn, Độc Giác, Bồ-Tát, Như Lai đều nương nơi đây mà an trúng. Xá lợi tử. Chiêu Phật quá khứ tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa vì đạt đến chỗ viên mạng rốt tráo nên đã chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luôn nhịp màu, độ vô lượng chúng sanh. 21. Phẩm Tịnh Đạo 02. Xá lợi tử. Nếu Đại Bồ-Tát nghe bác nhã Ba-la-mật-đa nói về thiện pháp của Thanh Văn, Độc Giác, Bồ-Tát, Như Lai đều có khả năng nhít họ khắp tất cả thiện pháp. 21. Phẩm Tịnh Đạo 02. Xá lợi tử. Nếu Đại Bồ-Tát nghe nói bác nhã Ba-la-mật-đa mà tâm không nghi hoặc, cũng chẳng mê mùi, thì nên biết Đại Bồ-Tát ấy trụ chỗ trụ như thị, chẳng lìa tác ý, nghĩa là muốn cứu hộ tất cả hữu tình, thường chẳng rời bỏ tác ý đại bi đối với tất cả hữu tình. Khi ấy, Xá lợi tử nói với thiện hiện, nếu Đại Bồ-Tát trụ chỗ trụ như thị, chẳng lìa tác ý, thì tất cả hữu tình cũng phải thành Đại Bồ-Tát. Vì sao? Vì tất cả hữu tình cũng thường chẳng lìa tác ý ngay. Vì vậy Đại Bồ-Tát cùng với tất cả hữu tình phải không sai khác. Lúc bấy giờ, cụ thọ thiện hiện khen Xá lợi tử hay thay? Hay thay? Đúng như Ngài đã nói, Ngài có khả năng nắm bắt đúng như thật cái nghĩa mà tôi đã nói. Vì sao? Xá lợi tử? Vì hữu tình phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì ngã, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, người do người sanh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, tự thọ quả báo, cái biết, cái thấy phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì hữu tình không thật nên biết tác ý cũng không thật, vì ngã cho đến cái thấy không thật nên biết tác ý cũng không thật. Vì hữu tình không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì ngã cho đến cái thấy không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì hữu tình là không nên biết tác ý cũng không, vì ngã cho đến cái thấy là không nên biết tác ý cũng là không. Vì hữu tình là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly, vì ngã cho đến cái thấy là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì hữu tình là tịch tình nên biết tác ý cũng tịch tình, vì ngã cho đến cái thấy là tịch tình nên biết tác ý cũng tịch tình. Vì hữu tình vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì ngã cho đến cái thấy vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử. Vì sắc phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu, vì thọ, tưởng, hành, thức phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì sắc không thật nên biết tác ý cũng không thật, vì thọ, tưởng, hành, thức không thật nên biết tác ý cũng không thật. Vì sắc không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì thọ, tưởng, hành, thức không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì sắc là không nên biết tác ý cũng không, vì thọ, tưởng, hành, thức là không nên biết tác ý cũng không. Vì sắc là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly, vì thọ, tưởng, hành, thức là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì sắc là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì thọ, tưởng, hành, thức là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì sắc vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì thọ, tưởng, hành, thức vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Vì nhãn xứ phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu, vì nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì nhãn xứ không thật nên biết tác ý cũng không thật, vì nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ không thật nên biết tác ý cũng không thật. Vì nhãn xứ không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì nhãn xứ là không nên biết tác ý cũng không, vì nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ là không nên biết tác ý cũng không. Vì nhãn xứ là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly, vì nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì nhãn xứ là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì nhãn xứ vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì nhĩ, tỉ, thiệt, thân, y xứ vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác. Phá lợi tử Vì xác xứ phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì xác xứ không thật nên biết tác ý cũng không thật, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không thật nên biết tác ý cũng không thật. Vì xác xứ không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì xác xứ là không nên biết tác ý cũng không, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không nên biết tác ý cũng không. Vì xác xứ là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì xác xứ là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì xác xứ vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Vì nhãn giới phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu, vì xác giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì nhãn giới không thật nên biết tác ý cũng không thật, vì xác giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không thật nên biết tác ý cũng không thật. Vì nhãn giới không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì xác giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì nhãn giới là không nên biết tác ý cũng không, vì xác giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không nên biết tác ý cũng không. Vì nhãn giới là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly, vì xác giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì nhãn giới là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì xác giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì nhãn giới vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì xác giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Vì nhĩ giới phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu, vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì nhĩ giới không thật nên biết tác ý cũng không thật, vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không thật nên biết tác ý cũng không thật. Vì nhĩ giới không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì nhĩ giới là không nên biết tác ý cũng không, vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không nên biết tác ý cũng không. Vì nhĩ giới là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly, vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì nhĩ giới là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì nhĩ giới vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Vì tỉ giới phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu, vì hương giới, tỉ thức giới và tỉ xúc cùng các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì tỉ giới không thật nên biết tác ý cũng không thật, vì hương giới cho đến các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra không thật nên biết tác ý cũng không thật. Vì tỉ giới không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì hương giới cho đến các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì tỉ giới là không nên biết tác ý cũng không, vì hương giới cho đến