Home Page
cover of kinhdaibatnha (469)
kinhdaibatnha (469)

kinhdaibatnha (469)

00:00-43:39

Nothing to say, yet

Podcastspeech synthesizerspeechnarrationmonologuemale speech
0
Plays
0
Downloads
0
Shares

Transcription

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 19, Quyện 469, LXXVI Phẩm Các Đức Tướng 02 Bây giờ, Cụ Thọ Thiện hiện lại Bạch Phật. Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát thật là hy hữu, thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa sâu xa, quán sát hai Pháp không, vì biết tất cả các Pháp như mộng, như tiếng vang, như bóng dáng, như ảnh, như quán nắng, như huyển, nhiều biến hóa đều chẳng thật có, lấy vô tánh làm tánh, tự tướng đều không nhưng vì ấy có thể an lập các Pháp thiện ác khác nhau hoàn toàn không lẫn lộn. Phật Bảo Thiện hiện Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông nói Các Đại Bồ Tát thật là hy hữu, thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa sâu xa, quán sát hai Pháp không, tuy biết các Pháp đều như mộng đều không thật có, lấy vô tánh làm tánh, tự tướng đều không nhưng có thể an lập các Pháp thiện ác khác nhau không hề lẫn lộn. Các ông nên biết Các Pháp kỳ lạ hy hữu mà các Đại Bồ Tát có được khi thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa sâu xa là Pháp mà thanh văn, độc giác đều không thành tựu, không thể đo lượng. Đối với Tài Biện Bác của các Đại Bồ Tát, tất cả thanh văn, độc giác các ông còn không thể đối đáp huống là các hữu tình khác mà có thể đối đáp sao? Cụ Thọ Thiện hiện lại bạch Phật Những gì là Pháp kỳ lạ hy hữu mà các Đại Bồ Tát có được khi thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa là Pháp mà thanh văn, độc giác đều không thành tựu, không thể so lường. Phật Bảo Thiện hiện Hãy lắng nghe cho kỹ Hãy lắng nghe cho kỹ Rồi ghi nhớ điều này ta sẽ giảng nói phân biệt cho ông nghe về Pháp kỳ lạ hy hữu mà các Đại Bồ Tát có được lúc thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa sâu xa. Thiện hiện Lúc thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa sâu xa, các Đại Bồ Tát an trụ vào kết quả của Bố Thí Ba La Mật Đa cho đến Bát Nhã Ba La Mật Đa, hoặc Năm Thần Thông, hoặc 37 Pháp Bồ Đề Phần, hoặc Đà La Ni, hoặc Tam Ma Địa, hoặc Môn Giải Thoát Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, hoặc 4 Tịnh Lự, 4 Vô Lượng, 4 Định Vô Sắc, hoặc 8 Giải Thoát, 8 Thắng Sướng, 9 Định Thứ Đệ, 10 Biến Sướng, hoặc Vô Lượng Vô Biên Phật Pháp khác. Nếu các hữu tình ở khắp 10 phương thế giới cần dùng Bố Thí Ba La Mật Đa cho đến Bát Nhã Ba La Mật Đa để hộ trì, vị ấy liền dùng Bố Thí Ba La Mật Đa cho đến Bát Nhã Ba La Mật Đa để hộ trì họ, người cần dùng Sơ Tịnh Lự cho đến Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Sứ để hộ trì, vị ấy liền dùng Sơ Tịnh Lự cho đến Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Sứ để hộ trì họ, người cần dùng Từ Bi Hỷ Xã để hộ trì, vị ấy liền dùng Từ Bi Hỷ Xã hộ trì họ, người cần dùng 4 Niệm Trụ cho đến 8 Chi Thánh Đạo để hộ trì, vị ấy. Liền dùng 4 Niệm Trụ cho đến 8 Chi Thánh Đạo hộ trì họ, người cần dùng Tam Ma Địa, không, Vô Tướng, Vô Nguyện để hộ trì, vị ấy liền dùng Tam Ma Địa, không, Vô Tướng, Vô Nguyện hộ trì họ, người cần dùng các thiện pháp khác để hộ trì, vị ấy liền dùng các thiện pháp khác để hộ trì họ. Cụ Thọ Thiện Hiện Lại Bạch Phật Lúc thực hành bác nhã Palamatta sâu xa, các Đại Bồ Tát làm thế nào an trụ vào kết quả của vô lượng công đức nhiêu pháp Palamatta, 5 thần thông V.V. để bố thí hộ trì các hữu tình. Phật Bảo Thiện Hiện Lúc thực hành bác nhã Palamatta sâu xa, các Đại Bồ Tát bố thí cho các hữu tình những vật họ cần dùng, nghĩa là người cần đồ ăn uống thì bố thí cho đồ ăn uống, người cần y phục thì thí cho y phục, người cần xe cổ thì thí cho xe cổ, người cần hoa hương thì thí cho hoa hương, người cần ngọa cụ thì thí cho ngọa cụ, người cần nhà cửa thì thí cho nhà cửa, người cần đèn sáng thì thí cho đèn sáng, người cần thuốc men thì thí cho thuốc men, người cần các đồ vật khác thì đều thí cho không để thiếu. Thống Hoặc cúng dường cho thanh văn, độc giác, Bồ Tát, chiêu vật thế tôn các thứ y phục, đồ ăn uống, ngọa cụ, thuốc men, nhà cửa, đồ đạc, các loại hương hoa vi diệu, cờ lỏng báu, âm nhạc, đèn sáng và các phẩm vật khác như ván sữa, dầu. Lúc cúng dường, bố thí như vậy, Bồ Tát giữ tâm bình đẳng, không có ý tưởng sai khác để thực hành bố thí, bình đẳng bố thí cho người phạm giới và người giữ giới, bình đẳng bố thí cho người hoặc phi nhân, bình đẳng bố thí cho nội đạo, ngoại đạo, bình đẳng bố thí cho bậc thánh và phạm phu, bình đẳng bố thí cho người cao sang và kẻ hạ tiện. Trên từ chiêu vật súng cho đến súc thanh vị ấy đều bố thí một cách bình đẳng, không có phân biệt, không quan sát sự hơn kém khác nhau của các trụng phước. Vì sao? Vì các Đại Bồ Tát thông suốt tự tướng của tất cả Pháp đều không, trong Pháp không hoàn toàn không có sự cao thấp khác nhau nên vị ấy không có ý tưởng khác, không có phân biệt khi thực hành bố thí. Do không có ý tưởng khác và không có phân biệt khi thực hành bố thí nên Đại Bồ Tát này sẽ chứng đắc Pháp không khác, không phân biệt, nghĩa là được viên mãn trí nhất thiết tướng và vô lượng công đức khác của chiêu vật. Thiện hiện nên biết. Nếu Đại Bồ Tát thấy các loài bàn xanh, có cầu sinh điều gì liền nghĩ, người đến sinh này nếu là như lai ứng chánh đẳng giác là ruộng phước chân chánh thì ta nên cúng dường vị ấy, nếu chẳng phải như lai ứng chánh đẳng giác mà là bàn xanh chẳng phải ruộng phước thì ta không nên bố thí cho chúng những vật cần dùng. Đại Bồ Tát nào nghĩ như vậy thì vượt Pháp Bồ Tát. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát cần phải có tâm thanh tịnh thì ruộng phước mới thanh tịnh, thấy người cầu sinh thì không nên nghĩ, hữu tình như vậy có cầu vật chi thì ta nên bố thí, còn hữu tình như vậy có cầu vật chi thì ta không nên bố thí. Bồ Tát nào nghĩ như vậy là trái với tâm bồ đệ rộng lớn đã được phát sanh trước đây, nghĩa là các Bồ Tát phát tâm bồ đệ như sao, vì các hữu tình ta sẽ làm chỗ nương tựa, cồng đảo, nhà cửa, nơi cứu giúp. Thấy người đến sinh Bồ Tát phải nghĩ, nay hữu tình này nghèo thiếu, cô đơn, ta phải dùng việc bố thí để bảo bọc họ. Nhờ đó người kia sẽ không trọng cấp độ vật của người khác, ít muốn, biết đủ và có thể bố thí trở lại cho người khác. Nhờ vậy họ có thể lì bỏ việc giết hại sanh mạng nói rộng cho đến có thể bỏ việc nói lời thô tục, cũng có thể điều phục tham sân tạ kiến. Sau khi chết nương theo phước nghiệp đời trước, họ sanh vào các dòng họ lớn như sát đế lợi, bà la môn, trưởng giả hoặc cư sĩ hoặc gia đình giàu sang khác, đầy đủ cụ cãi, tu các nghiệp lành, hoặc nhờ được sự bố thí hậu trì nên vị ấy dựa vào ba thừa mạ tuần tự tiến đến nơi viên tịch nghĩa là giúp cho họ chứng đắc thanh văn, độc giác và cảnh giới vô thường thừa bát nhuyết bàn. Lại nửa thiên hiện. Đại Bồ Tát nào bị các kẻ thù hoặc các hữu tình khác đến làm hại, hoặc có người nghèo thiếu đến xin các bộ phận nơi thân và các thứ cụ cãi, Đại Bồ Tát này không nên sanh tâm phân biệt sai khác là nên bố thí vật này, không nên bố thí cho vật nọ, chỉ nên phát sanh tâm bình đẳng, tùy theo họ cầu xin thân thể hay cụ cãi đều bố thí cho họ. Vì sao? Vì để làm lợi ít các hữu tình nên Đại Bồ Tát này cầu chứng đắc quả vị vô thường chánh đẳng bồ đệ, chớ chẳng phải vì lợi lạc thân mạng mình. Ai phát sanh tâm phân biệt sai khác là nên bố thí vật này, không nên bố thí vật nọ liền bị như lai ứng chánh đẳng giác, các Bồ Tát, độc giác, thanh văn, thế gian, trời, người, Atula và các thánh hiện cùng nhau gội cách, ai mời thỉnh ông phát tâm bồ đệ, thể làm lợi lạc sắp các loại hữu tình, làm nơi nương tự cho người không nơi nương tựa, làm nhà cửa cho người không nhà cửa, làm cổng đảo cho người không có cổng đảo, cứu giúp người không ai cứu giúp, tạo an vui cho người không được an vui mà. Này phân biệt bố thí vật này, không bố thí vật kia. Lại nửa thiện hiện. Lúc Đại Bồ Tát thực hành bác nhã Balamuddha sâu xa, nếu có người hoặc phi nhân đến cầu xin các loại tay chân, tuổi não, Đại Bồ Tát này không nên phát sanh hai tâm phân biệt là bố thí và không bố thí, mà chỉ nghĩ, tùy theo người kia xin gì ta đều bố thí cho. Vì sao? Vì Đại Bồ Tát này thường nghĩ, vì lợi ích cho hữu tình nên ta thọ nhận thân này, nếu có ai đến cầu xin thì ta nhất định bố thí cho không được không bố thí. Thấy người đến xin Bồ Tát liền nghĩ, ta vốn nhận thân này là vì người khác, người kia không đến lấy ta còn phải tự cho hún gì họ đến xin mà ta không cho sao. Nghĩ xong, vị ấy vui mừng cực độ, tự cắt tay chân mà đưa cho người kia. Vị ấy lại tự vui mừng mà nói, nay ta đạt được lợi ích lớn là bỏ thân dơ bẩn, được thân trong sạch. Thiện hiện Các Đại Bồ Tát thực hành bát nhã ba la mật đa nên học như vậy. Lại nữa thiện hiện Nếu Đại Bồ Tát thấy người cầu xin liền nghĩ, ở trong đây ai bố thí, ai nhận, vật thí là gì, do đâu mà bố thí, vì ai mà thí, vì sao mà thí, tự tánh các Pháp đều bất khả đắc. Vì sao? Vì các Pháp như vậy hoàn toàn không. Trong Pháp không chẳng có các việc như cho, chín đoạt, bố thí, nhận. Thiện hiện Lúc thực hành bát nhã ba la mật đa sâu xa, các Đại Bồ Tát nên học các Pháp đều không như vậy, nghĩa là hoặc do nội không nên không cho đến do vô tính tự tính không nên không. Đại Bồ Tát này an trụ vào Pháp không để thực hành bố thí, thường không gián đoạn việc viên mãn bố thí ba la mật đa. Do việc bố thí ba la mật đa này được viên mãn nên khi bị người khác cắt chặt, cướp đoạt tất cả các vật bên trong và bên ngoài tâm vị ấy hoàn toàn không phân biệt, sân hận, chỉ nghĩ, hữu tình và Pháp tất cả đều không, ai cắt chặt ta, ai cướp đoạt ta, ai nhận lấy, ai quan sát. Lại nửa thiện hiện Ta dùng Phật nhãn quán khắp hàng hà sa số thế giới ở mười phương, thấy có Đại Bồ Tát vì muốn làm lợi lạc cho các loài hữu tình nên nguyện vào Đại Địa Mục, thấy các hữu tình chịu các nỗi khổ kịch liệt. Sau khi thấy vậy, vị ấy phát sanh ba cách giáo hóa, những gì là ba? Một là giáo hóa bằng thần biến, hai là giáo hóa bằng cách ký thuyết, ba là giáo hóa bằng cách giáo giới. Đại Bồ Tát này dùng thần biến giáo hóa bằng cách việt trừ các thứ gây khổ trong Địa Mục, như nước sôi, lửa, dao, dùng