Details
Nothing to say, yet
Nothing to say, yet
This transcription is discussing the concept of "tinh tấn Ba La Mật Đa," which is a Buddhist term that refers to the highest level of spiritual practice. It emphasizes that one should not cling to any particular mindset or concept, such as normal or abnormal, virtue or non-virtue, or pure or impure. It states that these distinctions are not the true nature of reality and that one should strive to transcend them. The transcription repeats this message several times, using different words and examples to illustrate the same point. Overall, it suggests that true spiritual practice requires letting go of all conceptualizations and embracing the ultimate truth. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập 7, Quyển 155, xxx Phẩm So Sánh Công Đức 53. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tinh tấn Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán trí nhất thiết hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì trí nhất thiết và tử tánh của trí nhất thiết là không, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tử tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Tử tánh của trí nhất thiết ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có trí nhất thiết V. V, có thể nắm bắt được, húng là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán trí nhất thiết hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì trí nhất thiết và tử tánh của trí nhất thiết là không, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tử tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Tử tánh của trí nhất thiết ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có trí nhất thiết V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán trí nhất thiết hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì trí nhất thiết và tử tánh của trí nhất thiết là không, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tử tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Tử tánh của trí nhất thiết ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có trí nhất thiết V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán trí nhất thiết hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì trí nhất thiết và tử tánh của trí nhất thiết là không, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tử tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Tử tánh của trí nhất thiết ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có trí nhất thiết V, V, có thể nắm bắt được, cũng là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đề, tuyên thuyết tinh tấn Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn Đà La Nhi hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà La Nhi và tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Nhi là không, tất cả pháp môn Tam Ma Địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không. Tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Nhi ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, tất cả pháp môn Đà La Nhi chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tất cả pháp môn Tam Ma Địa đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có tất cả pháp môn Đà La Nhi v.v. có thể nắm bắt được, cũng là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn Đà La Nhi hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà La Nhi và tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Nhi là không, tất cả pháp môn Tam Ma Địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không. Tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Nhi ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, tất cả pháp môn Đà La Nhi chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tất cả pháp môn Tam Ma Địa đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả pháp môn Đà La Nhi v.v. có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện Nam tử. Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa chẳng nên quán tất cả pháp môn Đà La Nhi hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà La Nhi và tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Nhi là không, tất cả pháp môn Tam Ma Địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không. Tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Nhi ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, tất cả pháp môn Đà La Nhi chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tất cả pháp môn Tam Ma Địa đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả pháp môn Đà La Nhi v.v. có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn Đà La Nhi hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà La Nhi và tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Nhi là không, tất cả pháp môn Tam Ma Địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không. Tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Nhi ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, tất cả pháp môn Đà La Nhi chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, tất cả pháp môn Tam Ma Địa đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả pháp môn Đà La Nhi Vê. Vê có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân Vê, Vê, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân Vê, Vê vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tinh tấn Ba La Mật Đa thì nói thế này, Thiện Nam Tử! Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa chẳng nên quán dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à la hán hướng, à la hán quả hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì dự lưu hướng, dự lưu quả và tử tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả là không, nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à la hán hướng, à la hán quả và tử tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả là không. Tử tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, dự lưu hướng, dự lưu quả chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhất lai hướng cho đến à la hán quả đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có dự lưu hướng, dự lưu quả v, v, có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à la hán hướng, à la hán quả hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì dự lưu hướng, dự lưu quả và tử tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả là không, nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à la hán hướng, à la hán quả và tử tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả là không. Tử tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, dự lưu hướng, dự lưu quả chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhất lai hướng cho đến à la hán quả đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có dự lưu hướng, dự lưu quả v.v. có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à la hán hướng, à la hán quả hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì dự lưu hướng, dự lưu quả và tử tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả là không, nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàng hướng, bất hoàng quả, à la hán hướng, à la hán quả và tử tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả là không. Tử tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, dự lưu hướng, dự lưu quả chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhất lai hướng cho đến à la hán quả đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có dự lưu hướng, dự lưu quả V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, Thiện Nam Tử. Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán dự lưu hướng, dự lưu quả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàn hướng, bất hoàn quả, à la hán hướng, à la hán quả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì dự lưu hướng, dự lưu quả và tự tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả là không, nhất lai hướng, nhất lai quả, bất hoàn hướng, bất hoàn quả, à la hán hướng, à la hán quả và tự tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả là không. Tự tánh của dự lưu hướng, dự lưu quả ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của nhất lai hướng cho đến à la hán quả ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, dự lưu hướng, dự lưu quả chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhất lai hướng cho đến à la hán quả đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có dự lưu hướng, dự lưu quả v.v. có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết tinh tấn Ba La Mật Đa thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tất cả quả vị độc giác hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tất cả quả vị độc giác và tự tánh của tất cả quả vị độc giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị độc giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, tất cả quả vị độc giác chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả quả vị độc giác có thể nắm bắt được, cũng là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán tất cả quả vị độc giác hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tất cả quả vị độc giác và tự tánh của tất cả quả vị độc giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị độc giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, tất cả quả vị độc giác chẳng thể nắm bắt được thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả quả vị độc giác có thể nắm bắt được, cũng là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa chẳng nên quán tất cả quả vị độc giác hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tất cả quả vị độc giác và tự tánh của tất cả quả vị độc giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị độc giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, tất cả quả vị độc giác chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả quả vị độc giác có thể nắm bắt được, cũng là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa chẳng nên quán tất cả quả vị độc giác hoặc tình, hoặc bất tình. Vì sao? Vì tất cả quả vị độc giác và tự tánh của tất cả quả vị độc giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị độc giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, tất cả quả vị độc giác chẳng thể nắm bắt được thì cái tình, bất tình kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả quả vị độc giác có thể nắm bắt được, huống là có cái tình và bất tình kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v. vì người phát tâm vô thường bồ đề, tuyên thuyết tinh tấn Ba La Mật Đa thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa chẳng nên quán tất cả hành đại Bồ Tát hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tất cả hành đại Bồ Tát và tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát là không. Tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, tất cả hành đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả hành đại Bồ Tát có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa chẳng nên quán tất cả hành đại Bồ Tát hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tất cả hành đại Bồ Tát và tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát là không. Tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, tất cả hành đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả hành đại Bồ Tát có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa chẳng nên quán tất cả hành đại Bồ Tát hoặc lạc, hoặc vô lạc. Vì sao? Vì tất cả hành đại Bồ Tát và tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát là không. Tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, tất cả hành đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được thì cái lạc, vô lạc kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả hành đại Bồ Tát có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và vô lạc kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, Thiện Nam tử. Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa chẳng nên quán tất cả hành đại Bồ Tát hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tất cả hành đại Bồ Tát và tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát là không. Tự tánh của tất cả hành đại Bồ Tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, tất cả hành đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả hành đại Bồ Tát có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Này Triều Thi Ca. Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Triều Thi Ca. Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V, V, vì người phát tâm vô thường Bồ Đệ, tuyên thuyết tinh tấn Ba La Mật Đa, thì nói thế này, Thiện Nam Tử. Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không. Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được thì trái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có trái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, Thiện Nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không. Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được, thì trái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có trái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc lạc, hoặc vô lạc. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không. Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không? Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba La Mật Đa. Đối với tinh tấn Ba La Mật Đa này, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Khi ấy, Trời đế thích lại Bạch Phật, Bạch Thế Tôn. Các Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. nói an nhẫn Ba La Mật Đa vô sở đắc như thế nào mà gọi là nói an nhẫn Ba La Mật Đa một cách chân chánh? Phật dạy, này Kiều Thi Ca! Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân V.V. vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa thì nói thế này, Thiện Nam Tử! Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán sát hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì sát và tự tánh của sát là không, thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sát ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, sát chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có sát V. V, có thể nắm bắt được, cũng là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán sát hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì sát và tự tánh của sát là không, thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sát ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, sát chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có sát v, v, có thể nắm bắt được, hũn là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tưởng. Ngươi nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán sát hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì sát và tự tánh của sát là không, thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sát ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, sát chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có sát v, v, có thể nắm bắt được, húng là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tưởng. Ngươi nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán sát hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh. Vì sao? Vì sát và tự tánh của sát là không, thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sát ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, sát chẳng thể nắm bắt được, thì cái tỉnh, bất tỉnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái tỉnh, bất tỉnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có sát V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái tỉnh và bất tỉnh kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử! Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quá nhãn sứ hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quá nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì nhãn sứ và tự tánh của nhãn sứ là không, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ và tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ là không. Tự tánh của nhãn sứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, nhãn sứ chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn sứ V. V có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhãn sứ hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì nhãn sứ và tự tánh của nhãn sứ là không, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ và tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ là không. Tự tánh của nhãn sứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, nhãn sứ chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn sứ V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này thì nam tử, người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa chẳng nên quán nhãn sứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì nhãn sứ và tự tánh của nhãn sứ là không, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ và tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ là không. Tự tánh của nhãn sứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, nhãn sứ chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn sứ v, v, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán nhãn sứ hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh, chẳng nên quán nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ hoặc tỉnh, hoặc bất tỉnh. Vì sao? Vì nhãn sứ và tử tánh của nhãn sứ là không, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ và tử tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ là không. Tử tánh của nhãn sứ ấy tức chẳng phải là tử tánh, tử tánh của nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ ấy cũng chẳng phải là tử tánh. Nếu chẳng phải là tử tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, nhãn sứ chẳng thể nắm bắt được thì cái tỉnh, bất tỉnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý sứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tỉnh, bất tỉnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn sứ V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái tỉnh và bất tỉnh kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Đây Kiều Thi Ca. Thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa một cách chân chánh. Lại nữa, Kiều Thi Ca. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, vì người phát tâm vô thường bồ đệ, tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa, thì nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán sát sứ hoặc thường, hoặc vô thường, chẳng nên quán thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì sát sứ và tự tánh của sát sứ là không, thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ và tự tánh của thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ là không. Tự tánh của sát sứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, sát sứ chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có sát sứ về. Về có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán sát sứ hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì sát sứ và tự tánh của sát sứ là không, thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ và tự tánh của thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ là không. Tự tánh của sát sứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, sát sứ chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có sát sứ V, V có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Người nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa chẳng nên quán sát sứ hoặc ngã, hoặc vô ngã, chẳng nên quán thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì sát sứ và tự tánh của sát sứ là không, thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ và tự tánh của thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ là không. Tự tánh của sát sứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, sát sứ chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có sát sứ v, v, có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Lại nói thế này, thiện nam tử. Ngươi nên tu an nhẫn Ba La Mật Đa, chẳng nên quán sát sứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, chẳng nên quán thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì sát sứ và tự tánh của sát sứ là không, thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ và tự tánh của thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ là không. Tự tánh của sát sứ ấy tức chẳng phải là tự tánh, tự tánh của thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba La Mật Đa. Đối với an nhẫn Ba La Mật Đa này, sát sứ chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được, thanh, hương, vị, xuất, pháp sứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có sát sứ V, V, có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu người có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba La Mật Đa. Này Tiều Thi Ca, thiện nam tử, thiện nữ nhân V, V, ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Ba La Mật Đa một cách chân chánh.