các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra là không nên biết tác ý cũng không. Vì tỉ giới là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly, vì hương giới cho đến các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì tỉ giới là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì hương giới cho đến các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì tỉ giới vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì hương giới cho đến các thọ do tỉ xúc làm duyên sanh ra vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Vì thiệt giới phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu, vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì thiệt giới không thật nên biết tác ý cũng không thật, vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không thật nên biết tác ý cũng không thật. Vì thiệt giới không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì thiệt giới là không nên biết tác ý cũng không, vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không nên biết tác ý cũng không. Vì thiệt giới là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly, vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì thiệt giới là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì thiệt giới vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Vì thân giới phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu, vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì thân giới không thật nên biết tác ý cũng không thật, vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không thật nên biết tác ý cũng không thật. Vì thân giới không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì thân giới là không nên biết tác ý cũng không, vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không nên biết tác ý cũng không. Vì thân giới là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly, vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì thân giới là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì thân giới vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Vì ý giới phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu, vì Pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì ý giới không thật nên biết tác ý cũng không thật, vì Pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không thật nên biết tác ý cũng không thật. Vì ý giới không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì Pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì ý giới là không nên biết tác ý cũng không, vì Pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không nên biết tác ý cũng không. Vì ý giới là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly, vì Pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì ý giới là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì Pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì ý giới vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì Pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác. Phá lợi tử Vì địa giới phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì địa giới không thật nên biết tác ý cũng không thật, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thật nên biết tác ý cũng không thật. Vì địa giới không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì địa giới là không nên biết tác ý cũng không, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không nên biết tác ý cũng không. Vì địa giới là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì địa giới là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì địa giới vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Vì thánh đế khổ phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu, vì thánh đế tập, diệt, đạo phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì thánh đế khổ không thật nên biết tác ý cũng không thật, vì thánh đế tập, diệt, đạo không thật nên biết tác ý cũng không thật. Vì thánh đế khổ không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì thánh đế tập, diệt, đạo không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì thánh đế khổ là không nên biết tác ý cũng không, vì thánh đế tập, diệt, đạo là không nên biết tác ý cũng không. Vì thánh đế khổ là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly, vì thánh đế tập, diệt, đạo là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì thánh đế khổ là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì thánh đế tập, diệt, đạo là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì thánh đế khổ vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì thánh đế tập, diệt, đạo vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác. Phá lợi tử Vì vô minh phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu, vì hành, thức, danh sách, luật sứ, xuất, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì vô minh không thật nên biết tác ý cũng không thật, vì hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não không thật nên biết tác ý cũng không thật. Vì vô minh không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não không có tự tánh nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì vô minh là không nên biết tác ý cũng không, vì hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não là không nên biết tác ý cũng không. Vì vô minh là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly, vì hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não là viễn ly nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì vô minh là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não là tịch tịnh nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì vô minh vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì hành cho đến lão tử, sầu, thang, khổ, ưu, não vô tri giác nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Vì cái xong nội phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu, vì cái xong ngoại, cái xong nội ngoại, cái xong không, cái xong lớn, cái xong thắng nghĩa, cái xong hữu vi, cái xong vô vi, cái xong rốt tráo, cái xong không viên giới, cái xong tảng mạng, cái xong không đội khác, cái xong bản tánh, cái xong tự tướng, cái xong tổng tướng, cái xong tất cả pháp, cái xong chẳng thể nắm bắt được, cái xong không tánh, cái xong tự tánh, cái xong không tánh tự tánh phi hữu nên biết tác ý cũng phi hữu, vì cái xong nội xong thật nên biết tác ý cũng xong thật, vì cái xong ngoại cho đến cái xong không tánh tự tánh xong thật nên biết tác ý cũng xong thật, vì cái xong nội xong có tự tánh nên biết tác ý cũng xong có tự tánh, vì cái xong ngoại cho đến cái xong không tánh tự tánh xong có tự tánh nên biết tác ý cũng xong có tự tánh. Vì cái xong nội là không, nên biết tác ý cũng không, vì cái xong ngoại cho đến cái xong không tánh tự tánh là không, nên biết tác ý cũng không. Vì cái xong nội là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly, vì cái xong ngoại cho đến cái xong không tánh tự tánh là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì cái xong nội