ký thuyết dạy đạo bằng cách thăm dò tùy theo tâm niệm của các hữu tình ấy mà thuyết pháp cho họ, dùng giáo giới dạy đạo bằng cách phát sanh từ bi hỷ xã đối với họ để thuyết pháp, làm cho các loài hữu tình ở Địa Mục ấy phát sanh lòng tin chân chánh đối với Bồ Tát. Do nhân duyên này, ra khỏi Địa Mục, họ được sanh lên trời, hoặc sanh làm người tuần tự dựa vào Ba Thừa để giứt sạch bờ mé khổ, chính cảnh giới Niết Bàn hoàn toàn an lạc. Lại nửa thiên hiện. Ta dùng Phật nhãn quan sát hàng hà xa số thế giới sắp mười phương, thấy có Đại Bồ Tát phụng sự cúng dường chiêu Phật Thế Tôn. Lúc thừa sự cúng dường chiêu Phật Thế Tôn, các Đại Bồ Tát trước vui mừng, ưa thích, cung chính, chẳng khi nào không vui mừng, ưa thích, cung chính. Đối với chánh Pháp mà các vị như Lai ứng chánh Đặng Giác đã nói, vị ấy cung chính lắng nghe, thọ trì, đọc tụng cho đến khi đạt quả vị vô thường chánh Đặng Bồ Đề Trọng không quên mất. Vị ấy Đen Pháp đã được nghe giảng nói một cách đúng đắn, giúp các hữu tình đạt được an lạc, lợi ích thu thắng. Lại nửa thiên hiện. Ta dùng Phật nhãn quan sát hàng hà xa số thế giới khắp mười phương thấy có Đại Bồ Tát vì muốn lợi ích các loài hữu tình trong đường súc xanh nên vị ấy tự xả bỏ thân mạng. Đại Bồ Tát này thấy các súc xanh bị lửa đói áp bước muốn giết hại nhau, nên vị ấy phát sanh lòng thương xót tự cắt các bộ phận của thân, chặt đứt xương cốt quăng khắp mười phương cho chúng tự ý ăn nuốt. Các loài súc xanh được ăn thịt trên thân của Bồ Tát này đều rất kính yêu và hổ thẹn đối với Bồ Tát. Do nhân duyên này, chúng thoát khỏi đường súc xanh và được sanh lên trời hoặc sanh làm người, gặp được nhiều loài ứng chánh đẳng giác, nghe giảng chánh pháp, tu hành đúng đắn, tuần tự nương vào ba thừa mà đến nơi viên tịch, nghĩa là chứng đắc Đại Thừa Vô Thượng, độc giác, thanh văn và nhập cảnh giới Niết Bàn. Thế nên, thiên hiện, các Đại Bồ Tát có thể vì thế gian mà làm các việc khó làm, tạo nhiều lợi ích, đó là để lợi lạc các hữu tình. Vì ấy tự phát tâm quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đệ, cũng làm cho người khác phát tâm ấy, tự thực hành các loài chánh hạnh như thật, cũng làm cho người khác thực hành. Lại nửa thiên hiện, ta dùng Phật nhãn quan sát khắp hàng hạ sa số thế giới ở mười phương, thấy có Đại Bồ Tát vì muốn làm lợi ích cho các loài hữu tình trong đường ngạ quỷ, nên nguyện đến coi ấy tìm cách giúp trừ nỗi khổ đói khát, làm cho các ngạ quỷ được giúp hết các nỗi khổ và sanh tâm kính yêu, hổ thẹn đối với Bồ Tát này. Bồ Tát lại giảng nói Pháp yếu liệt kêu kiệt cho họ nghe, nghe xong họ sanh tâm bố thí. Nhờ căng lành này, họ được thoát khỏi đường ngạ quỷ, được sanh làm trời hoặc người, được gặp nhiều lai ứng chánh đẳng giác, cúng dường, cùng kính nghe giảng chánh Pháp, tuần tự tu tập chánh hạnh thuộc Ba Thừa cho đến khi chính Đắc Vô Thượng Đại Thừa Độc Giác, Thanh Văn, nhập cảnh giới Niết Bàn. Thế nên, thiên hiện, các đại Bồ Tát an trụ vào đại bi đối với loài hữu tình, phát sanh vô số phương tiện thiện xảo giúp họ chính Đắc Niết Bàn thuộc Ba Thừa. Lại nửa thiên hiện, ta dùng Phật nhãn quan sát khắp hàng hà sa số thế giới ở mười phương có đại Bồ Tát, dùng phương tiện thiện xảo giảng nói chánh Pháp cho Chiêu Thiên Trời Tứ Đại Vương, cho đến Chiêu Thiên Trời Tha Hóa Tự Tại. Sau khi nghe Bồ Tát giảng chánh Pháp, Chiêu Thiên ấy tuần tự dựa vào Ba Thừa xiên tu chánh hạnh và chính nhập cảnh giới Niết Bàn. Thiên hiện nên biết, trong thiên chúng kia có các thiên tử thăm đắm năm loại dục lạc vi diệu của cõi trời và các cung điện báu mà họ ở. Đại Bồ Tát này thì hiện phát lửa thiêu đốt cung điện của họ làm cho họ sanh nhằm chán sợ hãi. Nhân đó Bồ Tát giảng nói cho họ nghe Pháp, các thiên tử, hãy quan sát kỹ các hành vô thường, khổ không, vô ngã, không đáng tin cậy, người trí không có say đắm Pháp này. Nghe Pháp âm này, các thiên tử rất chán và sợ hãi năm dục, tự quán thân mạng giả dối vô thường giống như thân cây chuối, ánh chép, quán nắng, quán các cung điện giống như lau ngục. Sau khi quán như vậy họ tuần tự nương vào Ba Thừa xiên tu chánh hạnh và đạt được viên tịch nghĩa là tuần tự chính nhập Niết Bàn thuộc Ba Thừa. Lại nửa thiên hiện. Ta dùng Phật nhãn quan sát khắp hàng hà xa số thế giới ở mười phương, có đại Bồ Tát thấy các vị Phạm Thiên chấp trước vào cảnh giới của các kiến thức, nên dùng phương tiện dạy họ nhằm chán xả bỏ. Bồ Tát dạy, ở trong các hành rỗng không, vô tướng, hư dối, không thật, vì sao Chiêu Thiên các ông lại phát sanh các kiến thủ ác như vậy? Hãy mau xả bỏ nó và tin nhận chánh Pháp để giúp cho các ông được an lạc lợi ít lâu dài. Thế nên, thiên hiện. Các đại Bồ Tát an trụ đại vi giảng nói Pháp yếu cho các hữu tình. Thiên hiện. Đó là Pháp kỳ lạ hy hữu mà các đại Bồ Tát có được. Lại nửa thiên hiện. Ta dùng Phật nhãn thanh tịnh không chứng ngại, quán khắp hàng hà xa số thế giới ở mười phương thấy có đại Bồ Tát dùng bốn nhất sự để cứu giúp các hữu tình. Những gì là bốn? Một là bố thí, hai là ái nữ, ba là lợi hành, bốn là đồng sự. Thiên hiện. Đại Bồ Tát dùng bố thí để cứu giúp các