là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì cái xong ngoại cho đến cái xong không tánh tự tánh là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì cái xong nội vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì cái xong ngoại cho đến cái xong không tánh tự tánh vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Vì chân như phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu, vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly xanh, định pháp, trụ pháp, thực tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tương nghị phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì chân như không thật, nên biết tác ý cũng không thật, vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nghị không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì chân như không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nghị không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì chân như là không, nên biết tác ý cũng không, vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nghị là không, nên biết tác ý cũng không. Vì chân như là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly, vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nghị là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì chân như là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nghị là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì chân như vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tương nghị vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Vì bố thí ba la mật đa phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu, vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bác nhã ba la mật đa phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì bố thí ba la mật đa không thật, nên biết tác ý cũng không thật, vì tịnh giới cho đến bác nhã ba la mật đa không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì bố thí ba la mật đa không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì tịnh giới cho đến bác nhã ba la mật đa không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì bố thí ba la mật đa là không, nên biết tác ý cũng không, vì tịnh giới cho đến bác nhã ba la mật đa là không, nên biết tác ý cũng không. Vì bố thí ba la mật đa là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly, vì tịnh giới cho đến bác nhã ba la mật đa là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì bố thí ba la mật đa là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì tịnh giới cho đến bác nhã ba la mật đa là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì bố thí ba la mật đa vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì tịnh giới cho đến bác nhã ba la mật đa vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Vì bốn tịnh lự phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu, vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì bốn tịnh lự không thật, nên biết tác ý cũng không thật, vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì bốn tịnh lự không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì bốn tịnh lự là không, nên biết tác ý cũng không, vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không, nên biết tác ý cũng không. Vì bốn tịnh lự là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly, vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì bốn tịnh lự là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì bốn tịnh lự vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Vì tám giải thoát phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu, vì tám tháng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì tám giải thoát không thật, nên biết tác ý cũng không thật, vì tám tháng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì tám giải thoát không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì tám tháng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì tám giải thoát là không, nên biết tác ý cũng không, vì tám tháng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ là không, nên biết tác ý cũng không. Vì tám giải thoát là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly, vì tám tháng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì tám giải thoát là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì tám tháng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì tám giải thoát vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì tám tháng xứ, chính định thứ đệ, mười biến xứ vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Vì bốn niệm trụ phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu, vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căng, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì bốn niệm trụ không thật, nên biết tác ý cũng không thật, vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì bốn niệm trụ không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì bốn niệm trụ là không, nên biết tác ý cũng không, vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không, nên biết tác ý cũng không. Vì bốn niệm trụ là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly, vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì bốn niệm trụ là tịch tình, nên biết tác ý cũng tịch tình, vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là tịch tình, nên biết tác ý cũng tịch tình. Vì bốn niệm trụ vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Vì pháp môn giải thoát không phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu, vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì pháp môn giải thoát không không thật, nên biết tác ý cũng không thật, vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì pháp môn giải thoát không không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì pháp môn giải thoát không là không, nên biết tác ý cũng không, vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không, nên biết tác ý cũng không. Vì pháp môn giải thoát không là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly, vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì pháp môn giải thoát không là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì pháp môn giải thoát không vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Vì năm loại mắt phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu, vì sáu phép thần thông phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì năm loại mắt không thật, nên biết tác ý cũng không thật, vì sáu phép thần thông không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì năm loại mắt không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì sáu phép thần thông không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì năm loại mắt là không, nên biết tác ý cũng không, vì sáu phép thần thông là không, nên biết tác ý cũng không. Vì năm loại mắt là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly, vì sáu phép thần thông là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì năm loại mắt là tịch tình, nên biết tác ý cũng tịch tình, vì sáu phép thần