hữu tình như thế nào? Thiên hiện. Các đại Bồ Tát dùng hai cách bố thí để cứu giúp các hữu tình. Hai cách thí đó là tài thí và Pháp thí. Thiên hiện. Đại Bồ Tát dùng tài thí để cứu giúp các hữu tình như thế nào? Thiên hiện. Thực hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, các đại Bồ Tát có thể đem các loại đồ ăn, uống, y phục, nhà ở, ngòa cụ, xe cổ, đèn sáng, âm nhạc, hương hoa, cờ lỏng báu, anh lạc, bố thí cho các hữu tình, hoặc đem vàng bạc, bão châu, báu pha chi ca, lưu ly, ngọc bích xa bối, chân châu đế thanh, đại thanh, mạc mi, báu thạch tàn, chữ tàn, hoa sen hồng, bố thí cho các hữu tình, hoặc đem vợ, con trai, con gái, tôi tớ lớn nhỏ, người hầu. Voi, ngựa, trâu, dê và thuốc thang bố thí cho các hữu tình, hoặc đem các loại củ báu, kho tàn, thành ấp, xóm làng, môi vu bố thí cho các hữu tình, hoặc đem các bộ phận trên thân như tay chân, xương cốt, đầu mắt, tủy não bố thí cho các hữu tình. Đại Bồ Tát này đem các loại đồ vật để ở ngã tư đường, rồi lên đài cao khứng lên như vậy, tất cả hữu tình có cần vật gì thì cứ đến lấy đừng sanh nghi ngờ, hãy lấy như lấy vật của mình đừng có tưởng là lấy vật của người khác, cho đến thân ta, tay chân, xương cốt, đầu mắt, tủy não ai có cần gì thì cứ tùy ý lấy, đối với các ông ta không có tiếc trẻ. Sau khi bố thí cho các hữu tình những vật cần dùng rồi, Đại Bồ Tát này lại khuyến khích họ quy y vật, phát, tăng, hoặc khuyến khích họ thọ trị năm giới trận sự, hoặc khuyến khích họ trị tám giới trận trụ, hoặc khuyến khích họ trị nghiệp đạo thập thiện, hoặc khuyến khích tu học tình lựu thứ nhất cho đến tình lựu thứ tư, hoặc khuyến khích tu học từ vô lượng cho đến xã vô lượng, hoặc khuyến khích tu học định không vô biên xứ cho đến định phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc khuyến khích tu học tùy niệm về Phật cho đến tùy niệm về Thiên, hoặc khuy khuyên tu học quán bất tịnh, quán hơi thở, hoặc khuyên tu học tưởng vô thường cho đến tưởng diệt, hoặc khuyên tu học bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, hoặc khuyên tu học ba môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, hoặc khuyên người tu học tám giải thoát cho đến mười biến xứ, hoặc khuyên tu học bố thí ba la mật đa cho đến bát nhã ba la mật đa, hoặc khuyên an trụ vào Pháp nội không cho đến vô tính tự tính không, hoặc khuyên an trụ vào chân như cho đến cảnh giới bất tưng nghi, hoặc khuyên an trụ thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, hoặc khuyên tu học tất cả Pháp môn Đà La Ni, Pháp môn Tam Ma Địa, hoặc khuyên tu học tỉnh quán địa cho đến Như Lai Địa, hoặc khuyên tu học cực khỉ địa cho đến Pháp Vân Địa, hoặc khuyên tu học năm loại mắt, sáu phép thần thông, hoặc khuyên tu học mười lực Như Lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng, hoặc khuyên tu học ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc đại sĩ, hoặc khuy tu học trung luân xã, hoặc khuyên tu học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hoặc khuyên tu học quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề, hoặc khuyên tu học tất cả các hành của đại Bồ Tát, hoặc khuyên tu học quả vị vô thường chánh đẳng bồ đề của chiêu Phật. Thế nên, thiện hiện Sau khi thực hành phương tiện thiện xảo bác nhã ba la mật đa sâu xa, bổ thí cuộc cãi cho các hữu tình, các đại Bồ Tát lại khéo an lập các loại hữu tình, giúp họ trụ trong Pháp vô thường an ổn cho đến giúp họ chứng đắc trí nhất thiết trí. Thiện hiện Đó là Pháp kỳ lạ hy hữu mà đại Bồ Tát có được lúc thực hành bác nhã ba la mật đa sâu xa. Thiện hiện Lúc thực hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, các đại Bồ Tát dùng Pháp thí cứu giúp các hữu tình như thế nào? Thiện hiện Pháp thí có hai loại. Đó là Pháp thí thế gian và Pháp thí suốt thế gian. Thế nào là Pháp thí thế gian? Đó là lúc thực hành bác nhã ba la mật đa sâu xa, các đại Bồ Tát giảng nói, khai thị, phân biệt rõ ràng cho các hữu tình nghe về Pháp vi diệu của thế gian như là quán bất tình, đếm hơi thở, hoặc bốn tình lự, hoặc bốn vô lượng, hoặc bốn định vô sắc, hoặc năm thần thông hoặc các Pháp thế gian và phạm phu khác. Như vậy gọi là Pháp thí của thế gian. Thiện hiện Vì sao Pháp này được gọi là Pháp thế gian? Bởi vì học Pháp này thì chưa thể hoàn toàn lịa thế gian nên gọi là thế gian. Thiện hiện Sau khi thực hành Pháp vi diệu của thế gian, đại Bồ Tát này lại tiền đủ cách dạy dỗ các hữu tình giúp họ xa lịa các Pháp thế gian, dùng mọi phương tiện dạy dỗ hữu tình giúp họ trụ ở Thánh Pháp và kết quả của Thánh Pháp. Thiện hiện Thế nào là Thánh Pháp và kết quả của Thánh Pháp? Thiện hiện Thánh Pháp là 37 Pháp bồ đề phần và 3 Pháp môn giải thoát. Kết quả của Thánh Pháp là quả dự lưu cho đến độc giác bồ đề. Thiện hiện Vì sao Pháp này được gọi là xuất thế? Vì học Pháp này có thể hoàn toàn ra khỏi thế gian nên gọi là xuất thế. Lại nữa Thiện hiện Thánh Pháp của các đại Bồ Tát là 6 Ba-la-mật-đa, 8 giải thoát, 8 thắng xứ, 9 định thứ đệ, 10 tiếng xứ, Pháp môn Đa-la-ni, Pháp môn Ta-ma-địa của Bồ Tát, 5 loại mắt, 6 phép thần thông, 10 lực như lai, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại tử, đại bi, đại hỷ, đại xã, 18 Pháp Phật bất cộng, Pháp không quên mất, Tánh Luân Luân xã, Trí Nhất Thiết, Trí Đạo Tướng, Trí Nhất Thiết Tướng, các Pháp vô lậu. Kết quả của Thánh Pháp là cảnh giới Đại Niết Bàn, quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Phật. Lại nữa Thiện hiện Thánh Pháp của các Đại Bồ Tát là trí của quả Dự Lưu, trí của quả Nhất Lai, trí của quả Bất Hoàng, trí của quả A-la-hán, trí của độc giác Bồ Đề, trí của quả vị vô thường chánh đẳng Bồ Đề của Chiêu Phật, trí của 4 niệm trụ cho đến 8 chi Thánh Đạo, trí của Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, trí của 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, trí của 8 giải thoát, 8 thắng xứ, 9 định thứ đệ, 10 tiếng xứ, trí của Bố Thí Ba-la-mật-đa cho đến Bác Nhã Ba-la-mật-� Pháp môn Đà-la-ni, Pháp môn Tam-ma-địa, trí của thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, trí của Pháp nội không cho đến vô tính tự tính không, trí của chân như cho đến cảnh giới bất tương nghị, trí của cực khỉ địa cho đến Pháp vân địa, trí của 5 loại mắt, 6 phép thần thông, trí của tỉnh quán địa cho đến Như Lai địa, trí của 10 lực Như Lai cho đến 18 Pháp Phật bất cộng, trí của 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của Bậc Đại Sĩ, trí của Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xã. Trí của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, trí của Pháp thiện và Pháp ác, trí của Pháp hữu trí, Pháp vô trí, trí của Pháp hữu lậu, Pháp vô lậu, trí của Pháp thế gian và Pháp suốt thế gian, trí của Pháp hữu vi và Pháp vô vi, đó là thánh Pháp. Kết quả của thánh Pháp là giúp trừ vĩnh viễn sự tương tục của tất cả tập khí phiền não. Cụ thọ thiện hiện lại Bạch Phật Bạch Thế Tôn Các Đại Bồ Tát cũng có thể chứng đắc trí nhất thiết tướng phải không? Phật Bảo Thiện Hiện Đúng vậy! Đúng vậy! Các Đại Bồ Tát cũng có thể chứng đắc trí nhất thiết tướng. Cụ thọ thiện hiện lại Bạch Phật Nếu các Đại Bồ Tát cũng có thể chứng đắc trí nhất thiết tướng thì có gì khác với Đức Phật? Phật Bảo Thiện Hiện Các Đại Bồ Tát chứng đắc từng phần trí nhất thiết tướng? Chiêu Phật Thế Tôn đã chứng đắc toàn bộ trí nhất thiết tướng? Vì sao? Chẳng phải các Bồ Tát cùng Chiêu Phật Thế Tôn tự nhiên có khác nhau? Đó là chiêu Bồ Tát cùng Chiêu Phật Thế Tôn đều trụ vào tánh không sai biệt của các Pháp. Người cầu chánh biến tri đối với tất cả các Pháp thì gọi là Bồ Tát, nếu đạt đến cứu cánh thì gọi là Phật Thế Tôn. Nhưng đối với Tự tướng và Cộng tướng của tất cả các Pháp, Đức Phật Thế Tôn soi rõ không mờ, hoàn toàn thanh tịnh. Lúc ở nhân vị thì gọi là Bồ Tát, nếu đến quả vị thì gọi là Phật Thế Tôn. Đó là lý do mà Bồ Tát với Phật Thế Tôn tuy đều chứng đắc trí nhất thiết tướng nhưng có sai khác. Thiện Hiện Đó gọi là Pháp Thí Thế Giang của Đại Bồ Tát. Dựa vào Pháp Thí Thế Giang này, các Đại Bồ Tát lại có thể tu hành Pháp Thí Xuất Thế. Đó là lúc tu hành bác nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, trước tiên các Đại Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo bố thí cho các hữu tình các thiện Pháp của Thế Giang, sau đó làm cho họ ngạm trán Pháp lạnh của Thế Giang, an trụ vào Thánh Pháp vô lộ xuất Thế Giang cho đến làm cho họ đạt được trí nhất thiết trí. Thiện Hiện Thế nào gọi là Thánh Pháp Xuất Thế? Là các Đại Bồ Tát giảng nói, sai thị, phân biệt rõ ràng cho các hữu tình gọi là bố thí Pháp. Thiện Hiện Tất cả các Pháp lạnh không đồng với Phạm Phu, Pháp mà nếu tu đúng đắn thì giúp cho các hữu tình vượt hẳn Thế Giang và sống an ổn, là 37 Pháp Bồ Đề Phần, 3 Môn Giải Thoát, 8 Giải Thoát, 8 Thắng Sướng, 9 Định Thứ Đệ, 10 Biến Sướng, trí 4 Thánh Đế, trí Ba-la-mật-đa và trí của các Pháp không, 10 Địa Bồ Tát, 5 Loại Mắt, 6 Phết Thần Thông, 10 Lực Như Lai, 4 Điều Không Sợ, 4 Sự Hiểu Biết Thông Xuất, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Sả. 18 Pháp Phật Bất Cộng, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Sả, 32 Tướng Tốt, 80 Vẽ Đẹp của Bậc Đại Sĩ, tất cả Pháp Môn Đà-la-Nhi, Pháp Môn Tam-ma-địa. Tất cả Pháp lạnh, vô lậu như vậy đều được gọi là Thánh Pháp Xuất Thế. Đại Bồ Tát nào giảng nói, sai thì, phân biệt rõ ràng cho các hữu tình nghe về các Pháp như vậy thì gọi Bồ Tát Bố Thí Pháp Xuất Thế. Thiện Hiện Trong đây những gì gọi là 37 Pháp Bồ Đề Phân. Đó là 4 Niệm Trụ, 4 Chánh Đoạn, 4 Thần Túc, 5 Căng, 5 Lực, 7 Chi Đặng Giác, 8 Chi Thánh Đạo. Thiện Hiện Đó là 37 Pháp Bồ Đề Phân. Thiện Hiện 4 Niệm Trụ là, đối với nội thân, ngoại thân, nội ngoại thân, Đại Bồ Tát nương theo thân đệ quán với đầy đủ chánh trần, chánh tri, chánh niệm, trừ bỏ tham ái, lo buồn ở đời, dựa vào sự nhóm hợp của thân đệ quán, dựa vào sự hoại diệt của thân đệ quán. Do người kia nương vào thân đệ quán, dựa vào sự nhóm hợp của thân đệ quán, dựa vào sự hoại diệt của thân đệ quán, thấy không có chỗ nương dựa nên không nắm giữ đối với các thế gian. Đó là Pháp Niệm thứ nhất. Đối với họ, đối với tâm, đối với Pháp cũng vậy, gọi là 4 Niệm Trụ. Thiện Hiện 4 Chánh Đoạn là, Đại Bồ Tát vì muốn làm cho Pháp ác chưa sanh vĩnh viễn