thông là tịch tình, nên biết tác ý cũng tịch tình. Vì năm loại mắt vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì sáu phép thần thông vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Vì mười lực của Phật phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu, vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xã, mười tám Pháp Phật bất cộng phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì mười lực của Phật không thật, nên biết tác ý cũng không thật, vì bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì mười lực của Phật không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì mười lực của Phật là không, nên biết tác ý cũng không, vì bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng là không, nên biết tác ý cũng không. Vì mười lực của Phật là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly, vì bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì mười lực của Phật là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì mười lực của Phật vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Vì Pháp không quên mất phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu, vì tánh luôn luôn xả phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì Pháp không quên mất không thật, nên biết tác ý cũng không thật, vì tánh luôn luôn xả không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì Pháp không quên mất không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì tánh luôn luôn xả không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì Pháp không quên mất là không, nên biết tác ý cũng không, vì tánh luôn luôn xả là không, nên biết tác ý cũng không. Vì Pháp không quên mất là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly, vì tánh luôn luôn xả là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì Pháp không quên mất là tịch tình, nên biết tác ý cũng tịch tình, vì tánh luôn luôn xả là tịch tình, nên biết tác ý cũng tịch tình. Vì Pháp không quên mất vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì tánh luôn luôn xả vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Vì tất cả Pháp môn Đà-la-ni phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu, vì tất cả Pháp môn Tam-ma-địa phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì tất cả Pháp môn Đà-la-ni không thật, nên biết tác ý cũng không thật, vì tất cả Pháp môn Tam-ma-địa không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì tất cả Pháp môn Đà-la-ni không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì tất cả Pháp môn Tam-ma-địa không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì tất cả Pháp môn Đà-la-ni là không, nên biết tác ý cũng không, vì tất cả Pháp môn Tam-ma-địa là không, nên biết tác ý cũng không. Vì tất cả Pháp môn Đà-la-ni là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly, vì tất cả Pháp môn Tam-ma-địa là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì tất cả Pháp môn Đà-la-ni là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì tất cả Pháp môn Tam-ma-địa là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì tất cả Pháp môn Đà-la-ni vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì tất cả Pháp môn Tam-ma-địa vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác. Phá lợi tử Vì trí nhất thiết phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu, vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì trí nhất thiết không thật, nên biết tác ý cũng không thật, vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì trí nhất thiết không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì trí nhất thiết là không, nên biết tác ý cũng không, vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không, nên biết tác ý cũng không. Vì trí nhất thiết là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly, vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì trí nhất thiết là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì trí nhất thiết vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Vì quả vị thanh văn phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu, vì quả vị độc giác, quả vị vô thường phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì quả vị thanh văn không thật, nên biết tác ý cũng không thật, vì quả vị độc giác, quả vị vô thường không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì quả vị thanh văn không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh, vì quả vị độc giác, quả vị vô thường không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì quả vị thanh văn là không, nên biết tác ý cũng không, vì quả vị độc giác, quả vị vô thường là không, nên biết tác ý cũng không. Vì quả vị thanh văn là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly, vì quả vị độc giác, quả vị vô thường là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì quả vị thanh văn là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh, vì quả vị độc giác, quả vị vô thường là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì quả vị thanh văn vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác, vì quả vị độc giác, quả vị vô thường vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác. Xá lợi tử Do duyên cớ này, các Đại Bồ-Tát trụ trổ trụ như thị, nên thường chẳng xả tác ý đại bi. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn khen thiện hiện, hay thay? Hay thay? Ông có khả năng khéo vì Đại Bồ-Tát mà tuyên thuyết bác nhã Ba-la-mật-đa, đó là đều do sức quai thần của Như Lai. Có vị nào muốn vì Đại Bồ-Tát mà tuyên thuyết bác nhã Ba-la-mật-đa thì đều nên như ông mà tuyên thuyết. Có các Đại Bồ-Tát nào muốn học bác nhã Ba-la-mật-đa thì đều nên theo điều ông nói mà học. Khi cụ Thọ thiện hiện vì các Đại Bồ-Tát tuyết bác nhã Ba-la-mật-đa ấy, thì ở trong tam thiên đại thiên thế giới này, sáu thứ chuyển biến, đó là Đồng, Đồng rất mạnh, tất cả đều Đông mạnh, Phung, Phung rất mạnh, tất cả đều Phung mạnh, Rung, Rung rất mạnh, tất cả đều Rung mạnh, Chạm, Chạm rất mạnh, tất cả đều Chạm mạnh, Nổ, Nổ rất lớn, tất cả đều Nổ lớn, Nước, Nước rất lớn, tất cả đều Nước lớn, Đông Phung Tây Chiền, Tây Phung Đông Chiền, Nam Phung Bắc Chiền, Bắc Phung Nam Chiền, Chính giữa Phung, Bên Mé Chiền, Bên Mé Phung Chính giữa Chiền. Lúc bấy giờ Đức như lai liền miễn cười. Cụ thọ thiện hiện bạch, bạch thế tôn. Vì nhân duyên gì mà ngài miễn cười? Phật bảo thiện hiện, như ta ở thế giới khăm nhẫn ba lần ngàn này. Vì các đại Bồ Tát mà tuyên thuyết bác nhã Ba-la-mật-đa, này chư Phật thế tôn ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương cũng vì các đại Bồ Tát mà tuyên thuyết bác nhã Ba-la-mật-đa. Như này ở thế giới khăm nhẫn ba lần ngàn này có mười hai ức các trời, người v.v. Nghe thuyết bác nhã Ba-la-mật-đa ở trong các Pháp, chính đắc vô sanh nhẫn, này ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương, đều có vô lượng, vô số, vô biên hữu tình nghe chư Phật ở cõi ấy. Thuyết bác nhã Ba-la-mật-đa cũng phát tâm cầu chính quả vị giác ngộ cao tột.

Listen Next

Other Creators