không sanh, vì muốn làm cho Pháp ác đã sanh vĩnh viễn bị diệt trừ, vì muốn làm cho Pháp lành chưa sanh được sanh, vì muốn làm cho Pháp lành đã sanh bền lâu không mất, và tăng tu tập để chứng đắc trí rộng lớn nên vị ấy phát sanh ý muốn siêng năng tinh tấn, kềm thúc tự tâm. Đó gọi là 4 Chánh Đoạn. Thiện Hiện Bồn Thần Túc là, Đại Bồ Tát tu tập Thần Túc, thành tự đoạn hành nhờ dục Tamma Địa, tu tập Thần Túc, thành tự đoạn hành nhờ cần Tamma Địa, tu tập Thần Túc, thành tự đoạn hành nhờ tâm Tamma Địa, tu tập Thần Túc, thành tự đoạn hành nhờ quán Tamma Địa, dựa vào sự nhảm chán, dựa vào sự lìa bỏ, dựa vào sự tiêu diệt, hồi hướng đối với xã. Đó là 4 Thần Túc. 5 Căng là, Tính Căng, Tinh Tấn Căng, Niềm Căng, Định Căng, Huệ Căng của Đại Bồ Tát. Đó là 5 Căng. Thiện Hiện 5 Lực là, Tính Lực, Tinh Tấn Lực, Niềm Lực, Định Lực, Huệ Lực của Đại Bồ Tát. Đó là 5 Lực. Thiện Hiện 7 Chi Đặng Giác là, Niềm Đặng Giác Chi, Trật Pháp Đặng Giác Chi, Tinh Tấn Đặng Giác Chi, Khỉ Đặng Giác Chi, Xin An Đặng Giác Chi, Định Đặng Giác Chi, Xã Đặng Giác Chi của Đại Bồ Tát. Đó là 7 Chi Đặng Giác. Thiện Hiện 8 Chi Thánh Đạo là, Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nhiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niềm, Chánh Định của Đại Bồ Tát. Đó là 8 Chi Thánh Đạo. Thiện Hiện 3 Môn Giải Thoát là Pháp Môn Không, Vô Tướng, Vô Nguyện của Đại Bồ Tát. Thế nào là Pháp Môn Giải Thoát Không? Đó là Đại Bồ Tát dùng hành tướng rỗng không của vô ngã thu nhiếp tâm về một nẻo. Đó gọi là Không Giải Thoát Môn. Thế nào là Pháp Môn Giải Thoát Vô Tướng? Đó là Đại Bồ Tát dùng hành tướng vắng lặng, tịch diệt thu nhiếp tâm về một nẻo. Đó gọi là Pháp Môn Giải Thoát Vô Tướng. Thế nào gọi là Pháp Môn Giải Thoát Vô Nguyện? Đó là Đại Bồ Tát dùng hành tướng khổ, vô thường thu nhiếp tâm về một nẻo. Đó gọi là Pháp Môn Giải Thoát Vô Nguyện. Thiện Hiện Tám Giải Thoát là Đại Bồ Tát tự có sát quán các sát bên ngoài. Đó là Giải Thoát Thứ Nhất. Tưởng bên trong không có sát quán các sát bên ngoài là Giải Thoát Thứ Hai. Chứng đắc sự thanh tịnh trong thân là Giải Thoát Thứ Ba. Vượt qua tất cả sát tưởng, diệt trừ hữu đối tưởng, không tư duy các loại tưởng, nhập vào định vô biên không không vô biên xứ định và hoàn toàn an trụ trong đó là Giải Thoát Thứ Tư. Vượt qua tất cả không vô biên xứ nhập vào định vô biên thức thức vô biên xứ và an trụ hoàn toàn trong đó là Giải Thoát Thứ Năm. Vượt qua tất cả thức vô biên xứ, nhập vào định vô thiểu sở hữu vô sở hữu xứ và hoàn toàn an trụ trong đó là Giải Thoát Thứ Sáu. Vượt qua tất cả vô sở hữu xứ, nhập vào định phi tưởng phi phi tưởng xứ và hoàn toàn an trụ trong đó là Giải Thoát Thứ Bảy. Vượt qua tất cả phi tưởng phi phi tưởng xứ nhập vào định diệt tưởng thọ và hoàn toàn an trụ trong đó là Giải Thoát Thứ Tám. Thiện hiện Chính định thứ đệ là Đại Bồ-Tát Liên Pháp Dục Ác Bất Thiện, có tầm có tứ, ly xanh hỷ lạc, nhập vào sơ tình lự và an trụ hoàn toàn trong đó là lớp định thứ nhất. Vắng mặt tầm tứ, trong tâm yên tĩnh chỉ còn tánh không tầm không tứ, định xanh hỷ lạc, nhập vào tình lự thứ nhì và hoàn toàn an trụ trong đó là lớp định thứ hai. Ly hỷ, trụ vào xã chánh niệm chánh phi thân thọ lạc mà bật thánh dậy nên xã bỏ, đầy đủ niệm lạc trụ nhập vào tình lự thứ ba và an trụ hoàn toàn trong đó là lớp định thứ ba. Dứt vui dứt khổ khiến vui khổ trước đây chấm dứt, hoàn toàn không còn khổ, không vui, xã niệm thanh tịnh, nhập tình lự thứ tư và an trụ trong đó là lớp định thứ tư, vượt qua tất cả sát tưởng, diệt trừ tưởng hữu đối, không tư duy các loại tưởng, nhập vào định vô biên không không vô biên xứ và hoàn toàn an trụ trong đó là lớp định thứ năm. Như vậy cho đến vượt qua tất cả phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập vào định diệt tưởng thọ và hoàn toàn an trụ trong đó là lớp định thứ chính. Thiện hiện Trí bốn thánh đế là hộ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí của Đại Bồ-Tát. Thiện hiện Ba-la-mật-đa là bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí, ba-la-mật-đa của Đại Bồ-Tát. Đó là ba-la-mật-đa. Thiện hiện Trí về các pháp không là trí hiểu biết pháp nội không cho đến trí vô tính tự tính không, và trí hiểu biết chân nhiều cho đến trí cảnh giới bất tư nghị của Đại Bồ-Tát. Đó là trí của các pháp không. Thiện hiện Tùy địa Bồ-Tát là, cực khỉ địa, ly cấu địa, phát quan địa, dình tuệ địa, cực nang thắng địa, hiền tiền địa, viễn hành địa, bất động địa, thiền tuệ địa, pháp vân địa. Đó là của Đại Bồ-Tát. Thiện hiện Năm loại mắt là, nhục nhãn, thiên nhãn, thánh hội nhãn, pháp nhãn, phật nhãn mà Đại Bồ-Tát đã mong cầu. Thiện hiện Sáu phép thần thông là, các thần thông mà Đại Bồ-Tát tu học như thần cảnh ký chứng thông, thiên nhãn ký chứng thông, thiên nhị ký chứng thông, tha tầm ký chứng thông, đúc trụ tùy niệm ký chứng thông, lầu tận ký chứng thông. Đó là sáu thần thông. Thiện hiện Mười lực như lai là, các như lai ứng chánh đẳng giác đối với đạo lý biết như thật là đạo lý, đối với phi đạo lý biết như thật là phi đạo lý. Đó là lực thứ nhất. Các như lai ứng chánh đẳng giác biết như thật về các nghiệp quá khứ, hiện tại, vị lai của các hữu tình và nhân dị thuộc của các pháp họ thứ. Đó là lực thứ hai. Các như lai ứng chánh đẳng giác biết rõ như thật về đủ loại cảnh giới khác nhau của các chúng sanh là lực thứ ba. Các như lai ứng chánh đẳng giác biết rõ như thật về các loại hiểu biết khác nhau tầm tứ khác nhau là lực thứ tư. Các như lai ứng chánh đẳng giác biết rõ như thật căng cơ hơn kém của các hữu tình và chúng sanh là lực thứ năm. Các như lai ứng chánh đẳng giác biết rõ như thật các hành nghiệp của các cảnh giới là lực thứ sáu. Các như lai ứng chánh đẳng giác biết rõ như thật sự an lập sai khác của tất cả tình lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, tạp nhiễm trong sạch là lực thứ bảy. Các như lai ứng chánh đẳng giác dùng thiên nhãn thanh tình hơn hẳn loại người, thấy các việc thiện ác lúc sống, chết của các loại hữu tình. Do ba nghiệp ác nơi thân, miền, ý, do các tà kiến, do hủy bán thánh hiền nên các hữu tình này đọa vào các đường ác. Nhờ các loại diệu hạnh nơi ba nghiệp thân, miền, ý, nhờ các chánh kiến, nhờ ca ngợi thánh hiền nên hữu tình này sanh vào các đường lành. Các ngài lại dùng thiên nhãn thanh tình hơn loại người, thấy các sắc đẹp, sắc xấu của các hữu tình lúc sống, chết và do đó lại sanh vào các đường lành đường giữ. Như thật biết việc các hữu tình sanh vào đường lành giữ tùy theo thế lực của họ. Đó là lực thứ tám. Các vị như lai ứng chánh đẳng giác biết rõ như thật đối với vô số việc trong đời quá khứ của các hữu tình, biết rõ các việc làm, lời nói, tướng mạo của họ trong một đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời hoặc vô lượng đời hoặc một kiếp, mười kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp hoặc vô lượng kiếp đó là lực thứ chính. Các vị như lai ứng chánh đẳng giác biết rõ như thật về các lậu tần, về tâm giải thoát vô lậu, về tuệ giải thoát vô lậu, đối với pháp giải thoát chân chánh, giúp sạch phiền não, vì ấy chứng đắc thông suốt và hoàn toàn an trụ trong đó, nhận biết như thật sự sống đã hết, không còn tham ái, việc làm đã xong, không còn lung hồi. Đó là lực thứ mười. Đó là mười lực như lai. Thiện hiện Các vị như lai ứng chánh đẳng giác tự xưng, ta là bật chánh đẳng giác. Giả sử có sa môn hoặc ba la môn, hoặc thiên ma và trời phạm thiên vương, hoặc thế gian khác dựa vào pháp để vấn nạn, hoặc làm cho nghĩ nhớ lại đối với pháp này bật chẳng phải là chánh đẳng giác thì đối với sự vấn nạn đó, ta thấy rõ nó không có căng cứu. Do thấy rõ sự vấn nạn ấy là không căng cứu nên ta được an ổn không lo sợ và tự xưng ta ở ngôi vị của Phật Thế Tôn, nên ở giữa đại chúng ta trống tiếng trống của sư tử, chuyển vận bánh xe đại phạm mà tất cả sa môn, ba la môn hoặc thiên ma, phạm thiên hoặc thế gian khác chắc chắn không có ai có thể chuyển vận như pháp ấy. Đó là vô úy thứ nhất. Hoặc các vị như lai ứng chánh đẳng giác tự xưng, ta đã vĩnh viễn diệt sạch các phiền não, giả sử có sa môn, ba la môn, thiên ma, phạm thiên, hoặc các thế giới khác y theo pháp vấn nạn muốn nghĩ làm cho Phật vẫn chưa vĩnh viễn dứt trừ các phiền não này thì đối với sự vấn nạn ấy ta thấy rõ là không căng cứu. Do thấy rõ sự vấn nạn ấy là không căng cứu nên ta được an ổn không lo sợ và tự xưng là ta ở ngôi vị Phật Thế Tôn, ở giữa đại chúng ta trống tiếng trống của sư tử, vận chuyển bánh xe đại phạm mà tất cả sa môn, ba la môn, thiên ma, phạm thiên hoặc các thế gian khác chắc chắn không có ai có thể vận chuyển đúng pháp ấy. Đó là vô úy thứ nhiệt. Hoặc các vị như Lai ứng chánh đẳng giác tự xưng, ta nói cho các đệ tử nghe pháp có thể ngăn cản sự nhiễm ô giả sử có sa môn hoặc ba la môn, hoặc thiên ma, phạm thiên hoặc thế gian khác y pháp vấn nạn hoặc làm cho suy nghĩ có sự nhiễm ô pháp này không thể ngăn cản được thì đối với sự vấn nạn đó ta thấy rõ nó không có căng cứu. Do thấy rõ sự vấn nạn đó là không căng cứu nên ta được an ổn không lo sợ và tự xưng là ta ở môi vị Phật Thế Tôn, ở giữa đại chúng ta trống tiếng trống của sư tử, vận chuyển bánh xe đại phạm mà tất cả sa môn, ba la môn, thiên ma, phạm thiên hoặc các thế gian khác chắc chắn không có ai có thể chuyển vận đúng pháp ấy. Đó là vô úy thứ ba. Hoặc các vị như Lai ứng chánh đẳng giác tự xưng, ta nói cho các đệ tử nghe về đạo Xuất Ly mà các Bậc Thánh tu tập, quyết định Xuất Ly, chắc chắn thông đạt, giúp sạch các khổ đến tận bờ mé. Giả sử có sa môn hoặc ba la môn, hoặc thiên ma, phạm thiên hoặc thế gian khác dựa vào pháp vấn nạn hoặc làm cho suy nghĩ có người nào tu theo đạo này thì chẳng phải Xuất Ly đúng đắn, chẳng phải thông đạt đúng đắn, chẳng hoàn toàn giúp khổ, không thể vượt hết khổ thì ta thấy rõ sự vấn nạn ấy là không có căng cứu. Do thấy rõ sự vấn nạn ấy là không căng cứu nên ta được an ổn, không lo sợ, và tự xưng là ta ở ngôi vị Phật Thế Tôn, ở giữa đài chúng ta trống tiếng trống của sư tử, vận chuyển bánh xe đại phạm mà tất cả sa môn, ba la môn, thiên ma, phạm thiên hoặc các thế gian khác chắc chắn không có ai có thể chuyển vận đúng pháp ấy. Đó là vô úy thứ tư. Đó là bốn vô sợ úy. Thiện hiện Bốn vô ngại giải là Nghĩa vô ngại giải, Pháp vô ngại giải, Từ vô ngại giải và Biện vô ngại giải. Thiện hiện Thế nào là Nghĩa vô ngại giải? Đó là trí biết rõ Nghĩa lý không bị ngưng trễ. Thế nào là Pháp vô ngại giải? Đó là trí không bị ngăng ngại đối với giáo Pháp. Thế nào là Từ vô ngại giải? Đó là trí thông đạt về ngôn từ. Thế nào là Biện vô ngại giải? Đó là trí biện bác, nói năng không bị ngưng trễ. Thiện hiện Mười tám Pháp Phật bất cộng là các vị như Lai ứng chánh đẳng giác thường không làm lỗi, không nói giọng thô bạo, ý niệm không sai sót, tầm luôn ở thắng định, không có các loại tưởng, luôn lừa chọn xả bỏ, không lùi mất ý muốn làm việc thiện, tinh tấn không giảm, nhớ nghĩ không thối chuyển, trí tuệ không thối chuyển, giải thoát không thối chuyển, giải thoát tri chiến không thối chuyển, trí tuệ hiểu biết về đời quá khứ không bị dính mắt, ngăng ngại, trí tuệ hiểu biết về đời hiện tại không bị dính. Mắt, ngăng ngại, trí tuệ hiểu biết về đời vì Lai không bị dính mắt, ngăng ngại, tất cả thân nghiệp đều được trí tuệ dẫn dắt và chuyển động theo trí tuệ, tất cả nữ nghiệp được trí dẫn dắt và chuyển vận theo trí huệ, tất cả ý nghiệp được trí dẫn dắt và chuyển vận theo trí huệ. Đó là mười tám Pháp Phật bất cộng. Lại nửa thiện hiện 32 tướng tốt của Bậc Đại sĩ là 1. Lòng bàn chân bằng phẳng đầy đặng giống như đáy hộp, tuy đất gập gần nhưng hãy bước đến chỗ nào thì bàn chân liền tiếp xúc đều với mặt đất, không có chỗ nào chẳng tiếp xúc. Đó là tướng thứ nhất. 2. Dưới chân như Lai có hoa văn hình bánh xe ngàn trăm, các tướng vành và trục đều tròn trịa. Đó là tướng thứ hai. 3. Tay chân như Lai đều mềm dịu như bông đổ la, bông sợi, hơn hết tất cả. Đó là tướng thứ ba. 4. Giống như nhạn chúa giữa các ngón tay ngón chân của như Lai đều có màn da và hoa văn bằng màu vàng đồng giao nhau như bức tranh theo. Đó là tướng thứ tư. 5. Các ngón tay ngón chân của như Lai tròn trịa thon dài rất khả ái. Đó là tướng thứ năm. 6. Góc chân như Lai rộng dài đầy đặn, tương xứng với mu bàn chân, hơn hẳn các hữu tình khác. Đó là tướng thứ sáu. 7. Mu bàn chân của như Lai dài, cao, đầy đặn, mềm mại, xinh đẹp, tương xứng với góc chân. Đó là tướng thứ bảy. 8. Hai bắp chân như Lai tuần tự thon tròn như bắp chân của Nai chúa Ê Nê Gia Tiên. Đó là tướng thứ tám. 9. Đôi cánh tay như Lai tròn trịa dài thẳng như vòi voi chúa, khi đứng thẳng thì đụng gối. Đó là tướng thứ chính. 10. Âm tướng của như Lai ẩn kính giống như lông mã hoặc như voi chúa. Đó là tướng thứ mười. 11. Mỗi lỗ chân lông của như Lai đều sanh một sợi lông mềm mại xanh đít xoay về phía phải. Đó là tướng thứ mười một. 12. Lông tóc như Lai ngay thẳng và lướt lên trên xoay về phía phải mềm mại xanh đít, tràn nghiêm thân kim sắt trất xinh đẹp. Đó là tướng thứ mười hai. 13. Da trên thân như Lai mịn, mỏng, trơn, láng, bụi, đất, nước, đều không thể bám. Đó là tướng thứ mười ba. 14. Da trên thân như Lai thuần một màu vàng rộng, sáng sạch, lóng lánh như đài bằng vàng xinh đẹp được các vật báo trang sức mọi người đều thích. Đó là tướng thứ mười bốn. 15. Bảy chỗ là lòng hai bàn chân, lòng hai bàn tay, cổ và hai vai của như Lai đều đầy đặn. Đó là tướng thứ mười lăm. 16. Vai, ốc như Lai tròn trịa xinh đẹp. Đó là tướng thứ mười sáu. 17. Bắp tay và nách như Lai đều đầy đặn. Đó là tướng thứ mười bảy. 18. Dung mạo như Lai cao lớn, ngay thẳng. Đó là tướng thứ mười tám. 19. Thân tướng như Lai cao lớn trang nghiêm. Đó là tướng thứ mười chín. 20. Thể tướng như Lai cao rộng, tròn đầy như cây nặc cụ đà. Đó là tướng thứ hai mươi. 21. Cầm, ngực và nửa thân trên của như Lai oai phong rộng lớn như sư tử chúa. Đó là tướng thứ hai mươi mốt. 22. Quanh mình như Lai thường có ánh sáng chiếu ra một tầm. Đó là tướng thứ hai mươi hai. 23. Như Lai có bốn mươi trái răng đều đặn, bằng phẳng, kính, sạch, gốc sâu, trắng hơn ngọc kha tuyết. Đó là tướng thứ hai mươi ba. 24. Bốn răng cửa của như Lai trắng đẹp, bén. Đó là tướng thứ hai mươi bốn. 25. Như Lai ăn gì cũng biến thành vị ngon nhất trong các vị. Đó là tướng thứ hai mươi lăm. 26. Tướng lưỡi như Lai mỏng, sạch, dài, rộng có thể che kính mặt cho đến tai và mí tóc. Đó là tướng thứ hai mươi sáu. 27. Phạm âm của như Lai có từng nữ và âm vận rộng và tao nhã, dù chúng nhiều ít cũng đều nghe được âm thanh vang rền giống như tiếng trống trời, phát ngôn thánh thoát như tiếng chim tần ca. Đó là tướng thứ hai mươi bảy. 28. Lòng mì như Lai giống như mì trâu chúa xanh biếc, ngay thẳng, không lẫn lộn nhau. Đó là tướng thứ hai mươi tám. 29. Con ngươi mắt của như Lai xanh biếc, trắng trông, có vòng hồng trăng sức xung quanh, lóng lánh, rõ ràng. Đó là tướng thứ hai mươi chín. 30. Khuôn mặt như Lai giống như trăng trầm, lông mầy sáng và sạch như cây cung của vua trời. Đó là tướng thứ ba mươi. 31. Giữa chặng mầy như Lai có tướng lông trắng mềm mại, xoay qua phải như bông đỗ la, trắng trông sáng sạch hơn ngọc kha tuyết. Đó là tướng thứ ba mươi mốt. 32. Nhục kế trên đảnh của như Lai nhô cao tròn trị giống như lộng trời. Đó là tướng thứ ba mươi hai. Đó là ba mươi hai tướng tốt của bậc Đại sĩ.

Listen Next

Other Creators